Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giáo trình đánh giá tác động môi trường
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PGS.TS. ĐẶNG VĂN MINH (chủ biên)
PGS.TS. ĐỖ THỊ LAN, TS. NGUYỄN CHÍ HIỂU,
ThS. DƯƠNG THỊ MINH HÒA
ISBN 978-604-60-1099-9
GIÁO TRÌNH
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
(Dùng cho đào tạo bậc đại học)
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
Hà Nội - 2013
2
3
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6
Chương 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 7
1.1. Lịch sử hình thành và sự phát triển đánh giá tác động môi trường 7
1.2. Mục đích, ý nghĩa của đánh giá tác động môi trường 11
1.3. Định nghĩa và nội dung cơ bản của đánh giá tác động môi trường 13
1.4. Mối quan hệ giữa đánh giá tác động môi trường với phát triển kinh tế
và các công cụ quản lý môi trường 14
1.5. Tổ chức và quản lý công tác đánh giá tác động môi trường 22
1.6. Phân cấp dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường
ở Việt Nam 26
Chương 2. LẬP CAM KẾT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 28
2.1. Đối tượng phải lập, đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường 28
2.2. Thời điểm đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường 29
2.3. Nội dung bản cam kết bảo vệ môi trường 29
2.4. Hồ sơ đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường 34
2.5. Tổ chức đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường 34
2.6. Quy trình đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường 35
2.7. Cách viết bản cam kết bảo vệ môi trường 35
2.8. Quản lý thực hiện bản cam kết bảo vệ môi trường sau khi bản cam kết
bảo vệ môi trường được đăng ký 37
Chương 3. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 39
3.1. Chu trình dự án và trình tự thực hiện đánh giá tác động môi trường 39
3.2. Tổ chức thực hiện đánh giá tác động môi trường 48
3.3. Cấu trúc, yêu cầu về nội dung của báo cáo đánh giá tác động
môi trường 49
3.4. Các bước thực hiện đánh giá tác động môi trường chi tiết 51
3.5. Ví dụ về đánh giá tác động môi trường của một số dự án cụ thể 64
4
Chương 4. ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG CHIẾN LƯỢC 77
4.1. Khái niệm về đánh giá môi trường chiến lược 77
4.2. Vai trò và ý nghĩa của lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược 77
4.3. Các nguyên tắc cho một đánh giá môi trường chiến lược hiệu quả 78
4.4. Các mối liên kết trong quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch và quá trình đánh giá môi trường chiến lược 80
4.5. Các điều kiện tiên quyết để thực hiện đánh giá môi trường chiến lược 82
4.6. Cách tiếp cận và phương pháp đánh giá môi trường chiến lược 83
4.7. Quy trình đánh giá môi trường chiến lược 84
Chương 5. PHƯƠNG PHÁP NHẬN DẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
MÔI TRƯỜNG 108
5.1. Nhận dạng tác động 108
5.2. Chỉ thị và chỉ số môi trường 113
5.3. Phương pháp đánh giá các tác động môi trường 114
Chương 6. QUẢN LÝ VÀ GIÁM SÁT CÁC TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 134
6.1. Chương trình quản lý môi trường 134
6.2. Chương trình quan trắc, giám sát môi trường 138
TÀI LIỆU THAM KHẢO 145
5
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, nội dung môn học Đánh giá tác động môi trường luôn luôn
thay đổi cùng với sự thay đổi của chương trình giảng dạy, đặc biệt là sau khi đổi mới
chương trình đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành giáo dục trong giai
đoạn hiện nay. Đây là môn học quan trọng trong chương trình đào tạo đại học ngành
Khoa học Môi trường và một số chuyên ngành khác có liên quan.
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, môi trường và tài nguyên thiên
nhiên ngày càng chịu nhiều tác động tiêu cực. Ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường và
sự suy giảm tài nguyên thiên nhiên là hậu quả trực tiếp của tác động do các dự án,
chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển thiếu sự thân thiện với môi trường. Môn
học Đánh giá tác động môi trường sẽ cung cấp các kiến thức cơ bản và thực tiễn cho
sinh viên về lĩnh vực này.
Giáo trình Đánh giá tác động môi trường được biên soạn bởi tập thể tác giả
Khoa Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên:
PGS.TS. Đặng Văn Minh chủ biên và biên soạn chương 4,5; PGS.TS. Đỗ Thị Lan biên
soạn chương 2, 3; TS. Nguyễn Chí Hiểu biên soạn chương 1; ThS. Dương Minh Hòa
biên soạn chương 6. Giáo trình phục vụ cho việc giảng dạy môn Đánh giá tác động môi
trường thuộc chuyên ngành Khoa học Môi trường và các chuyên ngành khác có liên
quan ở bậc đại học.
Nội dung chính trong giáo trình này bao gồm 6 chương.
Chương 1: Giới thiệu chung về Đánh giá tác động môi trường
Chương 2: Lập cam kết bảo vệ môi trường
Chương 3: Đánh giá tác động môi trường
Chương 4: Đánh giá môi trường chiến lược
Chương 5: Phương pháp nhận dạng và đánh giá các tác động môi trường
Chương 6: Quản lý và giám sát các tác động môi trường
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã tham khảo nhiều tài liệu khoa học, các báo
cáo và văn bản pháp quy cũng như kết quả nghiên cứu có liên quan tới lĩnh vực đánh
giá tác động môi trường ở trong và ngoài nước. Tuy đã có nhiều cố gắng, song chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tập thể tác giả mong nhận được sự góp ý của
các nhà chuyên môn, thầy cô giáo, học viên và độc giả trong và ngoài trường để cuốn
giáo trình này ngày càng được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Các tác giả
6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Viết đầy đủ
AQI Chỉ số chất lượng không khí
BSI Chỉ số động vật đáy
BTNMT Bộ Tài nguyên và Môi trường
BVMT Bảo vệ môi trường
CKBVMT Cam kết bảo vệ môi trường
CP Chính phủ
CQK Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
ĐMC Đánh giá môi trường chiến lược
ĐTM Đánh giá tác động môi trường
ĐDSH Đa dạng sinh học
GDP Chỉ số tăng trưởng kinh tế theo tổng thu nhập quốc nội
GT Giao thông
HDI Chỉ số phát triển nhân lực
KT-XH Kinh tế - xã hội
MT Môi trường
NĐ Nghị định
PSI Chỉ số tiêu chuẩn ô nhiễm
PTBV Phát triển bền vững
QLMT Quản lý môi trường
QCKT Quy chuẩn kỹ thuật
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
QHSDĐ Quy hoạch sử dụng đất
QHKTXH Quy hoạch kinh tế xã hội
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TNTN Tài nguyên thiên nhiên
UNEP Chương trình Môi trường Liên hợp quốc
UBND Ủy ban nhân dân
VSTP Vệ sinh thực phẩm
WQI Chỉ số chất lượng nước
7
Chương 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ
TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
1.1. Lịch sử hình thành và sự phát triển đánh giá tác động môi trường
1.1.1. Trên thế giới
Xét về tính chất công việc thì hoạt động đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đã có
từ rất lâu. Song, nếu xét thời gian mà công việc này được gọi tên, được thừa nhận thì
người ta thường lấy năm 1969, năm thông qua Đạo luật chính sách môi trường của Mỹ
làm thời điểm ra đời của ĐTM. Trong Đạo luật này có những điều quy định, yêu cầu
phải tiến hành ĐTM của các hoạt động lớn, quan trọng, có thể gây tác động đáng kể tới
môi trường.
Một số thuật ngữ đã được đưa ra liên quan tới quá trình tuân thủ Đạo luật chính
sách môi trường của Mỹ. Trong đó, ba thuật ngữ quan trọng nhất là:
Kiểm kê hiện trạng môi trường - Environmental Inventory
Đánh giá tác động môi trường - Environmental Impact Assessment (EIA)
Tường trình tác động môi trường - Environmental Impact Statement (EIS)
- Kiểm kê hiện trạng môi trường là hoạt động nhằm mô tả toàn diện về môi trường
đang tồn tại ở vùng dự định đặt dự án hoặc vùng có các hoạt động về môi trường xảy ra.
Việc kiểm kê phải đề cập đến môi trường lý hóa như: thổ nhưỡng, địa chất, địa hình, khí
hậu, nước mặt, nước ngầm, chất lượng không khí, chất lượng nước,...; Môi trường sinh
học như: các loài động vật, thực vật, đa dạng sinh học, khả năng phát triển, suy thoái
của các loài; Môi trường nhân văn như: các điểm khảo cổ, di tích lịch sử, văn hóa, danh
lam thắng cảnh, bảo tàng và thư viện,...; Môi trường kinh tế xã hội như: xu thế tăng dân
số, phân bố dân số, mức sống, hệ thống giáo dục, mạng lưới giao thông, cơ sở hạ tầng,
cấp thoát nước, quản lý rác, dịch vụ công cộng như công an, cứu hoả, bảo hiểm y tế,...
- Đánh giá tác động môi trường được định nghĩa là sự xác định, đánh giá các tác
động (hoặc ảnh hưởng) có thể xảy ra của các dự án, các quy hoạch phát triển hoặc của
các quy định, luật pháp liên quan tới môi trường. Mục đích của ĐTM trước hết là
khuyến khích việc xem xét các khía cạnh môi trường trong việc lập quy hoạch hoặc ra
quyết định đối với các dự án, các hoạt động phát triển để có thể lựa chọn, thực thi dự án
hoạt động có lợi cho môi trường hơn.
- Tường trình tác động môi trường hay báo cáo ĐTM của một dự án là văn bản
chính yếu, tường trình tất cả kết quả của công tác ĐTM.
8
Như vậy, rõ ràng với sự ra đời của Đạo luật chính sách môi trường của Mỹ, mục
tiêu, ý nghĩa, thủ tục thi hành ĐTM đã được xác định bằng văn bản. Hệ thống pháp lý
cùng với các cơ quan quản lý, điều hành được ban hành và thành lập đảm bảo cho việc
thực hiện ĐTM nhanh chóng đi vào nề nếp.
Sau Mỹ, ĐTM đã được áp dụng ở nhiều nước. Nhóm các nước và vùng lãnh thổ
sớm thực hiện công tác này là: Nhật, Singapo và Hồng Kông (1972), tiếp đến là Canađa
(1973), Úc (1974), Đức (1975), Pháp (1976), Philippin (1977), Trung Quốc (1979). Như
vậy, không phải chỉ có các nước lớn có nền công nghiệp phát triển mà ngay cả các nước
nhỏ, đang phát triển cũng đã nhận thức được các vấn đề môi trường và vai trò của ĐTM
trong việc giải quyết các vấn đề này. Chỉ trong vòng 20 năm, ĐTM đã được rất nhiều
nước xem xét, áp dụng. Tuy nhiên, yêu cầu đối với ĐTM, thủ tục thực hiện có khác
nhau giữa các nước và thường thể hiện ở các điểm sau:
- Loại dự án cần phải ĐTM.
- Vai trò của cộng đồng trong ĐTM.
- Thủ tục hành chính.
- Các đặc trưng lược duyệt.
Ngoài các quốc gia, các tổ chức quốc tế cũng rất quan tâm đến công tác ĐTM. Ta
có thể kể ra những tổ chức có nhiều đóng góp cho công tác này:
- Ngân hàng thế giới (WB)
- Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
- Chương trình phát triển quốc tế của Mỹ (USAID)
- Chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP)
Các ngân hàng lớn đã có những hướng dẫn cụ thể cho công tác ĐTM đối với các dự
án vay vốn của mình. Tiếng nói của các ngân hàng có hiệu lực lớn vì họ nắm trong tay
nguồn tài chính mà các chủ dự án rất cần để triển khai dự án của mình. Một công việc
mà các tổ chức này thực hiện rất có hiệu quả là mở các khóa học về ĐTM ở nhiều nơi
trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
1.1.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, vào thời điểm hình thành ĐTM, chúng ta chưa có điều kiện tiếp cận
lĩnh vực này. Phải đến đầu những năm 80, các nhà khoa học Việt Nam mới tiếp cận
công tác ĐTM thông qua các hội thảo khoa học và các khóa đào tạo. Chính phủ Việt
Nam cũng sớm nhận thức được vấn đề bảo vệ môi trường và ĐTM nên đã tạo điều kiện
cho các cơ quan, cá nhân tiếp cận các lĩnh vực này. Đầu những năm 80, một nhóm các
nhà khoa học Việt Nam, đứng đầu là Giáo sư Lê Thạc Cán đã đến Trung tâm Đông -
Tây ở Ha - Oai nước Mỹ nhằm nghiên cứu về luật, chính sách môi trường nói chung và
ĐTM nói riêng.
9
Sau năm 1990, Nhà nước ta cho tiến hành chương trình nghiên cứu môi trường
mang mã số kinh tế 02, trong đó có một đề tài trực tiếp nghiên cứu về ĐTM, đề tài
mang mã số KT 02 - 16 do Giáo sư Lê Thạc Cán chủ trì. Trong khuôn khổ đề tài này,
một số báo cáo ĐTM mẫu đã được lập, đáng chú ý là báo cáo ĐTM của nhà máy giấy
Bãi Bằng và ĐTM công trình thuỷ lợi Thạch Nham. Mặc dù chưa có Luật Bảo vệ môi
trường và các điều luật về ĐTM song Nhà nước đã yêu cầu một số dự án phải có báo
cáo ĐTM, chẳng hạn như công trình thuỷ điện Trị An, nhà máy lọc dầu Thành Tuy Hạ.
Việc biên soạn, thông qua và ban hành Luật Bảo vệ môi trường đã mở ra một bước
ngoặt trong công tác bảo vệ môi trường nói chung và ĐTM nói riêng ở nước ta. Luật đã
được Quốc hội thông qua lần đầu tiên vào ngày 27/12/1993 và Chủ tịch nước ra Quyết
định công bố số 29L/CTN ngày 10/01/1994. Hơn 10 năm sau đó, Luật Bảo vệ môi
trường sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 29 tháng 01 năm 2005.
Trong Luật Bảo vệ môi trường đã quy định rõ các dự án đang hoạt động và dự án
muốn hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam phải lập báo cáo ĐTM và trình các cấp có thẩm
quyền xét duyệt.
Sau khi luật ra đời, nhiều báo cáo ĐTM đã được thẩm định góp phần giúp những
người ra quyết định có thêm tài liệu để xem xét toàn diện các dự án phát triển ở Việt
Nam.
Cùng với việc ban hành luật, Nhà nước cũng đã ban hành rất nhiều văn bản pháp
luật dưới dạng các nghị định của Chính phủ, các quyết định, thông tư của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, trong đó quy định cụ thể việc thực hiện và hướng dẫn các đơn
vị, tổ chức, cá nhân thực hiện ĐTM trong thực tế. Nhờ đó, ĐTM cho đến nay đã trở
thành một công việc phổ biến, nằm trong khung pháp luật của Nhà nước mà tất cả các
dự án đều thực hiện.
Hiện nay, ở Việt Nam đã có một đội ngũ tương đối đông đảo những người làm
công tác ĐTM, trong đó có nhiều chuyên gia được đào tạo trong và ngoài nước,
bước đầu đã tập hợp được những kinh nghiệm quý báu qua những công trình đã
đánh giá thực tế. Việc thực hiện ĐTM ở Việt Nam cũng còn những vấn đề tồn tại
cần tiếp tục giải quyết, tuy nhiên, có thể nói cho đến nay hệ thống văn bản pháp lý
cho thực hiện ĐTM đã tương đối đầy đủ và tiếp cận được yêu cầu của thực tế. Việc
thực hiện ĐTM đã dần đi vào nề nếp và đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển
bền vững của đất nước.
Nội dung và quy trình thực hiện ĐTM tại Việt Nam đã có những thay đổi và phát
triển theo từng thời kỳ. Quy trình thực hiện ĐTM trước đây ở Việt Nam còn đơn giản và
lạc hậu so với quy trình chung của thế giới, nhưng cho đến nay đã được điều chỉnh phù
hợp hơn. Các yêu cầu và chất lượng của các báo cáo ĐTM cũng đã được nâng cao rõ rệt
nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển KT-XH và yêu cầu bảo vệ môi trường.
10
Tóm lược nội dung thực hiện ĐTM ở Việt Nam qua các thời kỳ:
a) Giai đoạn 1993 đến 2005
Trong thời gian từ sau khi có Luật Bảo vệ môi trường (năm 1993) cho đến trước khi
có Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi (năm 2005), thì việc thực hiện ĐTM ở Việt Nam
được quy định chậm hơn một bước so với thế giới, cụ thể là:
- Giai đoạn lập báo cáo đầu tư (Nghiên cứu tiền khả thi): chỉ sàng lọc dự án để xem
dự án loại nào phải thực hiện ĐTM. Sàng lọc dự án dựa theo quy định của Nhà nước
được quy định trong Thông tư số 490/1998/TT-BKHCNMT ngày 29/4/1998 của Bộ
Khoa học và Công nghệ Môi trường hướng dẫn lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác
động môi trường đối với các dự án đầu tư;
- Giai đoạn lập dự án đầu tư (Nghiên cứu khả thi): quy định thực hiện đánh giá tác
động môi trường sơ bộ;
- Giai đoạn thiết kế kỹ thuật: quy định lập báo cáo ĐTM chi tiết và trình thẩm định,
phê duyệt;
Nhận xét: Việc thực hiện lập báo cáo ĐTM ở nước ta trong giai đoạn này đã chậm
hơn các nước trên thế giới một bước. Điều đó đã gây nên một số khó khăn và bất cập,
ảnh hưởng đến kết quả của việc thực hiện ĐTM, cụ thể như sau:
+ Phần lớn các dự án đã thiết kế xong thì mới lập báo cáo ĐTM để trình thẩm định.
Không ít dự án đã thi công một số năm mới lập xong báo cáo ĐTM và trình thẩm định.
Vì thế, nếu trong thẩm định có yêu cầu dự án phải có một số thay đổi hoặc bổ sung biện
pháp giảm thiểu, bổ sung thiết kế cho phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường thì một số
phần trong thiết kế phải làm lại gây chậm trễ thời gian và tốn kém kinh phí. Điều này
khiến cho việc lập báo cáo ĐTM và thẩm định báo cáo nhiều khi trở thành hình thức vì
công trình đã thiết kế xong, rất khó thay đổi;
+ Do không có báo cáo ĐTM tại thời điểm Nhà nước phê duyệt báo cáo nghiên
cứu khả thi và chuẩn bị nguồn vốn cho dự án nên phần lớn các dự án đều không dự trù
được kinh phí cho thực hiện lập báo cáo ĐTM chi tiết cũng như kinh phí cho các biện
pháp giảm thiểu. Vì thế, các kinh phí này phải xin bổ sung sau này rất khó khăn và
chậm chễ, thường phải mượn trong kinh phí của thiết kế kỹ thuật. Khó khăn nhiều cho
thực hiện ĐTM.
b) Giai đoạn từ 2006 đến nay
Để khắc phục sự bất cập trên, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã có sự điều
chỉnh để việc thực hiện ĐTM trong chu trình dự án ở nước ta cũng gần phù hợp với
trình tự thực hiện của thế giới cụ thể như sau:
- Giai đoạn quy hoạch và lập báo cáo đầu tư: Trong hai giai đoạn này, hiện nay Nhà
nước không quy định bắt buộc có phải sàng lọc môi trường hay ĐTM sơ bộ hay không.
11
Tuy nhiên, chủ dự án phải dựa vào phân cấp của Nhà nước (quy định trong Nghị định số
29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 của Chính phủ về đánh giá môi trường chiến lược,
đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường) để “sàng lọc dự án” xem dự
án của mình có phải lập báo cáo ĐTM và trình thẩm định hay không. Nếu dự án thuộc
diện phải lập báo cáo ĐTM thì phải làm công việc chuẩn bị như lập đề cương ĐTM,
chuẩn bị đội ngũ cho việc lập báo cáo ĐTM ở giai đoạn tiếp sau.
Riêng đối với các dự án lập quy hoạch (như dự án quy hoạch phát triển KT-XH
vùng, dự án quy hoạch lưu vực sông,...) thì Nhà nước đã quy định các dự án này phải
lập báo cáo “Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC)” và trình thẩm định phê duyệt.
- Giai đoạn lập dự án đầu tư: nếu các dự án qua sàng lọc ở trên thuộc diện phải lập
báo cáo ĐTM, thì giai đoạn này phải tiến hành ĐTM chi tiết cho dự án và trình thẩm
định, phê duyệt.
- Sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt thì chủ dự án phải thực hiện đúng các cam
kết như trong báo cáo ĐTM, đặc biệt là thực hiện các biện pháp giảm thiểu các tác động
tiêu cực trong các giai đoạn thi công, quản lý vận hành cũng như thực hiện chương trình
giám sát môi trường dự án.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của đánh giá tác động môi trường
Tuy ra đời chính thức chưa lâu, nhưng thuật ngữ ĐTM đã được sử dụng rộng rãi
trên thế giới. Điều đó chứng tỏ khả năng áp dụng công cụ này vào công tác bảo vệ môi
trường ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Để thấy rõ hơn điều này, ta xét kỹ tới mục
đích và ý nghĩa của ĐTM.
ĐTM có thể đạt được nhiều mục đích, Alan Gilpin đã chỉ ra vai trò, mục đích của
ĐTM trong phát triển kinh tế - xã hội với 10 điểm chính sau:
(1) ĐTM nhằm cung cấp một quy trình xem xét tất cả các tác động có hại đến môi
trường của các chính sách, chương trình, hoạt động và của các dự án. Nó góp phần loại
trừ cách “đóng cửa ra quyết định” như trước đây vẫn thường làm, không tính đến ảnh
hưởng môi trường trong các khu vực công cộng và tư nhân.
(2) ĐTM tạo ra cơ hội để có thể trình bày với người ra quyết định về tính phù hợp
của chính sách, chương trình, hoạt động, dự án về mặt môi trường, nhằm ra quyết định
có tiếp tục thực hiện hay không.
(3) Đối với các chương trình, chính sách, hoạt động, dự án được chấp nhận thực
hiện thì ĐTM tạo ra cơ hội trình bày sự phối kết hợp các điều kiện có thể giảm nhẹ tác
động có hại tới môi trường.
(4) ĐTM tạo ra phương thức để cộng đồng có thể đóng góp cho quá trình ra quyết
định thông qua các đề nghị bằng văn bản hoặc ý kiến gửi tới người ra quyết định. Công
12
chúng có thể tham gia vào quá trình này trong các cuộc họp công khai hoặc trong việc
hòa giải giữa các bên (thường là bên gây tác động và bên chịu tác động).
(5) Với ĐTM, toàn bộ quá trình phát triển được công khai để xem xét một cách
đồng thời lợi ích của tất cả các bên: bên đề xuất dự án, Chính phủ và cộng đồng. Điều
đó góp phần lựa chọn được dự án tốt hơn để thực hiện.
(6) Những dự án mà về cơ bản không đạt yêu cầu hoặc đặt sai vị trí thì có xu hướng
tự loại trừ, không phải thực hiện ĐTM và tất nhiên là không cần cả đến sự chất vấn của
công chúng.
(7) Thông qua ĐTM, nhiều dự án được chấp nhận nhưng phải thực hiện những điều
kiện nhất định, chẳng hạn chủ dự án phải đảm bảo quá trình đo đạc, giám sát, lập báo
cáo hàng năm, phải có phân tích sau dự án và kiểm toán độc lập.
(8) Trong ĐTM phải xét cả đến các khả năng thay thế, chẳng hạn như công nghệ,
địa điểm đặt dự án phải được xem xét hết sức cẩn thận.
(9) ĐTM được coi là công cụ phục vụ phát triển, khuyến khích phát triển tốt hơn,
trợ giúp cho tăng trưởng kinh tế.
(10) Trong nhiều trường hợp, ĐTM chấp nhận sự phát thải, kể cả phát thải khí nhà
kính cũng như việc sử dụng không hợp lý tài nguyên ở mức độ nào đấy, nghĩa là chấp
nhận vì sự phát triển và tăng trưởng kinh tế.
Qua phân tích mục đích, vai trò của ĐTM ta thấy rõ ý nghĩa to lớn của nó trong sự
phát triển chung của nhân loại, thể hiện ở chỗ ĐTM là công cụ quản lý môi trường quan
trọng. Song nó không nhằm thủ tiêu, loại trừ, gây khó dễ cho phát triển kinh tế - xã hội
như nhiều người lầm tưởng mà hỗ trợ phát triển theo hướng đảm bảo hiệu quả kinh tế,
bảo vệ môi trường. Vì vậy, nó góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững.
Có thể tóm tắt ý nghĩa của ĐTM là: làm công việc này tốt thì quản lý môi trường
tốt, quản lý môi trường tốt thì công việc giữ gìn, bảo vệ môi trường sẽ tốt, đặc biệt là
trong tương lai. Điều đó thể hiện qua một số điểm cụ thể sau:
- ĐTM khuyến khích công tác quy hoạch tốt hơn. Việc xem xét kỹ lưỡng dự án và
những dự án có khả năng thay thế từ công tác ĐTM sẽ giúp cho dự án hoạt động có hiệu
quả hơn.
- ĐTM có thể tiết kiệm được thời gian và tiền của trong thời hạn phát triển lâu dài.
Qua các nhân tố môi trường tổng hợp, được xem xét đến trong quá trình ra quyết định ở
giai đoạn quy hoạch, mà các cơ sở và Chính phủ tránh được những chi phí không cần
thiết, đôi khi tránh được những hoạt động sai lầm, phải khắc phục trong tương lai.
- ĐTM giúp cho Nhà nước, các cơ sở và cộng đồng có mối liên hệ chặt chẽ hơn.
Các đóng góp của cộng đồng trước khi dự án được đầu tư, hoạt động có thể nâng cao
mối liên hệ cộng đồng và đảm bảo hiệu quả đầu tư. Thực hiện công tác ĐTM tốt có thể
đóng góp cho sự phát triển thịnh vượng trong tương lai. Thông qua các kiến nghị của
13
ĐTM, việc sử dụng tài nguyên sẽ thận trọng hơn và giảm được sự đe dọa của suy thoái
môi trường đến sức khoẻ con người và hệ sinh thái.
1.3. Định nghĩa và nội dung cơ bản của đánh giá tác động môi trường
1.3.1. Định nghĩa đánh giá tác động môi trường
Có rất nhiều cách hiểu, hay định nghĩa về ĐTM. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có
một định nghĩa chung đầy đủ, vạn năng về ĐTM. Ta có thể nêu ra một vài ví dụ đã
được trích dẫn trong các tài liệu để chứng tỏ tính đa dạng của định nghĩa ĐTM.
“ĐTM hoặc phân tích tác động môi trường là sự xem xét một cách có hệ thống các
hậu quả về môi trường của các đề án, chính sách và chương trình với mục đích chính là
cung cấp cho người ra quyết định một bản liệt kê và tính toán các tác động mà các
phương án hành động khác nhau có thể đem lại” (Clark. Brian D...1980).
“ĐTM được coi là một kỹ thuật, một quá trình thu thập thông tin về ảnh hưởng môi
trường của một dự án từ người chủ dự án và các nguồn khác, được tính đến trong việc
ra quyết định cho dự án tiến hành hay không” (Do E.coli, 1989).
“ĐTM là quá trình thu thập thông tin về ảnh hưởng, tác động của dự án đề xuất,
phân tích các thông tin này và gửi kết quả tới người ra quyết định” (IChemE, 1994).
“ĐTM của hoạt động phát triển kinh tế - xã hội là xác định, phân tích và dự báo
những tác động lợi và hại, trước mắt và lâu dài mà việc thực hiện hoạt động có thể gây
ra cho tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường sống của con người tại nơi có
liên quan tới hoạt động, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp phòng, tránh, khắc phục các
tác động tiêu cực” (Lê Thạc Cán, 1994).
Trong Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam năm 2005, ĐTM được định nghĩa như
sau: “ĐTM là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ
thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó”.
Trong hướng dẫn chung về ĐTM năm 2010 của Cục Thẩm định và Đánh giá Tác
động môi trường, thuộc Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ rõ:
“Đánh giá tác động môi trường về bản chất là quá trình dự báo, đánh giá tác động của
một dự án đến môi trường, bao gồm môi trường tự nhiên, kinh tế - xã hội và đưa ra các
biện pháp phòng tránh, giảm thiểu tác động lên môi trường”.
Từ các định nghĩa trên, có thể thấy sự nhất trí về mục đích và bản chất ĐTM. Một
số điểm khác biệt trong chúng thể hiện sự khác biệt trong nhận thức về nghĩa của từ
“môi trường” và bản chất của dự án được đánh giá.
Một số điểm trong cách hiểu về ĐTM có thể thống nhất như sau:
- ĐTM là quá trình xác định khả năng ảnh hưởng đến môi trường xã hội và cụ thể là
đến sức khoẻ của con người.