Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Công ty TNHH Vật tư khoa học kỹ thuật
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, sự giao lưu kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới theo xu hướng khu
vực hoá, toàn cầu hoá đang đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển
nền kinh tế thế giới. Các nước không chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế của mình trong phạm
vi quốc gia mà còn tham gia vào các hoạt động kinh tế toàn cầu hoặc khu vực để tận dụng
mọi lợi thế so sánh. Hoà chung xu thế quốc tế hoá đó, Việt Nam đã thực hiện nhiều
chính sách kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực cũng như
trên thế giới trong nhiều năm qua. Một trong những nỗ lực lớn nhất của Việt Nam để hội
nhập kinh tế thế giới là sự kiện ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO) - một công cụ thương mại đa biên
quan trọng nhất để điều chỉnh nền thương mại quốc tế. Những bước phát triển mới này
thúc đẩy các quan hệ thương mại quốc tế đã và đang phát triển mạnh mẽ giữa các thương
nhân Việt Nam và các chủ thể thương nhân quốc tế. .
Thương mại quốc tế có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Nó thu
hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư vào Việt Nam, tạo cơ hội hợp tác kinh doanh đối với
các doanh nghiệp trong nước, tạo việc làm với thu nhập cao cho người lao động, và thúc
đẩy một loạt các ngành dịch vụ trong nước phát triển.
Trong hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam những năm qua, các hoạt động
mua bán hàng hoá quốc tế đã có những bước tiến vượt bậc, góp phần tích cực vào sự tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Điều này khiến Nhà nước ta luôn quan tâm sâu
sắc đến việc thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. Môi trường pháp
lý thuận lợi, thông thoáng được coi là biện pháp tối ưu để tăng cường hiệu quả trong hoạt
động thương mại quốc tế. Trong hoạt động này, mua bán hàng hoá quốc tế đóng vai trò
phổ biến và rất quan trọng. Cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền lợi và ràng buộc trách nhiệm
của các bên tham gia của việc mua bán hàng hoá này chính là hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế.
Trong thời gian thực tập tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Vật tư khoa học kỹ thuật
Đông Dương - Indochina, vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế của Công ty đã thu hút sự quan tâm của tôi. Qua nghiên cứu thực tiễn ký kết và thực
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Công ty, được sự hướng dẫn tận tình của
thầy giáo PGS, TS Trần Văn Nam, tôi đã chọn đề tài: “Giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế tại Công ty TNHH Vật tư khoa học kỹ thuật Đông DươngIndochina” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Bố cục chuyên đề, ngoài phần mở đầu và kết luận, được kết cấu thành ba chương:
Chương I: Các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Chương II: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế tại Indochina.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giao kết
và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Indochina.
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian thực tập tại công ty để khảo
sát thực tế chưa nhiều nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong chuyên đề thực tập.
Tôi rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để chuyên
đề thực tập của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Hải Ninh
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
CHƯƠNG I:
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
1.1. Khái niệm
Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa
vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận (Điều 3
khoản 8- Luật Thương mại 2005) Mua bán hàng hoá quốc tế là hoạt động mua bán hàng
hoá được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất, tạm xuất, tái nhập
và chuyển khẩu. Việc MBHHQT phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản,
hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 27- Luật Thương mại
2005)
Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hoá chính là hợp đồng. Hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế (MBHHQT) trước hết là một hợp đồng mang đầy đủ đặc trưng của một
hợp đồng mua bán hàng hoá, nhưng có thêm yếu tố quốc tế. Tính quốc tế của hợp đồng
MBHHQT có thể được xác định bằng nhiều cách, được công nhận cả trên phạm vi luật
pháp quốc tế và phạm vi luật pháp quốc gia. Việc xác định yếu tố quốc tế này căn cứ vào
nơi kinh doanh hoặc nơi thường trú của các đối tác, hay những tiêu chuẩn tổng quát hơn
như việc đánh giá hợp đồng “có quan hệ quan trọng tới nhiều quốc gia”, “liên quan đến
sự lựa chọn giữa luật của các nước khác nhau”, hoặc “có ảnh hưởng đến các quyền lợi
trong buôn bán quốc tế”(1)
. Theo giả định của nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế
( PICC- Principles of International Commercial Contracts) thì quan điểm về các hợp đồng
“quốc tế” nên được giải thích theo nghĩa rộng nhất, để loại trừ những trường hợp không
liên quan đến yếu tố quốc tế, ví dụ khi tất cả các yếu tố cơ bản của hợp đồng chỉ liên
quan đến một quốc gia cụ thể.
Điều 1 Công ước La Haye 1964 về mua bán hàng hoá quốc tế những tài sản hữu
hình, hợp đồng MBHHQT được định nghĩa: “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp
đồng, trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hoá được
1 “Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế” Người dịch: Lê Nết-NXB TP HCM 1999.
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí kí kết hợp đồng giữa các
bên ký kết được thiết lập ở các nước khác nhau” Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc
về hợp đồng MBHHQT đã gián tiếp định nghĩa loại hợp đồng này khi quy định trong
Điều 1: “Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết
giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau”.
Ở Việt Nam, Luật Thương mại 1997 đề cập đến “hợp đồng mua bán hàng hoá với
thương nhân nước ngoài” ở Điều 80, và chỉ đề cập đến những điểm khác biệt của loại
hợp đồng này thông qua sự khác biệt trong quốc tịch của các chủ thể tham gia hợp đồng:
“hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hoá
được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước
ngoài”. Luật Thương mại Việt Nam 2005 cũng chỉ đưa ra quy định hình thức hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế là “thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương” (Điều 27.2)
Việc đưa ra một khái niệm rõ ràng, chính xác cho hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế chưa được quan tâm thích đáng trong khoa học pháp lý Việt Nam. Điều này có
thể do Việt Nam mới tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế và trong thực tiễn
chưa có vụ tranh chấp nào liên quan đến việc xác định luật áp dụng, căn cứ vào tính
quốc tế cuả hợp đồng(2)
. Một số tác giả đã đưa ra khái niệm cho hợp đồng này trên tinh
thần của các công ước quốc tế, các văn bản pháp luật mà Việt Nam đề cập. Tiến sỹ Phan
Thị Thanh Hồng – Đại học KT Đà Nãng đưa ra khái niệm: “hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế là sự thoả thuận ý chí giữa các thương nhân cớ trụ sở kinh doanh đặt ở các
quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là Bên xuất khẩu có nghĩa vụ giao hàng và
chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên khác gọi là Bên nhập khẩu và nhận thanh toán.
Bên nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán cho bên xuất khẩu, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hoá theo thoả thuận.”(3) Một khái niệm khá phổ biến nữa là của ông Vũ Hữu Tửugiảng viên cao cấp, già giáo ưu tú Đại học Ngoại Thương Hà Nội thì “hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế, còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc hợp đồng mua bán ngoại
thương là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau,
theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (Bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu
2
Dương Anh Sơn: “Tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thương”. Tạp chí KHPL Số 6/2004, phiên
bản html: http://www.hcmulaw.edu.vn Ngày truy cập 6/3/2008.
3
Phan Thị Thanh Hồng: “Hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế”. NXB Lao Động 2005.
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
của một bên khác gọi là bên nhập khẩu (Bên mua) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá;
bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng”(4)….
Như vậy, ta có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thống nhất về ý
chí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá có yếu tố nước ngoài mà thông qua đó,
thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể đó với
nhau.
Yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng quốc tế được biểu hiện:
- Các bên tham gia giao kết hợp đồng MBHHQT là các thương nhân có quốc tịch
khác nhau (nếu chỉ xác định tính quốc tế bằng cách này thì gặp nhiều khó khăn và đôi khi
không xác định được do pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau xác định quốc tịch của
pháp nhân không giống nhau) và có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau (đây là cách
xác định theo Công ước Viên 1980 được áp dụng rất phổ biến);
- Hàng hóa - đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới quốc gia
hoặc giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước khác
nhau;
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chuyển
giao quyền sở hữu về hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác nhau;
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là ngoại tệ đối
với ít nhất là một bên trong quan hệ hợp đồng;
- Luật điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, các điều ước quốc tế và các tập quán
quốc tế khác về thương mại và hằng hải.
1.2. Đặc điểm
- Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận có ý chí giữa các bên giao kết. Đây là
đặc trưng rất cơ bản của một hợp đồng nói chung.
- Chủ thể của hợp đồng là bên bán và bên mua là các thương nhân có trụ sở kinh
doanh đặt tại các quốc gia khác nhau. Nếu các bên không có trụ sở kinh doanh thì sẽ căn
cứ vào nơi cư trú của họ. Việc căn cứ vào quốc tịch của cá nhân ít được sử dụng do
không phổ biến và đôi khi gặp khó khăn ví dụ hai người trực tiếp ký vào hợp đồng đều
mang quốc tịch Việt Nam nhưng đại diện cho các bên có trụ sở kinh doanh đặt tại các
quốc gia khác nhau, và hợp đồng này vẫn là hợp đồng MBHHQT.
4
Vũ Hữu Tửu: “Hợp đồng mua bán quốc tế”.Bài viết hỗ trợ kinh doanh. http://laocai.com .Ngày 6/3/2008.
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá phải qua biên giới quốc gia (biên giới hải
quan) hay giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước
khác nhau; hoặc hàng hoá không phải qua biên giới nhưng hàng được các tổ chức quốc tế
dùng ở lãnh thổ Việt Nam (sứ quán, công trình đầu tư nước ngoài…). Thuật ngữ “biên
giới hải quan” được sử dụng xuất phát từ thực tiễn hình thành các kho ngoại quan, các
khu chế xuất, các đặc khu kinh tế, và những quy chế hải quan đặc biệt dành cho sự hoạt
động của các khu vực này làm cho biên giới lãnh thổ không thật chính xác để xác định
ranh giới di chuyển của hàng hoá xuất nhập khẩu(5)
.
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chuyển
giao quyền sở hữu của hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác nhau;
- Đồng tiền tính giá hoặc thanh toán không còn là đồng nội tệ của một quốc gia mà
là ngoại tệ đối với ít nhất một bên ký kết. Phương thức thanh toán thông qua hệ thống
ngân hàng.
- Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng đa dạng và phức tạp. Không chỉ còn luật quốc
gia mà còn bao gồm các điều ước quốc tế về thương mại, luật nước ngoài và các tập quán
thương mại quốc tế.
- Cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là toà án, hay trọng tài
thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại là
cơ quan nước ngoài đối với ít nhất một trong các chủ thể.
2. Nguồn luật điều chỉnh của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng MBHHQT có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật khác nhau
như các điều ước về MBHHQT, các tập quán quốc tế về thương mại, pháp luật của các
quốc gia… Việc nguồn luật nào điều chỉnh còn tuỳ vào từng trường hợp cụ thể.
2.1. Điều ước quốc tế
Theo Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế: “Điều ước quốc tế là tất cả
các văn bản được ký kết giữa các quốc gia và do Luật quốc tế điều chỉnh”. Vậy có thể
nói, điều ước quốc tế về thương mại là sự thoả thuận bằng văn bản giữa hai hoặc nhiều
quốc gia ký kết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nhằm ấn định,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong quan hệ thương mại quốc
tế.
5
Phan Thị Thanh Hồng: “Mộ số vấn đề cần lưu ý nhằm đảm bảo hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế”. http://vietsmall.wordpress.com. Ngày truy cập 6/3/2008.
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
Trong lĩnh vực mua bán hàng hoá quốc tế có một số điều ước quốc tế tiêu biểu:
- Điều kiện chung về giao hàng giữa các tổ chức kinh tế của các nước thành viên
Hội đồng tương trợ kinh tế (ĐKCGHSEV 1968/1988) điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Một điều ước quốc tế quan trọng trong lĩnh vực MBHHQT là công ước Viên về
mua bán hàng hoá quốc tế ngày 1/1/1980. Đến nay đã có hơn 60 nước phê chuẩn công
ước này (Xem phụ lục 1)..
- Quy tắc La Hay ngày 15/6/1955 về Luật áp dụng vào hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế.
- Công ước Rôma về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
được ký tại Rôm ngày 19/6/1980.
- Công ước Liên Mỹ về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế được ký ở Mehico
City ngày 17/5/1994, được thông qua bởi Hội nghị quốc tế Liên Mỹ về tư pháp quốc tế tổ
chức tại Mehico City(6)
.
Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết hơn 60 Hiệp định thương mại song phương.
Trong đó phải kể đến: Hiệp định Buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU là hiệp định
thương mại chứa đựng những điều khoản liên quan đến xuất xứ của hàng hoá, điều khoản
liên quan đến hạn ngạch (quota) và quy định danh mục mặt hàng. Việc ký kết các hiệp
định thương mại, là thành viên của các công ước quốc tế sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi và
thống nhất cho hoạt động MBHHQT giữa các thương nhân Việt Nam với các thương
nhân nước ngoài(7)
.
2.2. Luật quốc gia
Trong hoạt động thương mại quốc tế, luật quốc gia áp dụng thông thường là luật
của nước bên bán, nhưng cũng có thể là luật của nước bên mua, có thể là luật của nước
thứ ba, luật nơi ký hợp đồng, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa vụ hợp đồng được thực hiện…
(8) Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT trong các trường hợp:
6 Nguyễn Vũ Hoàng: “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường toà án” NXB Thanh Niên 2004.
Trang 23.
7
Trần Văn Nam - Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): “Giáo trình Luật Thương mại quốc tế”. Đại học kinh tế
quốc dân. 2005. Trang 100.
8 Bùi Xuân Nhự (Chủ biên): “Giáo trình Tư pháp quốc tế”. ĐH Luật HN. NXB Công an nhân dân.1997. Tr 38-41
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
- Các bên ký hợp đồng về việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng.
Việc thoả thuận áp dụng luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng phải được ghi trong
hợp đồng MBHHQT.
- Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT được quy định trong
các điều ước quốc tế liên quan xác định luật của một quốc gia đương nhiên trở thành luật
áp dụng cho các hợp đồng đó. Thông thường, luật quốc gia áp dụng sẽ là luật của nước
bên bán, nhưng cũng có thể là luật của nước bên mua, có thể là luật của nước thứ ba, luật
nơi ký kết hợp đồng, luật của nước mà các bên mang quốc tịch,…
2.3. Án lệ
Án lệ hay tiền lệ pháp về thương mại cũng được các thương nhân tham gia ký kết
hợp đồng thương mại quốc tế coi trọng và lựa chọn, đặc biệt là ở các quốc gia theo hệ
thống thông luật (Common law). Trong thương mại quốc tế, việc công nhận và sử dụng
các phán quyết của toà án cũng như thừa nhận vai trò tích cực của án lệ đang ngày một
gia tăng tại các nước có hệ thống pháp luật khác nhau. Cơ quan xét xử có thể vận dụng án
lệ tương tự để giảm nhẹ những khó khăn phức tạp trong việc tra cứu, mà các tranh chấp
trong hoạt động thương mại quốc tế thường tập trung vào một số vấn đề và có nhiều
trường hợp tương đồng.
2.4. Tập quán thương mại quốc tế
Các tập quán thương mại quốc tế hình thành từ rất lâu đời. Các tập quán này sẽ trở
thành nguồn luật đìều chỉnh các hợp đồng MBHHQT nếu các chủ thể tham gia ký kết hợp
đồng chấp nhận các tập quán thương mại quốc tế sẽ là nguồn luật điều chỉnh.
Khi được dẫn chiếu vào hợp đồng MBHHQT, các tập quán thương mại sẽ có hiệu
lực bắt buộc áp dụng đối với các chủ thể ký kết, chúng được chia thành nhóm: Các
(1) tập quán có tính chất nguyên tắc; các tập quán thương mại quốc tế chung và các tập
quán thương mại khu vực. Ví dụ, một tập quán thông dụng trong mua bán quốc tế được
Phòng Thương mại quốc tế (The International Chamber of Commerce - ICC) soạn thảo
và ban hành một tập quán thông dụng trong mua bán quốc tế là Incoterms (phụ lục 2).
II. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC
VIÊN 1980
Công ước này được ký kết ngày 11/4/1980 tại Viên (Áo). Ban đầu ký kết chỉ có 6
quốc gia thành viên. Số lượng các quốc gia phê chuẩn Công ước ngày càng tăng lên và
8