Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân,
pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ
dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất,
kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của giao dịch dân
sự, Bộ luật dân sự (BLDS) nước ta đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ và
tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện cũng như các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự. Các quy định đó của BLDS đã tạo ra hành lang
pháp lý thông thoáng và an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch dân sự,
tạo nên sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân (TAND) thì vấn đề giải quyết
các hậu quả khi giao dịch dân sự vô hiệu không thuần túy chỉ căn cứ vào quy
định của BLDS, mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có sự thỏa thuận
của các bên khi tham gia giao dịch hoặc phụ thuộc vào thời điểm phát sinh,
như giao dịch được xác lập trước ngày ban hành Pháp lệnh hợp đồng dân sự,
trước khi BLDS có hiệu lực thi hành. Quá trình thực hiện BLDS, bên cạnh
những mặt tích cực, còn có thực trạng là các tranh chấp về dân sự, nhất là
tranh chấp về giao dịch dân sự vẫn có xu hướng gia tăng, trong đó các giao
dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về điều kiện có hiệu lực của giao dịch chiếm
1
tỷ lệ không nhỏ. Việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu
quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu vẫn là vấn đề phức tạp nhất ngành
Tòa án đang gặp phải. Có không ít vụ án đã được xét xử nhiều lần, với nhiều
cấp xét xử khác nhau (kể cả cấp xét xử cao nhất là Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao (TANDTC)) nhưng cũng vẫn còn những thắc mắc, vẫn
có những quan điểm khác nhau, gây ra nhiều tranh luận phức tạp.
Nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về giao dịch dân sự vô
hiệu, làm rõ những nguyên lý cơ bản và nguyên tắc chung giải quyết hậu quả
pháp lý khi giao dịch dân sự bị vô hiệu là một yêu cầu cấp bách hiện nay,
nhằm lý giải rõ hơn các vấn đề lý luận đặt ra đối với giao dịch dân sự vô hiệu
và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu và từ đó có những
kiến nghị góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật mà cụ thể là sửa đổi bổ sung
chế định về giao dịch dân sự nói chung và xây dựng văn bản hướng dẫn thi
hành nói riêng.
Với lý do đó, vấn đề "Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết
hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu" được chọn làm đề tài nghiên
cứu cho việc hoàn thành luận án tiến sĩ luật học theo đúng yêu cầu của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu và việc
giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu đã được nhiều nhà
khoa học pháp lý quan tâm trong các thời kỳ, dưới những góc độ khác nhau.
Nhìn chung, vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu
quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu chủ yếu được đề cập trong các bài
giảng trong giáo trình luật dân sự của Trường Cao đẳng Kiểm sát, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia, trong một số ấn phẩm như:
2
Bình luận Bộ luật dân sự của Bộ Tư pháp và trong một số bài viết của một số
tác giả ở góc độ hẹp, đó là: TS. Bùi Đăng Hiếu: Giao dịch dân sự vô hiệu
tương đối và giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối; Vũ Mạnh Hùng: Một số ý
kiến về đường lối giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng mua bán nhà;
Hoàng Thị Thanh: Quy định "giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân theo
các quy định về hình thức"; Phan Tấn Phát: Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu
quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình
thức… Cũng có công trình được giải quyết tốt hơn như luận văn thạc sĩ luật
học của tác giả Trần Trung Trực: Một số vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu và
hậu quả pháp lý của nó... Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu các công
trình có liên quan thì chưa có công trình nào giải quyết vấn đề này một cách
toàn diện và thấu đáo. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài "Giao dịch dân sự vô
hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu" không
bị trùng lắp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu
a) Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm sáng tỏ khái niệm, đặc
điểm pháp lý về giao dịch dân sự và chủ yếu là giao dịch dân sự vô hiệu; làm
rõ ý nghĩa của chế định giao dịch dân sự vô hiệu trong chế định chung về giao
dịch; làm rõ căn cứ pháp lý xác định giao dịch dân sự vô hiệu và phân tích
thực tiễn giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu. Ngoài ra,
khi nghiên cứu thực trạng, đánh giá hiệu quả điều chỉnh của các quy định
pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu và thực tiễn việc giải quyết hậu quả
pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, trong luận án có đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm tính khả thi khi áp
dụng trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện tại TAND làm cho
3
pháp luật về giao dịch dân sự thực sự là một trong những "công cụ pháp lý
thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước".
b) Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận án này phải thực hiện được
các nhiệm vụ:
- Phân tích và lý giải nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của giao
dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô
hiệu;
- Lược sử quá trình điều chỉnh pháp luật Việt Nam về giao dịch dân sự
vô hiệu qua các thời kỳ và quy định của một số nước trên thế giới về giao
dịch dân sự vô hiệu để làm nổi bật tính kế thừa truyền thống và những bước phát
triển trong quy định pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu của nước ta hiện
nay;
- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết các tranh chấp về giao dịch dân sự,
về cơ sở pháp lý để tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và kinh nghiệm giải
quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu tại TAND;
- Nghiên cứu thực trạng và đánh giá hiệu quả của những quy định
pháp luật hiện hành về giao dịch dân sự vô hiệu và các quy định về hậu quả
pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu;
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
giao dịch dân sự vô hiệu và cơ sở pháp lý để giải quyết hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự vô hiệu.
4. Phạm vi nghiên cứu
4
Trong phạm vi của luận án tiến sĩ chuyên ngành luật dân sự, tác giả tập
trung nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự (theo nghĩa hẹp) về giao
dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự
vô hiệu; nghiên cứu thực tiễn giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự
vô hiệu của TAND, làm sáng tỏ thêm lý luận còn nhiều quan điểm khác nhau.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài luận
án là triết học Mác - Lênin. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên các
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến đề tài của luận án.
Ngoài việc dựa trên phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án, tác
giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: so sánh
pháp luật, logic pháp lý, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn...
để làm rõ vấn đề lý luận cũng như thực tiễn quá trình giải quyết các tranh
chấp giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả của nó trong giai đoạn hiện nay.
6. Những điểm mới của luận án
Luận án đã tham khảo và phân tích lịch sử phát triển các quy định về
giao dịch dân sự vô hiệu trong pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật dân
sự một số nước trên thế giới. Qua việc phân tích, luận giải, luận án đã làm
sáng tỏ tính kế thừa và sự phát triển các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu.
Luận án đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn áp dụng các quy định về
giao dịch dân sự vô hiệu; đã tổng hợp một số quan điểm và đưa ra khái niệm
khoa học mới về: giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu, nêu khái quát
chung về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.
5
Từ việc phân tích các quy định: điều kiện có hiệu lực của giao dịch,
các căn cứ pháp lý xác định giao dịch dân sự vô hiệu, hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu trong hệ thống pháp luật thực định, luận án đã phân
tích những hiệu quả tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản, đồng
thời chỉ ra một số hạn chế, chưa khả thi. Cùng với những phân tích các quy
định trong pháp luật thực định, luận án còn chỉ ra nguyên nhân dẫn đến tình
trạng hạn chế khi áp dụng và đưa ra những kiến nghị trong việc hướng dẫn áp
dụng pháp luật nhằm bảo đảm tính thống nhất khi thực thi pháp luật. Luận án
đã đề xuất hướng và đường lối giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân
sự bị vô hiệu, nhất là vấn đề xác định thiệt hại, cách tính thiệt hại.
Sau khi phân tích các cơ sở lý luận, thực tiễn áp dụng hậu quả pháp lý
đối với giao dịch dân sự vô hiệu, luận án đã có những kiến nghị cụ thể về sửa
đổi, bổ sung và loại bỏ các quy định không còn phù hợp với thực tế nhằm
hoàn thiện pháp luật thực định. Cụ thể là: kiến nghị kết cấu lại chương 5
BLDS quy định về giao dịch dân sự. Các quy định này không nên để tại phần
thứ nhất BLDS mà chuyển về phần hợp đồng và phần thừa kế sẽ phù hợp hơn.
Bỏ Điều 136 BLDS vì không cần thiết; loại bỏ điều kiện không tuân thủ quy
định về hình thức của giao dịch để tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu; sửa đổi
các Điều 141, BLDS về vấn đề nhầm lẫn, Điều 142 BLDS về lừa dối, đe doạ
dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu…
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận án gồm 3 chương, 10 mục.
6
Chương 1 giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý
giao dịch dân sự vô hiệu
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm chung của giao dịch dân sự
1.1.1.1. Khái niệm chung về giao dịch dân sự
Giao dịch - mối quan hệ "giữa người với người" - là mối liên hệ phổ
biến trong xã hội loài người và cũng là một trong chế định pháp lý cổ điển, nó
xuất hiện từ rất lâu đời. Ngay từ khi xã hội loài người có sự phân công lao
động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa, thì giao dịch đã hình thành và
giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ [24, tr. 1]. Có một
thời, giao dịch nếu không đồng nghĩa với sự trao đổi tài sản nhằm thỏa mãn
nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của các bên, thì giao dịch được hiểu là quan hệ
trong đó ít nhất một bên là thương nhân hoặc người giàu (người có nhiều của
cải) và biện pháp thông qua đó, thương nhân hoặc người có của tích lũy của
cải cho mình [19, tr. 5]. Trong cuộc sống hiện tại, giao dịch được xem là
"công cụ" thông dụng và có hiệu quả, bảo đảm cho các quan hệ dân sự được
thực hiện trong hành lang pháp lý an toàn nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự
ngày càng phát triển.
Ngoài ra, giao dịch dân sự còn là phương tiện pháp lý quan trọng để
cho các công dân thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần trong sản xuất kinh
doanh cũng như sinh hoạt tiêu dùng. Do đó, vị trí, vai trò của giao dịch dân sự
ngày càng được khẳng định trong hệ thống pháp luật. Trong một xã hội phát
triển luôn luôn đặt ra nhu cầu phải hoàn thiện, phát triển chế định giao dịch.
Vì lẽ đó, mà ngay từ thế kỷ thứ XVIII, nhà triết học, xã hội học người Pháp
7
Plulur đã dự đoán: "Hợp đồng chiếm 9/10 dung lượng các bộ luật hiện hành,
và đến lúc nào đó tất cả các điều khoản của bộ luật, từ điều khoản thứ nhất
đến điều khoản cuối cùng đều quy định về hợp đồng" [24, tr. 2].
Trên thế giới hiện nay, quá trình phát triển của chế định giao dịch ở
mỗi quốc gia tuy có những đặc thù riêng, nhưng cũng không nằm ngoài quỹ
đạo chung. Đó là: luôn nâng cao vị trí, vai trò của chế định giao dịch trong hệ
thống pháp luật, nhất là trong nền kinh tế thị trường, nơi mà mọi dịch vụ và
tài sản, hàng hóa phải được tự do chuyển dịch theo ý chí của các chủ thể và
chỉ bị can thiệp trong các trường hợp mà ở đó có sự giới hạn của pháp luật
hoặc có sự tranh chấp giữa các chủ thể. Chính vì thế mà vai trò của giao dịch
nói chung và giao dịch dân sự nói riêng càng được thể hiện lớn hơn và giữ
một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, các nhà khoa học pháp lý
cũng như các nhà lập pháp tiếp cận giao dịch dưới những góc độ khác nhau
mà đưa ra các chế định khác nhau về giao dịch, về những quy định chung của
giao dịch dân sự. Ví dụ, BLDS của nước Cộng hòa Pháp không đưa ra chế
định giao dịch dân sự mà chỉ đưa ra chế định hợp đồng dân sự và chế định
thừa kế, còn đối với BLDS và thương mại Thái Lan, BLDS Nhật Bản đưa ra
chế định hành vi pháp lý bao trùm lên chế định hợp đồng và chế định thừa kế
theo di chúc. Nhìn chung, pháp luật của phần lớn các nước đều không có khái
niệm về giao dịch dân sự, mà khái niệm về giao dịch dân sự chỉ đề cập đến
dưới góc độ khoa học.
Dưới góc độ khoa học, các nhà khoa học Nhật Bản đề cập "giao dịch
dân sự là hành vi hợp pháp nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự" [3, tr. 114]. Với khái niệm này, các nhà khoa học
Nhật Bản không nêu ra loại giao dịch cụ thể nào mà nó là tất cả những hành vi tự
8
nguyện của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm thu được một
kết quả nhất định và các hành vi này không trái với pháp luật. Khi tham gia vào
các quan hệ dân sự sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể
và pháp luật thừa nhận các quan hệ này, đồng thời tạo điệu kiện bảo đảm cho
các quyền, nghĩa vụ đó trở thành hiện thực. Như vậy, phần lớn các quan hệ
trong cuộc sống được điều chỉnh bằng pháp luật và được coi là giao dịch pháp
luật dân sự; đối với quan hệ nhân thân, nhiều quan hệ nhân thân phi tài sản
(trừ sự kiện sinh ra và chết đi) phát sinh trên cơ sở giao dịch dân sự như kết
hôn, nhận con nuôi... Đối với các quan hệ về tài sản (trừ quan hệ thừa kế theo
pháp luật) còn tất cả đều được chế định pháp luật về giao dịch dân sự điều
chỉnh [3, tr. 114].
Ở Việt Nam, chế định giao dịch dân sự được quy định trong chương 5,
Phần thứ nhất của BLDS nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Điều 130 BLDS
quy định: "Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng của
cá nhân, pháp nhân và của các chủ thể khác nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự". Đối với giao dịch dân sự là hợp đồng còn
được quy định tại Mục 7, Phần thứ ba (Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự).
Còn đối với hành vi pháp lý đơn phương được quy định một phần trong phần
hợp đồng dân sự như hứa thưởng, thi có giải và một phần trong Phần thứ tư của
BLDS tại các quy định về thừa kế (Thừa kế theo di chúc).
Dưới góc độ khoa học, khái niệm giao dịch dân sự được các nhà
khoa học Việt Nam đề cập trong nhiều tài liệu với góc độ khác nhau, như:
"Giao dịch dân sự là hành vi được thực hiện nhằm thu được kết quả nhất
định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quả trở thành hiện thực" hay "giao
dịch là một sự kiện pháp lý, bao gồm hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa
9
phương (hợp đồng) làm phát sinh hậu quả pháp lý" [4, tr 266] hoặc được nêu
nguyên văn Điều 130 BLDS...
Để đưa ra khái niệm toàn diện và đầy đủ về giao dịch dân sự, trước
hết cần hiểu giao dịch là hành vi "có quan hệ gặp gỡ, tiếp xúc với nhau" [116, tr.
377]. Trong dân sự việc gặp gỡ, tiếp xúc với nhau diễn ra trong quan hệ dân
sự chung để việc thể hiện ý chí của các bên được trực tiếp và công khai.
Hoặc cũng có quan điểm nhấn mạnh đến tính pháp lý của giao dịch
như: giao dịch dân sự là hành vi pháp lý hợp pháp biểu hiện ý chí của một
hoặc nhiều người nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự.
Nhìn chung, dù các nhà khoa học pháp lý có đưa ra khái niệm về giao
dịch dân sự dưới góc độ nào đi chăng nữa, thì đều khẳng định giao dịch dân
sự bao gồm hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý đơn phương.
Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất
nó phát sinh thường xuyên trong đời sống hàng ngày của chúng ta và giữ vị trí
vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất là trong nền
kinh tế thị trường hiện nay. Hợp đồng là hình thức pháp lý thích hợp bảo đảm
cho việc vận động của hàng hóa và tiền tệ, chính vì lẽ đó mà pháp luật về hợp
đồng giữ một vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
"Pháp luật về hợp đồng được coi như hộ chiếu cho phép đi vào tất cả các lĩnh
vực. Về phương diện chính trị và pháp lý, hợp đồng là phương tiện pháp lý
cho phép các bên có thể phát triển trong xã hội, thậm chí không phụ thuộc vào
xã hội" [81, tr. 5]. Hợp đồng có thể diễn ra giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá
nhân với pháp nhân hay giữa các pháp nhân, tổ chức với nhau, các bên tự do
thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đạt mục đích nhất định về
10
vật chất hoặc tinh thần nhưng không trái với pháp luật và đạo đức xã hội của
Quốc gia và của thế giới, mà các chủ thể tham gia hợp đồng chịu sự điều chỉnh.
Sự tự do thỏa thuận giữa các chủ thể trong giao dịch dân sự thường là
sự bàn bạc, đi đến thống nhất ý chí của các bên trong việc làm phát sinh thay,
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Việc thỏa thuận này
không bị cản trở bởi bất cứ yếu tố chủ quan và khách quan nào, trừ trường hợp
trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Ví dụ, các bên tham gia ký kết hợp đồng
mua bán một chiếc xe máy, chủ sở hữu và người mua chiếc xe này có quyền tự
do, bàn bạc thỏa thuận giá cả, phương thức thanh toán, thời gian, địa điểm giao
xe...
Trong thực tế thì sự tự do, thỏa thuận mới chỉ là điều kiện cần nhưng
vẫn chưa phải là điều kiện đủ. Bởi lẽ, sự thỏa thuận phải làm phát sinh, thay
đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên mới đủ điều kiện
hình thành hợp đồng. Ví dụ, lời hứa của cha mẹ với con cái hoặc giữa bạn bè
với nhau không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Thậm chí trong một số trường
hợp hành vi thỏa thuận giữa các bên, có ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lý
nhưng sau đó nếu các bên không mong muốn xảy ra thì hậu quả cũng không
xảy ra. Đây là yếu tố quan trọng để xác định sự khác nhau giữa hợp đồng với
các quan hệ xã hội khác. Sự thỏa thuận phải dựa trên cơ sở pháp luật cho
phép, nếu trái với các quy định của pháp luật thì hợp đồng sẽ bị hủy bỏ, các
bên giải quyết hậu quả theo quy định của pháp luật hoặc tự thỏa thuận.
Tuy nhiên, trong thực tiễn cũng có loại hợp đồng không có sự bàn bạc,
thỏa thuận trước giữa các bên, một bên đơn phương ấn định các điều khoản
của hợp đồng còn bên kia có quyền chấp nhận hay không chấp nhận. Thực tế,
loại hợp đồng này thường diễn ra rất phong phú, đa dạng. Ví dụ, Công ty soạn
thảo sẵn hợp đồng, trong đó có đầy đủ các dữ kiện, như giá cả, loại dịch vụ
11
cung cấp, thời gian địa điểm, chất lượng... còn người tiêu dùng nếu đồng ý ký
vào, như vậy là hợp đồng đã được ký kết mà không cần hai bên bàn bạc, thỏa
thuận. Đối với các loại hợp đồng dân sự theo mẫu này hiện nay còn có nhiều
quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, loại hợp đồng dịch vụ là phù
hợp với thực tế, vì thông thường đối tượng của hợp đồng là những dịch vụ
nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của con người, do Nhà nước quản lý, giao
cho Công ty độc quyền đối với loại dịch vụ này; có quyền ấn định giá cả, loại
dịch vụ cung cấp, thời gian địa điểm, chất lượng...
Ví dụ như: hợp đồng cung cấp điện, nước ở Việt Nam... và đã được
Chính phủ xem xét và quyết định theo điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước,
có thể phải bán theo giá thấp hơn với giá trị thực của nó. Nhưng cũng có thể
bán theo giá cao hơn rất nhiều và bên sử dụng dịch vụ buộc phải chấp nhận
ký, vì đây là mặt hàng độc quyền. Có như vậy mới đảm bảo ổn định nền kinh
tế - xã hội của quốc gia và chấp nhận sự bất bình đẳng trong giao dịch. Quan
điểm này đã được sự đồng tình của phần lớn các nhà khoa học trên thế giới.
Tuy nhiên, có quan điểm khác lại cho rằng, để bảo vệ quyền lợi cho người sử
dụng dịch vụ, tránh hiện tượng gây bất bình đẳng trong giao dịch và độc
quyền, cần phải hạn chế sử dụng các loại hợp đồng này.
Một số quốc gia coi pháp luật về hợp đồng dân sự là bao gồm quy
định mang tính nguyên tắc chung để điều chỉnh các loại hợp đồng, còn luật
thương mại được coi là luật chuyên biệt để điều chỉnh hợp đồng thương mại.
Ví dụ, ở Nhật Bản thì giao dịch dân sự có tính chất thương mại giữa các
thương gia sẽ do luật chuyên biệt điều chỉnh mặc dù về lý luận người ta vẫn thừa
nhận đó là một dạng cụ thể của giao dịch dân sự. Trong khi đó ở Việt Nam khái
niệm về hợp đồng được phân biệt rạch ròi giữa luật dân sự, luật kinh tế, luật
12
thương mại, nhưng ba loại hợp đồng này lại không có nguyên tắc chung để
phân loại, do đó gây khó khăn khi áp dụng [115, tr. 58].
Hành vi pháp lý đơn phương là hoạt động thể hiện ý chí của một bên
nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà
không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Ví dụ, một người trước khi chết lập di
chúc hợp pháp để lại cho người khác di sản của mình. Bằng hành vi lập di
chúc này, người đó đã thể hiện ý chí cá nhân của mình để định đoạt tài sản mà
họ có, không phụ thuộc vào ý chí của bên nhận di sản (trừ trường hợp người
nhận di sản từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 645 BLDS), người
nhận di sản có quyền được sở hữu tài sản chuyển giao theo di chúc. Như vậy,
ý chí của người để lại di chúc không phụ thuộc vào ý chí của người khác
nhưng bằng hành vi lập di chúc theo đúng quy định của pháp luật làm phát
sinh một loại quan hệ pháp luật thuộc giao dịch dân sự.
Trên thực tế, thông thường hành vi pháp lý đơn phương do một chủ
thể thực hiện, nhưng cũng có thể do nhiều chủ thể thực hiện (nhiều cá nhân
hay một tổ chức cùng hứa thưởng...). Trong nhiều trường hợp hành vi pháp lý
đơn phương chỉ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự theo các điều kiện. Nếu
không đáp ứng điều kiện đó thì không thể coi đó là giao dịch dân sự được.
1.1.1.2. Đặc điểm chung của giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý hợp pháp thể hiện ý chí của một
hoặc nhiều người nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự. Do đó, giao dịch dân sự có đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất: Phải thể hiện được ý chí của của các bên tham gia giao dịch.
Giao dịch dân sự đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi chủ
thể, nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ không ngừng chi phối hoạt động của họ
để đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người. Khi tham gia vào giao dịch, các chủ
13
thể đều có đạt được mục đích nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất,
kinh doanh hoặc sinh hoạt, tiêu dùng. Để đạt được mục đích đó các chủ thể phải
thể hiện được ý chí của mình, "sự thể hiện ý chí là hành vi có ý chí nhằm thu
một kết quả nhất định và là yếu tố bắt buộc của giao dịch pháp lý" [3, tr. 131].
Như vậy, tuy hành vi có ý chí nhưng không làm phát sinh hậu quả pháp lý
hoặc thậm chí trong trường hợp có làm phát sinh hậu quả pháp lý nhưng các
bên lại không mong muốn xảy ra thì hậu quả cũng không xảy ra. Cho nên
muốn làm phát sinh hậu quả pháp lý, thì sự thể hiện ý chí phải được diễn ra
theo hình thức nhất định, phù hợp với quy định của pháp luật.
Quan niệm về tự do ý chí trong giao dịch được hình thành và phát
triển mạnh mẽ trong khoa học pháp lý của Pháp từ thế kỷ thứ XVIII. Lúc đầu
nó được coi là nguyên tắc độc tôn ý chí. Nguyên tắc này cho phép các chủ thể
tham gia giao dịch (chủ yếu là hợp đồng), tự do thể hiện ý chí của mình
không bị phụ thuộc hoặc cản trở bởi bất kỳ một yếu tố nào khác, kể cả pháp
luật. Quy định này xuất phát từ những lợi ích cá nhân và cho rằng nếu để các
chủ thể tham gia vào giao dịch thì sẽ bảo đảm sự công bằng và bình đẳng của
các chủ thể. Khi giao dịch đã được xác lập thì không ai có quyền thay đổi,
thậm chí cả Nhà nước cũng không có quyền can thiệp và có giá trị bắt buộc
thực hiện đối với các bên tham gia. Nếu có sự thay đổi thì chỉ chỉ có thể là do
sự thỏa thuận của chính các bên đã xác lập giao dịch đó.
Tuy nhiên, trên thực tế khi tham gia vào giao dịch các bên không
ngang bằng nhau trên mọi lĩnh vực, có bên mạnh bên yếu về kinh tế, cho nên
dẫn tới sự bất bình đẳng giữa các bên và bên yếu hơn sẽ phải phụ thuộc vào ý
chí của bên mạnh hơn. Do đó, nguyên tắc độc tôn về ý chí chỉ mang tính chất
hình thức. Chính vì lẽ đó mà giao dịch không còn ý nghĩa để các chủ thể tham
gia với mục đích thỏa mãn nhu cầu của mình nữa. Mặt khác, khi các chủ thể
14
tham gia vào giao dịch để thỏa mãn nhu cầu của mình nhiều khi đã bất chấp
cả sự thiệt hại của người khác cũng như lợi ích công cộng. Do vậy, sự cần
thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước vào các giao dịch này, nên nguyên tắc
này đã không tồn tại được lâu. Nhà nước ban hành ra pháp luật để điều chỉnh
sao cho các chủ thể tham gia vào giao dịch không bị ép buộc và đồng thời
không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khác cũng như lợi ích công
cộng. Từ thực tế này các khái niệm về: lạm dụng, ngay tình và công bằng đã
được hình thành.
Xuất phát từ sự bất bình đẳng trong hợp đồng, khái niệm lạm dụng
được hình thành trong pháp luật của Cộng hòa Pháp năm 70, để điều chỉnh
trong trường hợp một bên là thương gia đơn phương đặt ra các điều kiện và
ghi sẵn vào hợp đồng và đưa cho người có nhu cầu tiêu dùng ký vào hợp đồng
đó mà không có sự lựa chọn nào khác. Khi một hợp đồng có chứa đựng hai
tiêu chí, đó là: lạm dụng thế mạnh về kinh tế để áp dụng các điều khoản và
điều đó chỉ mang lại lợi ích thái quá cho nhà kinh doanh thì sẽ bị hủy bỏ.
Đối với khái niệm về ngay tình, ban đầu được hiểu sự ngay tình chính
là sự thực hiện nghiêm chỉnh những nội dung, điều kiện trong giao dịch cũng
như trong pháp luật quy định. Các bên không được có hành vi cản trở nhau
thực hiện nghĩa vụ này. Nhưng về sau sự phát triển của giao dịch ngày càng
cao với cách giải thích này không còn phù hợp nữa. Lúc này người ta hiểu sự
ngay tình ngoài cách hiểu trên còn được hiểu cả theo nghĩa hợp tác cùng nhau
thực hiện. Tức là, ngoài việc các bên thực hiện những nghĩa vụ trong giao
dịch ra còn phải thực hiện cả việc tạo điều kiện như cung cấp thông tin cần
thiết cho các bên cùng tham gia [96, tr. 9].
Thứ hai: Các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện. Đây là sự phản
ánh tính thống nhất ý chí của các bên, cho nên nó là một yếu tố quan trọng để
15