Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giai quyet cac van de ve thieu luong phong khach san dat tieu chuan va gia phong o cac co so luu tru
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam nằm ở vùng trung tâm của khu vực Đông Nam Á, và Việt
Nam giáp nhiều quốc gia trong khu vực, do đó tỷ lệ khách du lịch quốc tế đến
Việt Nam ngày càng tăng trong vài năm gần đây. Theo số liệu của Tổng cục
du lịch
Bảng 1: Bảng số liệu thống kê lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam
Đơn vị: người
Lượng khách cả năm
2006 2007 2008 2009
Tổng số 3583486 4171564 4253740 3777359
Theo phương tiện
Đường không 2702430 3261941 3283237 3025625
Đường biển 224081 224389 157198 65935
Đường bộ 656975 685234 813305 680800
Nguồn: Tổng cục du lịch
Trong chín tháng đầu năm 2008 mức tăng trưởng lượng khách quốc tế
đến Việt Nam chỉ đạt 5,9%, với khoảng trên 3,3 triệu lượt khách. Tổng lượt
khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 9-2008 khoảng 315.000 giảm
khoảng 8% so với tháng trước. Trong năm thị trường có nhiều khách đến nhất
thì có Nhật là có mức tăng trưởng 18,6% trong tháng 9. Nhưng cả chín tháng
năm nay thì lượng khách từ Nhật vẫn thấp hơn so với cùng kỳ năm trước. Còn
lượng khách Trung Quốc giảm 3%; khách Hàn Quốc giảm 22,6%; khách Mỹ
giảm 11,4% và khách Đài Loan giảm 8%. Lượng khách quốc tế giảm là vấn
đề đặt ra cần giải quyết cho ngành du lịch vì mảng khách du lịch quốc tế
chiếm đến 2/3 trong tổng doanh thu của ngành. Và các công ty du lịch đã
Nguyễn Thị Mai Lan 1 Lớp: Du lịch 48
Chuyên đề tốt nghiệp
phải đối phó với tình hình kinh doanh đầy khó khăn. Nhiều công ty doanh thu
sụt giảm và hiện chỉ có một số ít doanh nghiệp vẫn đạt được mức tăng trưởng
trong kinh doanh. Nếu tính theo mức tăng trưởng hiện tại thì đến hết năm
2008 Việt Nam có thể chỉ có khoảng 4,6 triệu lượt khách quốc tế. Nguyên
nhân chính của sự sụt giảm này là do những khó khăn chung về tình hình kinh
tế suy giảm, gia tăng chi phí vận chuyển, điều hành làm ảnh hưởng đến tính
cạnh tranh của ngành du lịch. Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, lượng khách
du lịch đường bộ đến Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2009 suy giảm đáng
kể, bằng 66,1% so với cùng kỳ năm ngoái, tương đương với trên 350.000
lượt. Và lượng khách du lịch đến Việt Nam giảm mạnh, riêng khách du lịch
đến miền Trung vào khoảng 70.000 lượt, bằng khoảng 80% so với năm ngoái.
Tình hình suy giảm trên là do ảnh hưởng suy thoái kinh tế toàn cầu, người
tiêu dùng cắt giảm chi tiêu, trong đó có việc hoãn các chương trình du lịch
nước ngoài hoặc chọn các điểm đến gần. Để đối phó với việc sụt giảm khách
du lịch thì những hoạt động tiếp thị, quảng bá, bàn bạc để tìm giải pháp vực
dậy thị trường đã được đưa ra đầu quí 3. Trong đó, những hoạt động thiên về
quảng bá, tiếp thị các sản phẩm du lịch được đầu tư nhiều hơn. Đây là lần đầu
tiên ngành du lịch chi ra một khoản kinh phí lên đến 16 tỉ đồng để thực hiện
các chương trình giới thiệu hình ảnh du lịch Việt Nam trên những kênh truyền
hình quốc tế. Tháng 9 năm 2009 hàng loạt chương trình giới thiệu điểm đến,
quảng bá hình ảnh được thực hiện ở các nước như Nga, Nhật... Đến đầu tháng
10 năm 2009 chương trình tour làm quen cho trăm khách Hàn Quốc, Nhật
Bản để khôi phục lại thị trường cũng đã được tổ chức tại Nha Trang. Tuy
nhiên, những động thái tích cực nêu trên của ngành du lịch vẫn chưa đủ để tạo
ra sức hấp dẫn của điểm đến du lịch Việt Nam. Những vấn đề lớn tồn tại từ
rất lâu như chất lượng dịch vụ tại điểm đến kém, sản phẩm nghèo nàn, hệ
thống sản phẩm du lịch còn đơn điệu... vẫn chưa có những giải pháp hữu hiệu
để giải quyết tận gốc của những vấn đề đó. Tình trạng du lịch hiện nay là vì
sản phẩm du lịch của Việt Nam đã quá cũ kỹ, không có những nét đột phá
riêng. Điểm quan trọng để ngành du lịch phát triển không chỉ ở việc quảng bá
Nguyễn Thị Mai Lan 2 Lớp: Du lịch 48
Chuyên đề tốt nghiệp
tốt mà là sự hấp dẫn của điểm đến du lịch, vì thế việc nâng cao chất lượng
dịch vụ, tạo thêm những sản phẩm mới là điều cần phải làm. Trong khi chưa
có những sản phẩm mới cho khách, thì một vài sản phẩm hiện có, vốn có thể
tạo thêm điểm nhấn cho ngành du lịch vẫn chưa có những điều kiện thuận lợi
để thực hiện và được quan tâm phát triển mạnh. Trong số những sản phẩm đó,
loại hình du lịch caravan cho khách nước ngoài và khách trong nước muốn đi
ra nước ngoài bằng chính phương tiện của mình là loại hình du lịch cần được
xem xét để phát triển nhằm thu hút khách quốc tế vào Việt Nam trong thời
gian tới.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Du lịch Caravan không phải là một loại hình du lịch mới, nhưng trong
thời gian gần đây nó đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của khách du lịch.
Mặt khác, khách đi du lịch Caravan có thể tự khám phá, trải nghiệm tất cả và
chủ động nhiều hơn trong kế hoạch đi du lịch của mình, nên loại hình du lịch
này cũng rất phù hợp với xu hướng đi du lịch của con người hiện nay. Và như
đã nói ở trên thì phát triển du lịch Caravan là rất cần thiết trong thời gian tới.
Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là tìm ra những giải pháp để phát
triển du lịch Caravan ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu thực trạng của loại hình
du lịch Caravan và những thuận lợi cùng với những khó khăn trong việc phát
triển loại hình này tại Việt Nam. Từ đó thì có những giải pháp nhằm khắc
phục những khó khăn để phát triển loại hình du lịch này tại Việt Nam
2.2.1. Đánh giá mức độ phát triển của loại hình du lịch Caravan ở
Việt Nam hiện nay.
Loại hình du lịch Caravan đã được phát triển ở Thái Lan từ lâu và cũng
đã xuất hiện ở Việt Nam từ mấy năm trước. Loại hình du lịch này đã bắt đầu
phát triển ở các nước như Thái Lan, Malaysia, Singgapore từ những năm
Nguyễn Thị Mai Lan 3 Lớp: Du lịch 48
Chuyên đề tốt nghiệp
1993 -1994 nhưng lúc đó ở Việt Nam mới bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên ngay
khi xuất hiện ở Việt Nam thì bị “ nghẽn” bởi Luật Giao thông đường bộ có
hiệu lực vào năm 2002. Đến tháng 6/2005, du lịch caravan mới được phục hồi
trở lại tại Việt Nam. Từ cuối năm 2005, việc khai thông loại hình du lịch
đường bộ, cho phép khách du lịch đi bằng xe riêng qua lại tại 3 cửa khẩu
giữa, Thái Lan, Việt Nam và Lào trên các quốc lộ 8, 9 và 40. Theo đó, nhiều
đoàn caravan quốc tế đến miền Trung nhiều hơn. Kể từ cuối năm 2006, khi
cầu Hữu Nghị 2 nối Mukdahan (Thái Lan) và Savanakhet (Lào) được đưa vào
khai thác thì tour du lịch caravan xuyên Hành lang kinh tế Đông – Tây mở
rộng mới thu hút được sự tham gia và quảng cáo rầm rộ của những người làm
du lịch. Riêng Việt Nam hiện có hàng chục hãng lữ hành mở tour du lịch
đường bộ xuyên Đông Dương. Theo số liệu thống kế năm 2006 lượng khách
du lịch Thái Lan, Lào đến miền Trung đạt 70.000 khách, năm 2007 đạt
100.000 khách, 09 tháng đầu năm 2008 gần 100.000 khách. Vì vậy, từ 2006-
2008, các DN lữ hành quốc tế đã tổ chức được cho gần 200 đoàn caravan với
gần 3.500 xe các loại, khoảng 11.000 lượt khách, từ đó cũng thúc đẩy các
loại hình du lịch đường bộ khác phát triển, thu hút mỗi năm 60.000 đến
90.000 lượt khách qua cửa khẩu miền Trung Việt Nam
2.2.2. Tiềm năng phát triển du lịch Caravan ở Việt Nam
Trong khối ASEAN du lịch đường bộ và du lịch Caravan rất phát triển
ở các quốc gia có chung đường biên giới như giữa Thái Lan với các nước
Malaysia, Singapore hay Thái Lan với khu vực 3 nước Đông Dương hay
Malaysia và Brunei. Trong thời gian gần đây, khi hạ tầng giao thông được
nâng cấp, các cửa khẩu được mở rộng và phát triển thì Việt Nam cũng đã
quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển loại hình du lịch này. Đặc biệt, các
chính sách cơ chế tạo điều kiện thu hút và phát triển du lịch đường bộ đã được
ban hành và ngày càng thông thoáng, cởi mở hơn đã tạo điều kiện cho loại
hình du lịch Caravan có cơ hội phát triển. Từ các điều trên cho thấy Việt Nam
có rất nhiều điều kiện và khả năng thuận lợi để phát triển loại hình du lịch
Caravan trong thời gian tới và trong tương lai.
Nguyễn Thị Mai Lan 4 Lớp: Du lịch 48
Chuyên đề tốt nghiệp
2.2.3. Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch
Caravan trong thời gian tới
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Hiện nay mức sống hay thu nhập của người dân Việt Nam ngày càng
tăng. Vì vậy nên nhu cầu đi du lịch của họ ngày càng tăng, họ đi du lịch ngày
càng nhiều hơn. Và cùng với nhu cầu đi du lịch tăng thì nhu cầu về các sản
phẩm du lịch, các dịch vụ du lịch cũng cao. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao đó thì ngành du lịch Việt Nam cũng đã có rất nhiều sản phẩm du lịch mới,
loại hình du lịch mới được đưa ra thị trường. Ví dụ như: loại hình du lịch nghỉ
dưỡng ngày càng phát triển, loại hình du lịch làng nghề, loại hình du lịch đến
các làng quê Việt Nam, loại hình du lịch homestay, hay loại hình du lịch tâm
lí, loại hình du lịch mạo hiểm, khám phá... Đặc biệt thì trong tương lai gần
đây Việt Nam đang phát triển loại hình du lịch Caravan, lượng khách tham
gia. Và trong chuyên đề này, đối tượng mà em muốn nghiên cứu loại hình du
lịch Caravan ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Du lịch Caravan là du lịch quốc tế vì khách du lịch sẽ rời nơi ở thường
xuyên của mình đến một quốc gia khác để di du lịch. Do đó những khách du
lịch đi theo đoàn du lịch Caravan sẽ bao gồm có khách du lịch quốc tế vào
Việt Nam và khách du lịch là những người Việt Nam đi ra nước ngoài. Tuy
nhiên trong bài nghiên cứu này thì em nghiên cứu loại hình du lịch Caravan
trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
5. Nội dung nghiên cứu của đề tài:
Nội dung nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Nghiên cứu điều kiện chung để phát triển du lịch và điều kiện đặc trưng
để phát triển loại hình du lịch Caravan và đối tượng khách của loại hình du
lịch này.
- Đưa ra những lợi ích của việc phát triển loại hình du lịch Caravan ở
Việt Nam.
Nguyễn Thị Mai Lan 5 Lớp: Du lịch 48
Chuyên đề tốt nghiệp
- Sau đó phân tích thực trạng của loại hình du lịch Caravan và thị trườn
khách của loại hình du lịch này ở Việt Nam.
- Các văn bản và hội thảo ở Việt Nam nhằm phát triển loại hình du lịch
này trong thời gian tới
- Từ những điều trên tìm ra giải pháp cho việc phát triển loại hình du lịch
này ở Việt Nam trong thời gian tới.
Nguyễn Thị Mai Lan 6 Lớp: Du lịch 48
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I. CỞ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH
DU LỊCH CARAVAN Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Loại hình du lịch:
Theo tác giả Trương Sỹ Quý thì loại hình du lịch có thể định nghĩa như
sau: “ Loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có
những đặc điểm giống nhau, hoặc vì chúng thoả mãn những nhu cầu, động cơ
du lịch tương tự, hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì
chúng có cùng một cách phân phối, một cách tổ chức như nhau, hoặc được
xếp chung theo một mức giá bán nào đó
1.1.2. Các loại hình du lịch:
Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành
các loại hình du lịch ác nhau. Trong các ấn phẩm về du lịch đã được phát
hành, khi phân các loại hình du lịch các tiêu thức phân loại thường được sử
dụng như sau:
1.1.2.1. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch.
Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch
nội địa:
Du lịch quốc tế: là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm
đến của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Ở hình thức du
lịch này khách phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch.
Bản thân du lịch quốc tế lại được phân thành:
Du lịch quốc tế chủ động: là hình thức du lịch của những từ người nước
ngoài đến một quốc gia nào đó và tiêu ngoại tệ ở đó.
Du lịch quốc tế thụ động: là hình thức du lịch của công dân một quốc
gia nào đó và của những người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ của quốc
gia đó đi ra nứơc khác du lịch và trong chuyến du lịch ấy họ đã tiêu tiền kiếm
ra tại đất nước đang cư trú.
Nguyễn Thị Mai Lan 7 Lớp: Du lịch 48
Chuyên đề tốt nghiệp
Ví dụ: Khách nứơc ngoài vào Việt Nam đi du lịch, ngành du lịch Việt
Nam phục vụ. Trong trường hợp này, Việt Nam kinh doanh du lịch quốc tế
chủ động. Du lịch quốc tế chủ động tương đương với xuất khẩu vì cùng tạo ra
nguồn thu ngoại tệ cho một quốc gia
Công dân Việt Nam ra nước ngoài du lịch, ngành du lịch Việt Nam gửi
khách. Trong trường hợp này, Việt Nam kinh doanh du lịch quốc tế thụ động.
Du lịch quốc tế thụ động tương đương với nhập khẩu, vì cùng gây ra hiện
tượng xuất ngoại tệ từ một quốc gia ra nước ngoài.
Du lịch nội địa: là hình thức đi du lịch mà điểm xuất và điểm đến của
khách cùng nẳm trong lãnh thổ của một quốc gia
1.1.2.2. Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch. Theo tiêu thức
này, du lịch đựơc phân thành những loại hình du lịch sau:
Du lịch chữa bệnh
Ở loại hình này, khách đi du lịch do nhu cầu điều trị các bệnh tật về thể
xác và tinh thần của họ. Du lịch chữa bệnh lại được phân thành:
Chữa bệnh bằng khí hậu: khí hậu núi, khí hậu biển
Chữa bệnh bằng nước khoáng: tắm nước khoáng, uống nước khoáng
Chữa bệnh bằng bùn
Chữa bệnh bẳng hoa quả
Chữa bệnh bằng sữa (đặc biệt sữa ngựa ).
Du lịch nghỉ ngơi, giải trí
Nhu cầu chính làm nảy sinh hình thức du lịch này là sự cần thiết phải
nghỉ ngơi để phục hồi thể lực và tinh thần cho con người. Đây là loại hình du
lịch có tác dụng giải trí, làm cuộc sống thêm đa dạng và giải thoát con người
ra khỏi công việc hàng ngày.
Du lịch thể thao
Du lịch thể thao chủ động: khách đi du lịch để tham gia trực tiếp vào
họat động thể thao. Du lịch thể thao chủ động bao gồm:
Du lịch leo núi;
Nguyễn Thị Mai Lan 8 Lớp: Du lịch 48