Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giải pháp phòng chống rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam
PREMIUM
Số trang
76
Kích thước
744.6 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1900

Giải pháp phòng chống rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do hình thành đề tài

Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động ngân hàng không những

chịu các áp lực về kinh tế mà còn chịu áp lực ngày càng gia tăng của các tội phạm

liên quan đến hoạt động ngân hang, trong đó có tội phạm rửa tiền. Ngoài việc phải

đối phó với các khoản tiền bất hợp pháp được tẩy rửa trong nước, hiện nay hệ thống

nhân hang Việt Nam đang phải đối phó với nguy cơ từ các tổ chức tội phạm quốc tế

sử dụng Việt Nam như nơi rửa tiền của các hoạt động bất hợp pháp.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 về

phòng, chống rửa tiền và Nghị định này tập trung chủ yếu trong lĩnh vực ngân hang.

Điều này thể hiện quyết tâm chống rửa tiền của Việt Nam trong bối cảnh hệ thống

thanh tra, giám sát ngân hang còn yếu, tình trạng tham nhũng diễn ra tinh vi, mức

độ sử dụng tiền mặt cao và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn.

Tuy nhiên, với những hạn chế của khung pháp lý cho hoạt động phòng,

chống rửa tiền cùng những thách thức cho ngành ngân hang Việt Nam trước thềm

hội nhập đòi hỏi Nhà nước và ngành ngân hang phải nhanh chóng có giải pháp để

đương đầu với vấn nạn rửa tiền và thực hiện chống rửa tiền có hiệu quả cao nhất.

Đây chính là lý do để hình thành Luận văn này với nội dung nghiên cứu tập trung

vào “Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam”

xoay quanh chủ yếu ba vấn đề chính đó là: hoàn thiện khung pháp lý phòng, chống

rửa tiền, tạo lập môi trường kinh tế thích hợp và chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ cho

hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở thực trạng hoạt động rửa tiền trên thế giới nói chung và tại Việt

Nam nói riêng cùng với những nguy cơ rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam

khi hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn tập trung đưa ra các giải pháp phòng, chống

rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Với mục tiêu chính là đưa ra các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ

thống ngân hang Việt Nam, đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là hoạt động

2

rửa tiền, hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam và phạm vi nghiên cứu được

tập trung vào hệ thống ngân hang Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn đã kết hợp phương pháp phân tích lý thuyết các văn bản, tài liệu và

sử dụng phương pháp thống kê số liệu có lien quan đến hoạt động rửa tiền dể tiến

hành phân tích những nguy cơ dẫn đến hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hang

Việt Nam trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, Luận văn tập trung đưa ra các giải

pháp để phòng chóng rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam.

5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Các giải pháp được đưa ra trong Luận văn tập trung vào ba mảng chính là:

hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền, tạo lập môi trường kinh tế thích

hợp để hạn chế nạn rửa tiền,và chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ cho cuộc chiến chống

rưa3 tiền. Các giải pháp này được phân loại phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của

các cấp, ngành, đó là nhóm giải pháp về phía Nhà nước, về phía ngân hang Nhà

nước và về phía các ngân hang thương mại.

Nhóm giải pháp về phía Nhà nước mang tính chất dài hạn nhằm tạo lập một

môi trường pháp lý hoàn chỉnh và một môi trường kinh tế thích hợp.

Nhóm giải pháp về phía Ngân hang Nhà nước và các ngân hang thương mặi

được sử dụng trong ngắn hạn như những công cụ tác nghiệp và có thể được vận

dụng ngay. Tuy nhiên việc xem xét và lựa chọn giải pháp nào còn tuỳ thuộc vào

tình hình thực tế và đặc điểm riêng có của từng ngân hang.

6. Kết cấu của luận văn

Nội dung của luận văn gồm ba phần:

Phần 1: Phần mở đầu giới thiệu đề tài nghiên cứu và trình bày sơ lược về nội

dung nghiên cứu.

Phần 2: Nội dung nghiên cứu của đề tài,bao gồm ba chương:

- Chương 1: Khái quát về hoạt động rửa tiền và phòng,chống rửa tiền

- Chương 2: Hoạt động rửa tiền và phòng,chống rửa tiền tại Việt Nam

- Chương 3: Giải pháp phòng,chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt

Nam

Phần 3:Phần kết luận chung qua quá trình nghiên cứu.

3

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN

VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN

1.1. Khái quát về hoạt động rửa tiền

Rửa tiền không phải là một hiện tượng mới mẻ, nó cũng xưa như chính tội ác.

Từ ngàn xưa, nhũng kẻ phạm tội đều tìm mọi cách che giấu nguồn gốc của các đồng

tiền tội ác nhằm xoá sạch dấu vết các hành động tội phạm của họ. Ngày nay, do sự

bành trướng của nạn tham nhũng tại nhiều quốc gia, nạn buôn bán mà tuý và buôn

lậu vũ khí trên toàn cầu với doanh số mỗi năm ước lượng đến hàng trăm, hàng ngàn

tỉ đô la Mỹ, thêm vào đó là các tổ chức khủng bố quốc tế với khả năng tài chính và

nhu cầu cung cấp tiền cho mạng lưới khủng bố trên toàn thế giới rất lớn đã khiến

cho việc rửa tiền trở thành một dịch vụ béo bở cho một thị trường ngày càng rộng

lớn. Hoạt động rửa tiền ngày càng trở nên tinh vi hơn, khéo léo và với kỹ thuật cao

cấp hơn. Không những nó giúp cho những “ông trùm” thoát khỏi sự trừng phạt của

pháp luật, ngang nhiên trở thành những ông chủ giàu có, lương thiện mà còn tạo

điều kiện cho việc phát triển các mạng lưới khủng bố tại nhiều quốc gia, mang lại

những hậu quả khó lường đối với vấn đề an ninh quốc gia và quốc tế. Do đó, rửa

tiền đang là một mối đe dọa nguy hiểm đặt ra cho toàn thế giới, đòi hỏi sự hợp tác

cũng mang tính chất toàn cầu của các quốc gia trên thế giới nhằm ngăn chặn hiểm

họa này.

Hiện nay và trong tương lai gần, nền kinh tế Việt Nam sẽ hội nhập sâu hơn vào

hệ thống tài chính thế giới. Điều này đặt ra nhiều thách thức trong việc xây dựng

pháp luật, kiểm soát tài chính và nhất là các công cụ để chống rửa tiền có hiệu quả.

Sự hội nhập kinh tế ngày càng sâu sẽ làm cho hệ thống tài chính của Việt Nam đối

mặt nhiều hơn nữa các hành vi rửa tiền ở cấp độ tinh vi hơn. Đây là một trở ngại và

thách thức đáng kể trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Việc nhận thức được

những tác hại nghiêm trọng từ hoạt động rửa tiền và xây dựng khung pháp lý trong

phòng, chống rửa tiền là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

4

1.1.1. Khái niệm rửa tiền

Trên thế giới có rất nhiều khái niệm rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác

nhau.

Theo Liên Hiệp Quốc, dựa vào công ước Vienna (1988) và công ước Palermo

(2000), khái niệm rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất là “Việc sử dụng

(nghĩa là với bất cứ hình thức nào của cả hành động cho và nhận) bất cứ tài sản

nào mà nó được cho là có nguồn gốc từ hoạt động hoàn toàn hay một phần của

phạm tội mà có hoặc từ hoạt động che đậy, trá hình nhằm giúp đỡ người phạm tội

đó thoát khỏi pháp luật”.

Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): “Rửa tiền là quá trình chuyển đổi

qua nhiều giai đoạn khoản tiền kiếm được từ những hoạt động bất hợp pháp hoặc

tội phạm để nó có vẻ được phát sinh từ các quỹ hợp pháp”.

Theo quan điểm của các nhà tội phạm học: “Rửa tiền là hoạt động mà bọn tội

phạm tiến hành để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của những đồng tiền tội lỗi.

Hoạt động rửa tiền là hành vi hợp thức hoá những khoản tiền thu được từ hoạt

động tội phạm”.

Ở Việt Nam, theo Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 do Chính phủ

ban hành thì khái niệm rửa tiền được định nghĩa như sau:

“Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hóa tiền, tài sản

do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau đây:

- Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản

do phạm tội mà có;

- Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử

dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;

- Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm

cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thực

sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm

tội mà có”.

5

1.1.2. Nguồn gốc của tiền “bẩn”

Mục đích của hoạt động rửa tiền là tạo ra một khoảng cách xa nhất giữa tài sản

bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Hình thức biểu hiện lợi nhuận có

được ban đầu thông thường là tiền, cũng có thể gọi đây là tiền “bẩn”. Sau các giai

đoạn chuyển đổi để hợp pháp hoá, tiền “bẩn” sẽ có các hình thức biểu hiện khác

như: thẻ tín dụng, bất động sản, các khoản đầu tư hợp pháp, ...

Nguồn gốc của tiền “bẩn” thường từ các hoạt động sau:

- Buôn lậu ma túy, vũ khí, mại dâm và các loại hàng hoá bị cấm mua bán, trao

đổi như rượu, thuốc lá, …

- Tiền tham nhũng, nhận hối lộ;

- Tiền có do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước để biết trước các

thông tin về chủ trương, chính sách, qui hoạch, ... nhằm trục lợi;

- Tiền có được do mua bán nội gián trên thị trường chứng khoán, mua bán lòng

vòng;

- Tiền của các tổ chức tội phạm có được do làm tiền giả, tống tiền, tổ chức đánh

bạc;

- Tiền có được do hoạt động chuyển giá giữa các công ty thuộc cùng một tập

đoàn hoặc công ty mẹ - con hoặc tiền có được do trốn thuế.

Nhìn chung các hình thức biểu hiện lợi nhuận của hoạt động rửa tiền bao gồm

những lợi ích kinh tế của hoạt động rửa tiền mang lại được quy là “sản phẩm của tội

phạm” (Theo Công ước Strasbong 1990 của Hội đồng Châu Âu).

1.1.3. Đối tượng tham gia vào hoạt động rửa tiền

Đối tượng tham gia vào hoạt động rửa tiền bao gồm những cá nhân và pháp

nhân tham gia vào quá trình rửa tiền với mong muốn hợp pháp hóa tiền và tài sản có

được từ hoạt động tội phạm và sử dụng tài sản đó. Chủ sở hữu những khoản tiền cần

tẩy rửa bao gồm những cá nhân và tổ chức đã thực hiện các hành vi tội phạm về ma

túy, tài chính, tham nhũng, lừa đảo, mại dâm, buôn bán vũ khí,...

6

Có thể xếp những người rửa tiền làm bốn nhóm:

Nhóm thứ nhất, những người buôn lậu (ma túy, vũ khí, lao động bất hợp

pháp…);

Nhóm thứ hai, những người tham nhũng;

Nhóm thứ ba, những người muốn tránh thuế;

Nhóm thứ tư là các tổ chức khủng bố.

Tất nhiên, các nhóm trên không hoàn toàn biệt lập, tham nhũng, tội phạm và

kinh doanh bất chính có nhiều chỗ giống nhau, cấu kết với nhau và tiếp sức cho

nhau. Ví dụ, các quan chức thì cần có người để rửa tiền tham nhũng, tiền nhận hối

lộ, người rửa tiền này có thể là tội phạm chuyên nghiệp hoặc công ty ma. Ngược lại,

tội phạm và doanh nghiệp cũng thường đút lót các quan chức tham ô để làm ngơ

cho các hoạt động kinh doanh phi pháp, trốn thuế.

Ở một số nước có hệ thống chống rửa tiền nghiêm khắc và hoàn chỉnh như Mỹ

và cộng đồng Châu Âu thì đối tượng hoạt động rửa tiền khá rộng. Ngoài những cá

nhân, pháp nhân có hành vi rửa tiền một cách trực tiếp, nhân viên ngân hàng vô ý

hay cố ý tiếp tay cho hành vi rửa tiền qua ngân hàng đều phải chịu trách nhiệm

trước pháp luật. Vì vậy, luật Ngân hàng các nước này quy định: mọi nhân viên ngân

hàng khi tiếp nhận các khoản tiền gửi lớn đều phải có nghĩa vụ yêu cầu khách hàng

khai báo nguồn gốc tiền, chủ sở hữu thực, ... phục vụ thông tin phòng, chống rửa

tiền. Nhân viên nào không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trên, nếu phát hiện ra các

khoản tiền bất hợp pháp, cơ quan pháp luật hoàn toàn có thể truy tố họ về một trong

các tội rửa tiền vì mất cảnh giác, không thực hiện nghĩa vụ quy định cho dù họ

không biết đây là tiền có nguồn gốc tội phạm và như vậy, họ cũng bị quy kết tham

gia vào quá trình rửa tiền.

1.1.4. Độ lớn của rửa tiền trong nền kinh tế

Việc đo lường mức độ rửa tiền của một quốc gia như thế nào nhằm đánh giá tính

nghiêm trọng khi có nhu cầu phân tích lại là một vấn đề không đơn giản. Có nhiều

cách đo lường trực tiếp hoặc gián tiếp để ước lượng số lượng tiền được rửa ở một

nền kinh tế nào đó. Ta có thể xem xét hai cách tiếp cận như sau:

7

Thứ nhất là cách tiếp cận vĩ mô. Đây là cách đo lường phổ biến vào những năm

1980, họ ước lượng hoạt động của kinh tế ngầm chiếm bao nhiêu phần trăm của

GDP và thông qua đó phỏng đoán mức rửa tiền. Công cụ thường dùng là quan sát

sự dịch chuyển bất thường nhu cầu xã hội theo thời gian, hoặc là sự tăng vọt hay

giảm thuế đột ngột.

Cách tiếp cận thứ hai là tiếp cận vi mô. Cách này thường ước lượng gộp thông

qua các hoạt động tội phạm được phát hiện, các kênh thông tin đường phố (street

knowledge). Thông thường thì các thống kê mức độ rửa tiền công bố với một biên

độ dao động khá rộng tính bằng phần trăm GDP. Chẳng hạn như những kết quả

công bố gần đây của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF1

, số lượng tiền được rửa ở Úc khoảng

4% - 12% GDP, ở Đức là 2% - 11%, ở Ý là 10% - 33%, Nhật là 4% - 15%, Anh là

1% - 15% và ở Mỹ là 4% - 33%.

Ở Việt Nam chưa có một công bố thống kê chính thức nào về hoạt động rửa tiền

cũng như độ lớn của nó trong nền kinh tế. Tuy nhiên một nghiên cứu công bố gần

đầy về hoạt động không chính thức của kinh tế Việt Nam làm chúng ta lo ngại.

Nghiên cứu của Stoyan2

và cộng sự cho rằng hoạt động phi chính thức của Việt

Nam vào năm 2001 vào khoảng 50% GDP và có xu hướng tăng dần hàng năm.

Trong đó, các hoạt động phụ của hộ gia đình ở nông thôn chiếm 24%, hoạt động

kinh doanh và dịch vụ không khai báo ở thành thị là khoảng 10,5% và hoạt động

không khai báo khác là 10%.

Như vậy chúng ta thấy dù ít hay nhiều thì hoạt động rửa tiền ở Việt Nam có thể

tồn tại và nếu tính quy đổi theo tỷ lệ phần trăm nào đó đối với hoạt động kinh tế

ngầm theo nghiên cứu của Stoyan nêu trên thì Việt Nam cũng có cơ sở quan tâm và

nghiên cứu đến chủ đề này khá phức tạp và khó đo lường này.

1.2. Quy trình rửa tiền

Một quy trình rửa tiền tiêu biểu thông qua hệ thống ngân hàng thường bao gồm

3 giai đoạn sau:

1

Peter J. Quirk, “Money Laundering: Muddying the Macroeconomy”, IMF Working Paper 96/66. 2

Stoyan Tenev và cộng sự, Hoạt động không chính thức và môi trường kinh doanh ở VN, 2003,

NXB Thông tấn.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!