Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Factors affecting the liquidity of commercial banks in Vietnam 2010-2020, 2021
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING THE BANK OF VIET NAM
------------------------------
BANKING UNIVERSITY OF HO CHI MINH CITY
NGUYEN MY KHANH
FACTORS AFFECTING THE LIQUIDITY OF
COMMERCIAL BANKS IN VIETNAM 2010-2020
GRADUATION THESIS
SPECIALITY : FINANCE – BANKING
NO.: 7340201
HO CHI MINH CITY, 2021
MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING THE BANK OF VIET NAM
------------------------------
BANKING UNIVERSITY OF HO CHI MINH CITY
NGUYEN MY KHANH
FACTORS AFFECTING THE LIQUIDITY OF
COMMERCIAL BANKS IN VIETNAM 2010-2020
GRADUATION THESIS
SPECIALITY : FINANCE – BANKING
NO.: 7340201
INSTRUCTOR
Dr. NGUYEN DUY LINH
HO CHI MINH CITY, 2021
i
ABSTRACT
Banking system in Vietnam has made a lot of significant changes since its first
establishment on May 6th, 1951. Around 60 years later, in 2010, the banking system has
revealed a number of flaws as a result of the global market's influence as well as the
consequences of the previous rapid expansion. Credit quality had deteriorated, and the
system's liquidity had become more unstable than it has ever been. As a result, at the
beginning of 2012, the commercial banking system began the reforming process in
accordance with the Project on restructuring the Credit Institution System from 2011 to
2015 (Project 254). After 5 years of implementation, the project has largely met its
objectives, dealt with weak commercial banking operation, and maintained the banking
system stability.
Liquidity stress of the system during the period 2006 - 2011 occurred 3 phases with
different developments and characteristics: First phase was in 2008, then the second one
happened in December 2009, and the third phase lasted from October 2010 to November
2011. The cause of liquidity risk of commercial banks during this time is due to many
factors, from objective conditions to subjective factors of commercial banks. Objective
conditions can be mentioned as the effects of the world economic crisis and domestic
macroeconomic conditions. But the main cause is still the subjective factors of the
system where commercial banks do not meet the requirements on ensuring liquidity
safety set forth by the State Bank as well as suffering from of handling information crisis
related to the banking system. The consequences later on affected further to the prestige
and influence of the Bank's Board of Directors. With such booming evolvement rate
alongside the affection of macroeconomic and financial market developments, there has
been a huge increase in many banks overall that are exposed to liquidity risk.
ii
Many research about liquidity in commercial banking was carried out all over the
world. Some of the studies are: The management of Liquidity risk in Islamic Banks: The
case of Indonesia (Ismal Rifki, 2010); Liquidity risk management by Zimbabwean
Commercial Banks (Laurine Chikoko, 2012); Determinants of Banks Liquidity:
Empirical Evidence on Turkish Banks (Amer Mohamad, 2016). Some even bring out the
specific case study such as: Managing liquidity risk in bank – Case study Rural
investment credit bank Cameroon (Anye Paul Tsi, 2018) or Effect of liquidity
management on the performance of commercial banks – A case of Stanbic Bank Uganda
Limited (Hillary Businge, 2017). However, these mentioned groundworks mainly talked
about banks in foreign countries, not specifically referred to the current situation of the
banking industry in Vietnam.
This thesis emphasizes the importance of understanding and constructing
comprehensive liquidity frameworks as a means of mitigating liquidity stress. The author
first chose the research time within 11 years during the period 2010-2020. The reason
for this particular time phase is because of the Great Recession in America from 2007-
2009. The 2007-2009 US economic crisis had profound impacts on all aspects of
economies around the world. It sparked the 2008-2010 global economic crisis. The
United States and many other countries were suffering heavy losses from this crisis until
this days. Huge recovery has been witnessed for the past decade, starting from 2010,
there were many positive signs and the fact that the economy has started to recover from
the swamp of crisis, albeit slowly. The financial economy was stepping into a reform
period, and within 11 years many fluctuations have been occurred, following by many
promulgated laws and adjusted monetary policies. The research time is not too long or
too short, which perfectly portraits the inclines and declines of the financial trends. The
lessons and experiences drawn from this crisis will hopefully help the Vietnamese
economy in particular and the world in general to develop firmly in the future.
iii
Secondly, by using univariate regression model with the dependent variable
representing the bank's liquidity and the independent variables which are the significant
factors in the banking operations, the author is able to identify clearly the level of impacts
on liquidity in commercial banks. Hence, based on the analysis of the data, readers are
able to understand thoroughly the existed significant relationship between liquidity and
other independent variables that carry specific meanings to commercial banks activities,
in addition to find better ways to reach more availability in liquidity. The study's main
goal is to determine factors making impact on liquidity in commercial bank, hence giving
out suitable solutions and recommendations for the related parties.
iv
TÓM TẮT
Ngành ngân hàng được coi là một trong những ngành đầu tiên và ra đời sớm nhất
toàn cầu, qua đó thể hiện tầm quan trọng của các dịch vụ tài chính mà ngân hàng mang
lại cho nền kinh tế là không thể bàn cãi. Trong hầu hết các trường hợp, ngành ngân hàng
được dùng để xác định các khía cạnh phát triển của một nền kinh tế. Tầm quan trọng của
ngân hàng có thể được hiểu rõ hơn khi các nhà kinh tế học luôn đặt các tổ chức tín dụng
này nằm ở trung tâm của hệ thống tài chính thế giới. "Họ tư vấn cho chúng tôi về các
khoản đầu tư mà chúng tôi có ý định thực hiện, giúp hướng dẫn các doanh nghiệp của
chúng tôi trong việc huy động vốn trên thị trường vốn và tạo ra các thị trường mà nơi đó
tất cả các khoản vay được trao đổi mua bán với mục đích huy động tiền mặt nhằm tạo
các khoản vay mới. " (Peter Rose và Sylvia Hudgins, 2013, trang 19).
Trong quá trình toàn cầu hóa, đặc biệt dưới bối cảnh xu thế hội nhập ngày càng
được quan tâm và chú trọng, các sự kiện kinh tế được xem là điểm nhấn cho sự thay đổi
của nền kinh tế. Nổi bật nhất có thể kể đến sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO). Vào ngày 30/9/2019, Việt Nam và Hiệp
hội các Quốc gia Châu Âu đã chính thức ký kết EVFTA (Hiệp định Thương mại Tự do
Việt Nam - EU) và IPA (Cam kết Bảo hộ Đầu tư) và được Việt Nam chính thức phê
chuẩn Hiệp định này vào năm 2020. Do đó, nền kinh tế liên tục có sự thay đổi và những
biến động từ thị trường tài chính khiến ngân hàng phải đối mặt với nhiều loại rủi ro khác
nhau. Những rủi ro này bao gồm rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi
ro hoạt động và rủi ro tín dụng (Sensarma and Jayadev, 2009). Ngoài những rủi ro cốt
lõi như rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng (Fatemi and Fooladi, 2006), rủi ro thanh
khoản là một trong những điểm chính yếu cần được giám sát chặt chẽ. Ngoài ra, nguồn
lợi nhuận mà các ngân hàng thương mại mang lại hàng năm luôn là tâm điểm chú ý.
Giữa sự cạnh tranh gắt gao của các ngân hàng trong nền kinh tế không ngừng đổi mới,
v
các ngân hàng đang tồn tại thông qua việc nâng cao hiệu suất và hiệu quả hoạt động của
họ. Lợi nhuận của ngân hàng phụ thuộc vào một số yếu tố bên trong và bên ngoài. Những
yếu tố này chính là nguyên nhân làm thay đổi thu nhập ròng của một ngân hàng. Nghiên
cứu này do đó đã khảo sát ảnh hưởng của hai yếu tố bên trong là khả năng thanh khoản
và quy mô ngân hàng đến tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) của các ngân hàng thương
mại được lựa chọn. Tính thanh khoản được giải thích là khả năng ngân hàng hoàn thành
các nghĩa vụ của mình đúng hạn mà không phải chịu bất kỳ tổn thất ngoài ý muốn nào.
Theo Shershneva (2020), khái niệm khoa học cơ bản về thanh khoản trong ngân
hàng là khả năng đảm bảo thực hiện kịp thời và đầy đủ các nghĩa vụ đối với người gửi
tiền, chủ nợ và các bên khác. Một ngân hàng thương mại được coi là có tính thanh khoản
nếu nó có đủ vốn để đáp ứng các nghĩa vụ của mình. Vấn đề thanh khoản của các ngân
hàng là một trong những vấn đề chính trong hoạt động quản lý tài chính của họ. Việc
thiếu hụt tính thanh khoản làm giảm khả năng đáp ứng các nghĩa vụ của ngân hàng và
ngược lại, thanh khoản dư thừa có thể là nguyên nhân làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến vị thế thanh khoản của ngân hàng hoặc làm gián
đoạn hoạt động tài chính của ngân hàng gây mất cân bằng thanh khoản. Những yếu tố
này có thể là bên trong và bên ngoài. Yếu tố bên trong là những yếu tố thuộc quyền quản
lý của ngân hàng và đó có thể là lợi ích mà họ nhận được, chất lượng tài sản, nguồn vốn
của ngân hàng, quy mô của ngân hàng, ... Trong khi đó, yếu tố bên ngoài là những yếu
tố được coi là nằm ngoài trách nhiệm của các nhà quản lý ngân hàng và bao gồm: tăng
trưởng kinh tế, tỷ giá hối đoái, lạm phát và lãi suất. Tất cả những yếu tố này có sức ảnh
hưởng quan trọng đến tính thanh khoản của ngân hàng và sự mất cân bằng thanh khoản
trong các ngân hàng. Đồng thời, trên thế giới hay ở Việt Nam cũng đã có nhiều công
trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên, những nghiên cứu thảo luận đó vẫn chưa thể hiện đầy đủ nhất đặc điểm cạnh tranh
của tất cả ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Bên cạnh đó, khoảng thời gian của các
nghiên cứu trên cũng khá hạn chế do chưa được cập nhật thời gian mới nhất. Xuất phát
vi
từ thực tế trên, nghiên cứu này nhằm tìm ra các nhân tố vi mô và vĩ mô ảnh hưởng đến
tính thanh khoản của các ngân hàng. Từ đó, tìm ra các biện pháp phù hợp để giảm thiểu
các rủi ro thanh khoản thông qua đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến thanh khoản của
các ngân hàng thương mại Việt Nam 2010-2020” được nghiên cứu dựa trên số liệu của
24 ngân hàng thương mại được niêm yết trên sàn chứng khoán tại Việt Nam từ năm 2010
đến năm 2020.
Từ số liệu thu thập được từ các báo cáo tài chính hợp nhất của 24 ngân hàng thương
mại, tác giả đã tổng hợp dưới dạng dữ liệu bảng, sau đó dựa trên mô hình gốc từ các
nghiên cứu trước đó để phân tích những số liệu được thu thập từ báo cáo tài chính hợp
nhất của các ngân hàng thương mại này. Để kiểm tra mối tương quan của các biến, trước
hết tác giả sẽ sử dụng phương pháp phân tích tương quan. Sau đó, sử dụng F-test để chọn
giữa các phương pháp ước lượng Pooled-OLS và FEM / REM. Tiếp theo, tiếp tục tiến
hành kiểm định Hausman để lựa chọn giữa FEM và REM và chọn lọc để đi đến mô hình
phù hợp cuối cùng. Để tránh sai sót, các kiểm tra về khuyết tật như đa cộng tuyến
(multicollinearity), tự tương quan (autocorrelation) và phương sai sai số thay đổi
(heteroscedasticity) là rất cần thiết. Các khuyết tật trên sau đó sẽ được khắc phục bằng
phương pháp ước lượng tác động ngẫu nhiên (FGSL).
Qua cơ sở lý thuyết của các nghiên cứu trước đây trên toàn thế giới, điểm chung
của các tác giả là họ chia các biến độc lập thành hai nhóm: vi mô và vĩ mô. Từ đó, tùy
theo đặc điểm cụ thể về không gian và thời gian có thể rút ra những kết luận khác nhau.
Qua đó, các nhà phân tích đã đưa ra những giả thuyết về quy mô của ngân hàng, hệ số
an toàn vốn tối thiểu CA, ROA, tăng trưởng kinh tế GDP, tỷ lệ lạm phát, lãi suất ngân
hàng có ảnh hưởng tích cực đến thanh khoản ở ngân hàng. Ở khía cạnh khác, tỷ lệ NII,
NIM và tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thanh khoản. Trong khi đó,
tiền gửi ngân hàng, chất lượng tài sản, hiệu quả hoạt động không cho thấy tác động đến
khả năng thanh khoản của ngân hàng thương mại.
vii
Từ kết luận trên, kết hợp cùng với nghiên cứu của chính tác giả để đưa ra giải pháp
và khuyến nghị được đưa ra nhằm hỗ trợ hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tác giả kỳ vọng
rằng những phát hiện của nghiên cứu sẽ thực sự hữu ích cho tất cả các bên liên quan như
bản thân các ngân hàng nghiên cứu, Ngân hàng nhà nước và nền kinh tế nói chung.
Nghiên cứu này tuy vậy cũng không tránh khỏi việc thiếu sót do có những hạn chế về cơ
sở dữ liệu của một số ngân hàng do không thu thập được đủ số liệu ở những năm nhất
định. Do đó, tác giả đã loại trừ các ngân hàng đã hợp nhất với các ngân hàng khác và
không có sẵn dữ liệu cho mục đích phân tích, đồng thời chỉ lựa chọn các Ngân hàng
thương mại đã được niêm yết trên sàn chứng khoán để đảm bảo độ chính xác cao nhất
cho dữ liệu thu thập được. Hơn thế nữa, nghiên cứu này còn khuyến nghị các nhà phân
tích kinh tế nên tìm hiểu và nghiên cứu xem các vấn đề thanh khoản ở Ngân hàng thương
mại có giống nhau đối với từng loại ngân hàng hay không hoặc liệu thanh khoản có tạo
ra bất kỳ vấn đề tác động nào đối với nền kinh tế quốc gia hay không. Đặc biệt, điều
quan trọng nhất là điều tra xem việc thanh khoản có tạo thêm bất kỳ chi phí nào cho ngân
hàng trong thời gian ngắn và trung hạn hay không. Nghiên cứu có thể được mở rộng để
khám phá tác động của yếu tố bên trong đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng
như riêng biệt (như tác động đến thanh khoản của các ngân hàng vừa, nhỏ và lớn).
Cuối cùng, ngoài sự nỗ lực từ bên trong các ngân hàng thương mại, Nhà nước và
Chính phủ cũng cần ban hành các chính sách và văn bản phù hợp để hỗ trợ và thúc đẩy
hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các cơ quan chức năng cũng nên theo dõi các yếu tố
nội tại được xác định có ảnh hưởng tiêu cực đến thanh khoản của ngân hàng để giảm
nguy cơ rủi ro trong các hoạt động ngân hàng, đưa ra những giải pháp giải quyết kịp thời
các khủng hoảng.
viii
ASSURANCE LETTER
This thesis is the author's own research work, the research results are honest, in
which there are no previously published contents or content made by others except for
the cited references. Full source in the thesis.
Author
Nguyễn Mỹ Khánh