Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang
MIỄN PHÍ
Số trang
75
Kích thước
643.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1947

Dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Báo cáo tốt nghiệp

“ Dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà

giang”.

Lời nói đầu

Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước có tính

quá độ trong một thời gian nhất định. Đó là thời kỳ quá độ chuyển đổi nền kinh tế, khi

mà nguồn vốn NSNN còn bị hạn hẹp, đầu tư của các thành phần kinh tế khác ngoài

Nhà nước còn bị hạn chế, nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế – xã hội theo mục tiêu của

Nhà nước lớn. Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước được sử dụng để đầu tư xây dựng

các dự án trọng điểm, then chốt thuộc một số ngành, lĩnh vực trọng yếu, các dự án

triển khai ở các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư, có ý nghĩa ở tầm vĩ mô đối

với nền kinh tế chung của cả nước, hoặc ở những khâu xung yếu để làm mồi, tạo đà,

tạo khâu đột phá nhằm kích thích sự tăng trưởng của các ngành, các vùng kinh tế phát

triển.

Để vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước được sử dụng hiệu quả, đảm bảo khả

năng hoàn vốn phải quan tâm đến hiệu quả của dự án đầu tư sử dụng vốn tín dụng

ĐTPT của Nhà nước, điều đó đòi hỏi phải hoàn thiện cơ chế thẩm định dự án. Chất

lượng công tác thẩm định quyết định đến chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả

kinh tế của dự án đầu tư và công tác thu nợ vay của tổ chức quản lý tín dụng ĐTPT

của Nhà nước.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trong khi nước ta đang thực hiện mục

tiêu của Đảng và Nhà nước ta đề ra là nước ta trở thành một nước công nghiệp vào

năm 2020, đòi hỏi có những dự án lớn, có tổng vốn đầu tư lớn, thời gian vay vốn dài,

mặt khác do hội nhập với thị trường thế giới mà thị trường thế giới luôn có những biến

động mà ta không thể lường trước, do đó các dự án luôn tiềm ẩn yếu tố rủi ro. Để cho

việc sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước có hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn thì

phaỉ bắt đầu từ công tác thẩm định các dự án vay vốn, làm sao các dự án vừa đúng đối

tượng vay vốn theo quy định của Chính phủ, vừa phải đảm bảo hiệu quả kinh tế và khả

năng trả nợ. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp, khó khăn vì nghiệp vụ thẩm định vừa

mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật.

Chính vì vậy trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang, em đã

tìm hiểu về hoạt động thẩm định và quyết định chọn đề tài:

“ Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng

ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang”.

Với mong muốn nghiên cứu để thấy những khó khăn, vướng mắc trong công

tác thẩm định dự án đầu tư sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước hiện nay, từ đó

đưa những giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần vào việc khắc phục những khó khăn,

bất cập mà Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang đang gặp phải, phát huy hơn nữa những

thành tựu đã đạt được trong những năm qua.

Khoá luận tốt nghiệp bao gồm có 2 chương :

Chương1 : Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tín dụng ĐTPT

của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang.

Chương 2 : Đánh giá về công tác thẩm định, một số giải pháp và kiến nghị nâng

cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh

Quỹ HTPT Hà giang.

Chương 1

Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước

tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang.

1.1 – Một số vấn đề cơ bản về tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

1.1.1 – Bản chất của tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

1.1.1.1 – Khái niệm về tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

- Tín dụng là quan hệ vay trả. Tín dụng của nhà nước là các hoạt động vay – trả

giữa Nhà nước với các tác nhân hoạt động trong nền kinh tế, phục vụ cho mục đích

của Nhà nước. Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng nhà nước không phục vụ

các đối tượng kinh tế đơn thuần, mà nhằm vào các đối tượng vừa có tính chất kinh tế,

vừa có tính chất xã hội, để thực hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong

từng thời kỳ nhất định. Cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, tín dụng

nhà nước ra đời rất sớm. Tuy nhiên, tín dụng nhà nước trong giai đoạn đầu chủ yếu là

các loại tín dụng phi kinh tế, nhằm phục vụ mục đích chi tiêu của Nhà nước, là nguyên

nhân tiềm ẩn của việc tăng thuế má và lạm phát trong tương lai, nên hầu như có tính

cưỡng chế. Để đáp ứng được hai tính chất trên, tín dụng đầu tư nhà nước phải có cả

chức năng phân phối của tài chính ( phân phối, cấp phát) và chức năng tín dụng của

ngân hàng.

- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là tín dụng đầu tư của nhà nước cho vay đầu tư

với lãi suất ưu đãi theo kế hoạch của Nhà nước, hoặc theo mục tiêu, định hướng của

Nhà nước.

- Đối tượng của tín dụng ĐTPT của Nhà nước thường ở các lĩnh vực then chốt,

trọng điểm của các ngành, các vùng làm mồi, tạo đà đối với phát triển kinh tế – xã hội,

nhưng khả năng sinh lời thấp, quy mô đầu tư vốn quá lớn, hoặc quá mạo hiểm đối với

nhà đầu tư. Do đó được Nhà nước định hướng khuyến khích và ưu tiên đầu tư trong

từng thời kỳ với lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường có tín dụng thương mại.

Khái niệm tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ ra đời khi mục đích của tín dụng

nhà nước chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng có vay có hoàn trả. Tính kinh tế của

của hoạt động tín dụng nhà nước xuất hiện khi các hoạt động đầu tư phát triển được sử

dụng từ nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước để tạo ra nguồn thu có khả năng

hoàn trả khoản vốn đã sử dụng. Đây cũng chính là lý do khiến cho tín dụng ĐTPT của

Nhà nước không chỉ là công cụ củng cố tiềm lực tài chính quốc gia mà còn là công cụ

để Nhà nước có thể thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô. Giống như các hình thức tín dụng

khác, cơ chế tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển không chỉ giúp tập trung được

nguồn vốn cần thiết – nền tảng cho Nhà nước tiến hành điều tiết nền kinh tế, mà còn

có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển được nguồn vốn tín

dụng đầu tư của Nhà nước. Qua đó, Nhà nước có thể mở rộng và chủ động trong vấn

đề đầu tư phát triển.

1.1.1.2 - Đặc tính kinh tế – xã hội của tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

Do tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một hình thức tín dụng đặc biệt, ở đó tính

kinh tế của tín dụng nhà nước không phải là tính kinh tế đơn thuần. Nó bao gồm những

đặc tính sau.

- Đặc tính kinh tế vĩ mô : tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các

lĩnh vực then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả nước, hoặc

một ngành, một vùng, một khu vực.

- Đặc tính xã hội: tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực

mà tín dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể không giải quyết

được ( do hiệu quả trực tiếp của nhà đầu tư không được đảm bảo, hoặc quy mô nguồn

vốn quá lớn, thời gian thu hồi vốn đầu tư dài...) để giải quyết các vấn đề xã hội của đất

nước như : giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, điều chỉnh các cơ cấu kinh tế

...vv.

1.1.1.3 - Đặc điểm của tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

- Nguồn vốn để cho vay đầu tư là vốn của NSNN được cân đối để cho vay đầu

tư, hoặc nguồn vốn huy động theo kế hoạch của Nhà nước.

- Tổ chức tín dụng làm nhiệm vụ và cho vay tín dụng ĐTPT là hệ thống những

đơn vị, cơ quan chuyên môn của Nhà nước, được thành lập theo quyết định của Chính

phủ. Hiện nay việc cho vay tín dụng ĐTPT do hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển đảm

nhiệm.

- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT là những dự án đầu tư theo các chương

trình, mục tiêu, định hướng về chủ trương đầu tư của Nhà nước, theo chính sách kinh

tế vĩ mô, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng đã được quy định

trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.

- Lãi suất cho vay của tín dụng ĐTPT là lãi suất ưu đãi, do Nhà nước điều tiết

phù hợp với yêu cầu, đặc điểm, điều kiện cụ thể của đất nước và chủ trương khuyến

khích đầu tư phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ.

1.1.2 – Vai trò của tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong việc điều tiết nền

kinh tế.

1.1.2.1 - Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ sắc bén trong việc

lành mạnh hoá nền tài chính – tiền tệ quốc gia.

Đối với lĩnh vực tài chính, tín dụng ĐTPT của nhà nước có tác dụng tích cực

trong việc tạo dựng và phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư

thuộc trách nhiệm của tài chính quốc gia. Việc tập trung và phân bổ nguồn vốn luôn là

hai mặt của một vấn đề, có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nếu việc sử

dụng nguồn vốn được thực hiện không có hiệu quả dưới hình thức cấp phát thì khả

năng huy động nguồn vốn và can thiệp vào nền kinh tế của Nhà nước rất hạn chế. Nếu

huy động vốn bằng các hình thức tăng thuế, phí, lệ phí ...thì không những mục đích

huy động nguồn vốn khó có thể đạt được, mà nền sản xuất có thể sẽ bị bóp méo. Trong

cả hai trường hợp, sự phát triển của nền tài chính quốc gia đều bị đe doạ.

Ngược lại, vấn đề lại được giải quyết một cách hiệu quả bằng cơ chế tín dụng.

Tính chất đòn bảy đi từ cơ chế sử dụng nguồn vốn hiệu quả tới hoạt động huy động

vốn. Trên thị trường, động cơ đầu tư vào tín dụng nhà nước cũng tăng lên do các nguy

cơ về lạm phát tiềm ẩn (hình thành do vấn đề chi tài chính quốc gia không hiệu quả,

tiền tệ hoá thâm hụt ngân sách ...) không còn nữa. Như vậy tính cưỡng chế trong hoạt

động vay mượn của Nhà nước trên thị trường không cần thiết nữa. Thực tế, với các

công cụ nợ của Nhà nước hiện nay như trái phiếu, tín phiếu... Nhà nước đã có thể tập

trung một cách nhanh chóng một khối lượng vốn theo nhu cầu với thời hạn dài và chi

phí không cao. Khả năng này sẽ giúp Nhà nước chủ động trong việc điều tiết vĩ mô,

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự cải thiện tiềm lực tài chính quốc gia.

Việc ra đời của cơ chế tín dụng nhà nước còn là một tác nhân quan trọng trên

thị trường tài chính, đó là sự phát triển của thị trường chứng khoán và của khu vực các

thể chế tài chính phi ngân hàng ( công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư...)

Trái phiếu Chính phủ với quy mô lớn, tính thanh khoản cao đã trở thành một công cụ

cơ bản trên thị trường chứng khoán và lãi suất chứng khoán Chính phủ đã trở thành

mức lãi suất chỉ đạo trên thị trường tài chính. Hiệu quả hoạt động của của việc sử dụng

vốn bằng cơ chế tín dụng đã tạo ra tính an toàn cho chứng khoán Chính phủ, thúc đẩy

phát triển của hoạt động huy động vốn nói riêng và thị trường vốn nói chung. Chỉ có

tính hiệu quả của các hoạt động đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng nhà nước mới tạo ra

được nguồn thu để trang trải các nghĩa vụ nợ, lúc đó việc huy động nguồn vốn dài hạn

mới tồn tại và phát triển được.

Đối với lĩnh vực tiền tệ, vai trò của tín dụng đầu tư nhà nước cũng hết sức quan

trọng. Việc xoá bỏ cơ chế tiền tệ hoá thâm hụt ngân sách là nền tảng cho việc lành

mạnh hoá khu vực tiền tệ ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định giá trị đồng nội tệ.

Không dừng ở đó, cơ chế tín dụng đầu tư nhà nước ra đời còn là cơ sở để tách các hoạt

động tín dụng mang tính kinh tế – xã hội ra khỏi hoạt động có tính thương mại của khu

vực trung gian tài chính, chuyển hoạt động kinh doanh của các tổ chức trung gian tài

chính sang cơ chế thị trường hoàn toàn.

1.1.2.2 – Góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế.

Mục tiêu đầu tiên được đặt ra đối với tín dụng đầu tư nhà nước là thực hiện

chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, nó chính là vai trò của Nhà nước trong nền kinh

tế hỗn hợp. Nếu như khủng khoảng thừa, khủng khoảng thiếu, suy thoái kinh tế theo

chu kỳ, phân hoá giàu nghèo... là hệ quả của cơ chế thị trường, thì đây chính là mục

tiêu phải giải quyết của tín dụng nhà nước. Để có thể giải quyết được những vấn đề

này, tín dụng nhà nước một mặt phải tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề cần

thiết cho phát triển kinh tế bền vững, nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp lôi kéo các tác nhân

thị trường phát triển các lĩnh vực ngành nghề, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng

mong muốn...mặt khác, tín dụng đầu tư nhà nước sẽ tập trung vào những ngành nghề,

lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng sản phẩm

xã hội...nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách với các nước, cũng như không

tụt hậu hoặc đi lệch xu hướng phát triển kinh tế thế giới, khu vực.

1.1.2.3 – Nâng cao hiệu quả đầu tư, xoá bao cấp về đầu tư.

Nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư là vấn đề tiên quyết đối với tín dụng

ĐTPT của nhà nước. Như đã đề cập trên đây, chỉ có hiệu quả của các dự án đầu tư tín

dụng nhà nước mới tạo nền tảng cho sự phát triển của các hoạt động tín dụng đầu tư

nhà nước nói riêng, thị trường nợ của Chính phủ và thị trường tài chính nói chung. Để

đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động đầu tư, các cơ chế, chính sách quản lý tín dụng

đầu tư nhà nước được đưa ra rất chặt chẽ nhằm kiểm tra, giám sát trước và trong khi

cho vay một cách nghiêm ngặt. Dưới các áp lực này, chủ đầu tư buộc phải tăng cường

công tác hạch toán kế toán, phải chứng minh và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan

quản lý nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước về khả năng tạo ra nguồn thu nhập

cao hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp được các chi phí đã bỏ ra mà phải trả lãi

của khoản vay tín dụng đầu tư. Tiếp đó, việc quy định tài sản đảm bảo tiền vay và mức

vốn tự có của chủ đầu tư cũng sẽ có tác dụng tích cực đối với việc nâng cao hiệu quả

của hoạt động đầu tư và việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của chủ đầu tư. Giá trị của tài

sản đảm bảo tiền vay và tỷ lệ nguồn vốn tự có của chủ đầu tư so với quy mô nguồn

vốn vay càng lớn, thì trách nhiệm của chủ đầu tư càng cao và hiệu quả sẽ càng được

cải thiện. Ngoài ra, việc thực hiện cơ chế tín dụng còn có tác dụng nhất định trong việc

giảm mức độ thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế, hạn chế việc sử dụng nguồn

vốn tín dụng sai mục đích, giảm chi phí trong nền kinh tế.

Phát triển hoạt động tín dụng ĐTPT của nhà nước đi đôi với việc giảm các hoạt

động bao cấp về chi đầu tư. Nếu như không có cơ chế tín dụng, thì mọi khoản chi đầu

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!