Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đồ Án - Gia Công Áp Lực - Đề Tài - Thiết Kế Dập Chi Tiết Dạng Trụ Từ Vật Liệu Thép Không Gỉ Ct3
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
Thiết kế dập chi tiết dạng trụ từ vật liệu thép
. Không gỉ CT3
1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI
1.Khái niệm: Dập vuốt là quá trình biến đổi phôi phẳng thành một chi tiết rỗng
có hình dạng bất kỳ và được tiến hành trên các khuôn dập vuốt.
Trên chuyển kim loại trong quá trình dập vuốt. Sự tuần tự dịch chuyển được đặc
trưng bởi sự giảm đường kính ngoài của vành và bởi sự dịch chuyển các phần tử của
phôi (1-5) theo mức độ tăng chiều
sâu dập vuốt.
Hình 74: Sự dịch chuyển kim loại
tuần tự trong qua trình dập vuốt
2. Các sản phẩm điển hình của phương pháp dập vuốt
3.Đặc điểm dập vuốt :Trong quá trình dập vuốt, phần vành khăn của phôi (Dd) chuyển thành hình trụ có đường kính d và chiều cao h. Vì thể tích kim loại khi
dập vuốt không thay đổi, nên khi dập vuốt hoàn toàn hình trụ, chiều cao chi tiết h
lớn hơn chiều rộng của phần vành khăn b.
Như vậy, dập vuốt xảy ra nhờ biến dạng dẻo kèm theo sự dịch chuyển phần lớn
thể tích kim loại thành chiều cao.
2
Đập vuốt là một trong những nguyên công chủ yếu của công nghệ dập nguội.
Phạm vi sử dụng sản phẩm dập vuốt rất rộng rãi. Rất nhiều chi tiết trong máy bay ô
tô, máy kéo, máy điện và đồ dùng trong gia đình đều chế tạo bằng phương pháp dập
vuốt.
4.Các cách phân loại dập vuốt
• Theo dạng hình học
• Theo đặc điểm biến dạng kim loại
• Theo dạng hình học: có thể chia tất cả các chi tiết rỗng thành ba nhóm
1.Dạng đối xứng qua trục ( vật cốc hình tròn xoay);
Hình 2: Sơ đồ khuôn dập vuốt
2.Dạng hình hộp;
3.Dạng không đối xứng, hình thù phức tạp.
Các chi tiết thuộc nhóm 1 bao gồm các dạng hình trụ, hình trụ có bậc, hình côn,
hình bán cầu…, có thể có vành hoặc không có vành, có đáy hoặc không có đáy phẳng.
Các chi tiết thuộc nhóm 2 bao gồm hình hộp vuông, hình hộp chữ nhật, hình
hộp ô van…, có vành hoặc không có vành, có đáy phẳng hoặc không phẳng.
Các chi tiết thuộc nhóm 3 bao gồm các chi tiết có hình dạng bất kỳ nhưng phức
tạp và không đối xứng.
3
• Theo đặc điểm biến dạng kim loại “
1. Dập vuốt không biến mỏng thành ( hay biến mỏng không đáng kể)
2. Dập vuốt có biến mỏng thành.
3. Dập vuốt không biến mỏng thành ( hay biến mỏng không đáng kể) dập vuốt
không biến mỏng thành khi khe hở giữa chày và cối lớn hơn hoặc bằng chiều dày
vật liệu. Dập vuốt có biến mỏng thành khi khe hở giữa chày vàcối nhỏ hơn chiều
dày vật liệu.
Trong dập vuốt không biến mỏng thành, theo phương pháp dập người ta chia
ra; dập có chống nhăn và dập không có chống nhăn. Theo hình dạng sản phẩm, người
ta chia ra: dập có vành và dập không có vành.
Tùy theo đặc điểm hình học riêng biệt của từng chi tiết mà có phương pháp tính
toán công nghệ riêng.
4. Dập vuốt có biến mỏng thành có hai phương pháp biến mỏng thành:
+ Làm thay đổi đường kính xong rồi mới biến mỏng thành;
+ Vừa thay đổi đường kính vừa tiến hành làm biến mỏng thành cùng một lúc.
Với phương pháp này thì kim loại biến dạng mãnh liệt hơn.
5.Ưu nhược điểm của dập vuốt :
Ưu:
- Có thể gia công được các chi tiết thành mỏng từ đơn giản đến phức tạp mà các
phương pháp khác không thể làm được như cán,kéo,rèn khuôn, đúc
-Chi tiết gia công có độ chính xác cao ,bề mặt láng bóng
-Quá trình dập vuốt gần như không sinh ra phoi như rèn hoặc đúc nếu tính toán
chính xác phôi ban đầu
- Chi tiết sau gia công bằng phương pháp dập vuốt có thể sử dụng ngay hoặc
chi cần qua một vài công đoạn nhỏ là sử dụng.
-Thiết bị không quá tốn kém,có thể tự động hoá cao nên năng suất cao,giá thành
sản phẩm hạ.
Nhược:
-Chi tiết hình thù phức tạp thì việc chế tạo khuôn khó và tốn kém nên chỉ khả thi
khi sản xuất với số lượng lớn
2 – Cơ sở lý thuyết và thiết kế
Do quá trình biến dạng dẻo, thể tích kim loại luôn luôn giữ không thay đổi cho
nên nguyên tắc cơ bản để xác định kích thước phôi khi dập vuốt là sự cân bằng thể
tích của phôi và chi tiết thành phẩm, cũng tức là cân bằng trọng lượng của chúng.
Khi dập vuốt không biến mỏng thành vật liệu, người ta thường bỏ qua sự thay
đổi chiều dày vật liệu và xác định phôi theo sự cân bằng diện tích bề mặt của phôi