Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Điều tra chống bán phá giá dưới góc độ luật so sánh
PREMIUM
Số trang
151
Kích thước
996.4 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1072

Điều tra chống bán phá giá dưới góc độ luật so sánh

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TÚ

ĐIỀU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ

DƯỚI GÓC ĐỘ LUẬT SO SÁNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật kinh tế

Mã số: 62.38.50.01

Người hướng dẫn khoa học:

1- PGS.TS Phạm Duy Nghĩa

2- PGS.TS Lê Thị Thu Thủy

HÀ NỘI - 2013

1

MỤC LỤC

STT Danh mục Trang

Phần mở đầu 2

1 Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu 2

2 Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 8

3 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 9

4 Những điểm mới của luận án 10

5 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 11

Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết và Tổng quan tình hình nghiên

cứu

12

1.2. Cơ sở lý thuyết 12

1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu 14

Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về bán phá giá, chống

bán phá giá và điều tra chống bán phá giá

27

2.1. Khái niệm, phân loại hành vi và tác động của bán phá giá 27

2.2. Chống bán phá giá và một số khái niệm trong điều tra chống

bán phá giá

35

Chƣơng 3: Thực trạng pháp luật về điều tra chống bán

phá giá

67

3.1. Cơ quan chống bán phá giá và điều kiện để điều tra chống bán

phá giá

67

3.2. Tổ chức hoạt động điều tra chống bán phá giá 81

3.3. Bảo mật thông tin trong điều tra chống bán phá giá và rà soát

quyết định chống bán phá giá

99

Chƣơng 4: Định hƣớng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Việt Nam về điều tra chống bán phá giá

113

4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá 114

4.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán

phá giá

129

Kết luận 149

2

Phần mở đầu

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu

Trong thương mại quốc tế, hành vi bán phá giá hàng hóa xuất khẩu của các

nhà sản xuất/xuất khẩu nước ngoài và hoạt động chống bán phá giá của chính phủ

nước nhập khẩu luôn xảy ra một cách phổ biến. Với nhiều mục đích khác nhau (kể

cả bán phá giá và chống bán phá giá), những hành vi này có thể sẽ gây tổn hại cho

tự do thương mại quốc tế, gây thiệt hại cho nhiều ngành sản xuất, thiệt hại đối với

người lao động cũng như đối với nền kinh tế của các quốc gia có liên quan.

Chính sách chống bán phá giá đã xuất hiện cách đây hơn 100 năm. Canada là

quốc gia đầu tiên ban hành luật chống bán phá giá vào năm 1904 (An Act to Amend

the Customs Tariff 1897, 4 Edw VIII, I Canada Statutes 111 (1904), New Zealand

1905, Australia ban hành năm 1906 (Industries Preservation Act 1906), Nam Phi và

Vương quốc Anh 1921…Hoa Kỳ ban hành luật chống bán phá giá đầu tiên vào năm

1916. Trong khi quy định chống bán phá giá đầu tiên của Hoa Kỳ còn nằm trên

giấy, chưa có vụ kiện nào được áp dụng thì đến năm 1919 Ủy ban thuế quan Hoa

Kỳ đã xem xét lại luật chống bán phá giá 1916 và kết luận luật này chưa thể áp

dụng vào thực tiễn để thực hiện các vụ kiện chống bán phá giá [78, tr.5]. Luật

chống bán phá giá 1921 của Hoa Kỳ đã ra đời từ bối cảnh đó, bản chất của đạo luật

này cũng tương tự như đạo luật chống bán phá giá của Canada có hiệu lực thời đó.

Mối quan tâm xây dựng luật phá giá lúc này của Hoa Kỳ là do cơ cấu ngành công

nghiệp của nước Đức, một số doanh nghiệp ở Đức có ưu thế về khoa học công

nghệ, lợi dụng ưu thế của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (cartel-Kartell) và được

bảo hộ thuế quan, đó là những nhân tố dẫn đến nguyên nhân bán phá giá nhiều hơn.

Sau khi một loạt quốc gia đơn phương ban hành luật chống bán phá giá, đã

xuất hiện một số sáng kiến đa phương phân tích và bàn về chính sách này. Năm

1922 Hội Quốc liên (League of Nations), một tổ chức mang tính tiền thân của Liên

hợp quốc, đã tổ chức một nghiên cứu về bán phá giá và sự khác biệt giá. Sau đó bản

ghi nhớ về chống bán phá giá do Jacob Viner soạn thảo cũng đã được ghi nhận. Tuy

nhiên, không có Hiệp định về chống bán phá giá nào được ký kết.

Sau khi Liên hợp quốc được thành lập, một thỏa thuận chung đã đạt được tại

GATT 1947. Trong các phiên đàm phán, Hoa Kỳ đã đưa ra những đề xuất quan

3

trọng, cáo buộc bán phá giá và trợ cấp hàng hóa là hành vi cạnh tranh thương mại

bất bình đẳng. Điều VI của GATT đã đặt ra các nguyên tắc cơ bản về chống bán

phá giá. Theo đó, thuế chống bán phá giá có thể được ấn định khi hành vi bán phá

giá là nguyên nhân gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đối với ngành sản

xuất trong nước. GATT không quy định cụ thể hình thức quản lý và cách tính toán,

mà giành cho các quốc gia tham gia ký kết quy định cơ chế cho riêng mình.

Do quy định thiếu chi tiết về phương pháp và cơ chế quản lý trong điều VI

dẫn đến hoạt động chống bán phá giá không thống nhất. Vì thế, đây là lĩnh vực

quan trọng đầu tiên được cải cách trong lịch sử GATT [78, tr.7]. Vòng đàm phán

Kennedy đã thông qua Hiệp định 1967 về thực thi điều VI (the Kennedy Round

Anti-Dumping Code). Một số điểm chính là các quy định về thuế có thể chỉ bị ấn

định sau khi điều tra sơ bộ cho thấy có hành vi bán phá giá và thiệt hại. Hiệp định

cũng khuyến nghị áp thuế thấp hơn biên độ phá giá khi mà mức thuế thấp hơn đó

loại bỏ được thiệt hại. Đồng thời xác định ngành công nghiệp là những nhà sản xuất

có sản lượng gộp lại chiếm một phần lớn trong tổng sản phẩm. Trong mối quan hệ

nhân quả, phá giá phải được xem như là các “nguyên nhân chủ yếu” gây ra thiệt hại.

Hiệp định này có hiệu lực vào năm 1967. Tuy nhiên Hoa Kỳ đã không phê chuẩn

Hiệp định 1967, vì vậy mức độ áp dụng của Hiệp định này vào thực tiễn là rất ít.

Vòng đàm phán Tokyo về thương mại đa phương được ký kết vào năm 1979

và có hiệu lực năm 1980, đã xác định rõ hơn về bán phá giá và thiệt hại so với điều

VI của GATT 1947, quy định chi tiết về trình tự và thủ tục trong quá trình điều tra.

Tuy nhiên, các quy định về chống bán phá giá ở Hiệp định vòng đàm phán Tokyo

cũng mới chỉ là quy định khung, còn có nhiều điểm chưa rõ ràng, còn gây tranh cãi

và thực tế là chỉ có 27 thành viên bị ràng buộc với Hiệp định này [123, truy cập lần

cuối 17/07/2012].

Vòng đàm phán Uruguay về thương mại đa phương kết thúc vào ngày

15/4/1994, đã thông qua Hiệp định ADA (Agreement on Implementation of Article

VI of the General Agreement on Tariffs and Trade 1994). Vì nhiều lý do, chống bán

phá giá là vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất trong giai đoạn cuối của vòng đàm phán

Uruguay. Tuyên bố các Bộ trưởng được thông qua ở Punta Del Este ngày 20/9/1986

khởi động vòng đàm phán Uruguay đã không có một tham chiếu rõ ràng về chống

4

bán phá giá [92]. Lúc đầu, cải cách chống bán phá giá đơn giản chỉ được xem xét

dưới thỏa thuận chung nhằm “cải tiến, làm rõ hoặc mở rộng, cũng như cho phù

hợp” với Hiệp định vòng đàm phán Tokyo [92,93]. Năm 1988, một số quốc gia chỉ

yêu cầu một nghiên cứu thống kê từ Ban thư ký của GATT về vấn đề áp dụng các

biện pháp chống bán phá giá.

Tuy nhiên, sau đó Ủy ban thực hành về chống bán phá giá đã xem xét một

loạt các văn bản pháp lý đã sửa đổi của Hoa Kỳ và EU, cơ quan giải quyết tranh

chấp cũng bắt đầu xem xét đến các vấn đề chống bán phá giá ở mức độ nhiều hơn.

Có lẽ khiếu nại quan trọng nhất là từ một đề xuất của Nhật Bản, quốc gia này đã đi

đầu trong việc yêu cầu cơ quan giải quyết tranh chấp buộc bồi thường thiệt hại. Vấn

đề thực tế là, các quốc gia đã đã bắt đầu xem cơ chế giải quyết tranh chấp của

GATT như là một giải pháp mang tính khả thi thay thế cho việc bỏ ra các khoản

“chi phí” lớn để bảo vệ quyền lợi của mình tại nước ngoài. Tiếp theo đó, Tổng giám

đốc GATT đã trình bày văn bản đề xuất của mình như là một phần của bản thảo

cuối cùng của Hiệp định và sau đó được gọi là bản thảo Dunkel [61]. Trong khi các

nhà đàm phán không muốn trở lại các tranh cãi về những vấn đề rộng lớn hơn của

bản thảo Dunkel vì lo ngại gây ra bất ổn cho đàm phán. Các tranh cãi về cải cách

chống bán phá giá cũng đã đề cập các câu hỏi liên quan đến chủ quyền, sự tôn trọng

và nguyên tắc Lotus trong luật quốc tế.

Hiệp định ADA ra đời không phải là Hiệp định riêng lẻ, nó khác với quy

định về chống bán phá giá của Hiệp định vòng đàm phán Tokyo. Vì thế, tất cả các

thành viên của WTO bị ràng buộc bởi Hiệp định này kể từ thời điểm Hiệp định

WTO có hiệu lực với họ. Hiệp định này quy định các yêu cầu cụ thể về thủ tục khi

họ trở thành chủ thể tranh chấp của WTO.

Như vậy, lịch sử pháp luật chống bán phá giá đã xuất hiện và tồn tại trên thế

giới hơn 100 năm nay. Các quy định pháp luật về chống bán phá giá đã được đàm

phán, cải cách và thông qua một Hiệp định chung điều chỉnh về hoạt động chống

bán phá giá trong thương mại quốc tế. Theo đó, Hiệp định ADA đã quy định đến

các vấn đề liên quan đến hình thức tổ chức quản lý, thời hạn điều tra, cách tính giá

trị thông thường, xem xét theo thủ tục tư pháp.v.v…

5

Hiệp định ADA ra đời đã chấm dứt những quy định tùy ý của các quốc gia

thành viên, hạn chế phần nào tình trạng lạm dụng chính sách chống bán phá giá để

bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Cũng tính từ khi Hiệp định ADA ra đời, chính

sách chống bán phá giá đã được rất nhiều quốc gia thành viên áp dung nhằm bảo vệ

ngành sản xuất trong nước.

Tuy nhiên, Hiệp định ADA được thông qua không có nghĩa là các quy định

về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế đã được hoàn thiện. Hiện nay đang

có rất nhiều quan điểm nêu lên những bất cập của Hiệp định ADA, những vấn đề

liên quan đến việc sửa đổi Hiệp định ADA đang được tranh luận tại vòng đàm phán

Doha mà vẫn chưa đi đến hồi kết.

Đối với Việt Nam, việc tham gia WTO, thực hiện các điều ước quốc tế nói

chung và Hiệp định ADA nói riêng có một vai trò rất quan trọng, là cơ sở pháp lý

trong việc tăng cường và mở rộng các quan hệ thương mại quốc tế. Bên cạnh đó,

việc thực hiện các điều ước quốc tế đã góp phần tích cực trong việc xây dựng và

hoàn thiện hệ thông pháp luật nói chung và pháp luật về chống bán phá giá nói

riêng.Văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh hành vi bán phá giá hàng hóa nhập

khẩu là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng

nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt nam (Điều 1), Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg

của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/4/2001 về việc quy định xây dựng nguyên tắc áp

dụng thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, các quy định trong hai văn bản pháp lý

này chưa có những quy định cụ thể về thẩm quyền, thủ tục điều tra và áp dụng thuế

chống bán phá giá cũng như cách thức xác định hành vi bán phá giá... Năm 2004

Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá số

20/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/04/2004. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên điều

chỉnh trực tiếp, toàn diện vấn đề chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt

Nam. Tiếp theo là các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ: Nghị định số

90/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp

lệnh Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; Nghị định số

04/2004/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống

6

trợ cấp và tự vệ; Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006, quy định về chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cục quản lý cạnh tranh. Các văn

bản khác như Quyết định số 32/QĐ-QLCT ngày 15/5/2008 của Cục quản lý cạnh

tranh, ban hành mẫu hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá; Luật thuế

xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14/06/2005; Thông tư của Bộ Tài

chính số 106/2005/TT-BTC ngày 05 tháng 12 năm 2005, hướng dẫn thu, nộp, hoàn

trả thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán

thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp.

Về hoạt động chống bán phá giá trên thế giới, mục đích ra đời của pháp luật

chống bán phá giá là để bảo vệ ngành sản xuất trong nước ở quốc gia nhập khẩu,

bảo vệ thị trường nước nhập khẩu được vận hành một cách lành mạnh. Tuy nhiên,

thực tiễn cũng cho thấy là nhiều quốc gia đã bị khiếu nại, vì sử dụng công cụ chống

bán phá giá không chỉ để bảo vệ ngành sản xuất trong nước mà còn lạm dụng công

cụ này để “bảo hộ” quá mức cho ngành sản xuất trong nước hoạt động kém hiệu

quả.

Giai đoạn trước năm 1995, biện pháp chống bán phá giá chủ yếu được áp

dụng ở các quốc gia phát triển (Hoa Kỳ, EU, Canada…). Tuy nhiên, kể từ khi Tổ

chức thương mại thế giới WTO được thành lập cho đến nay, công cụ bán phá giá

không chỉ giới hạn ở các quốc gia phát triển, mà ngày càng được sử dụng rộng rãi

bởi nhiều quốc gia. Điểm mới của vấn đề là các nước đang phát triển đang dẫn đầu

các quốc gia áp dụng biện pháp chống bán phá giá nhiều nhất trên thế giới. Từ năm

1995-2011 Ấn Độ khởi xướng 656 vụ kiện, hơn cả những quốc gia có kinh nghiệm

và thói quen sử dụng công cụ này như Hoa Kỳ 458 vụ và EU 437 vụ [127, truy cập

lần cuối ngày 20/07/2012].

Liên quan đến Việt Nam, tính đến tháng 07/2012, các ngành sản xuất của

Việt Nam đã phải đối mặt với 44 vụ kiện chống bán phá giá ở nước ngoài [126, truy

cập lần cuối ngày 20/07/2012], số lượng các vụ kiện ngày càng tăng, quy mô các vụ

kiện ngày càng lớn. Điều đó cho thấy mức độ nghiêm trọng mà các vụ kiện này đã

gây ra cho doanh nghiệp Việt Nam và ngành sản xuất trong nước … Có nhiều lý do

khác nhau, trong số các vụ việc mà phía Việt Nam bị kiện thì đáng kể hơn (về số

lượng và thiệt hại) là các vụ kiện được khởi phát từ phía Hoa kỳ và EU. Điều đáng

7

quan tâm hơn là, chính sách và pháp luật về chống bán phá giá hàng nhập khẩu của

một số quốc gia thường xuyên sử dụng biện pháp chống bán phá giá như Hoa Kỳ,

EU, Canada… lại có khá nhiều nội dung, thủ tục khác biệt và phức tạp hơn so với

quy định chung của WTO.

Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam còn đang tập trung tiệm cận thị trường

nước ngoài, lo đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá ở các quốc gia nhập khẩu,

thì thị trường nội địa đã bị các doanh nghiệp nước ngoài áp đảo, mà rõ nhất là hàng

hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và một số nước lân cận như Hàn Quốc, Thái Lan, Đài

Loan…. Theo số liệu của WTO, Trung Quốc đang là nước bị điều tra chống bán

phá giá nhiều nhất trên thế giới, tính từ ngày 31/12/1995 cho đến ngày 31/12/2011

Trung Quốc đã phải đương đầu với 853 vụ kiện điều tra chống bán phá giá, đứng

đầu các quốc gia bị kiện trên toàn cầu. Điều này cho thấy số lượng các vụ kiện mà

hàng hóa xuất khẩu từ Trung Quốc phải đương đầu là khổng lồ. Ngoài Trung Quốc,

hàng hóa của nhiều quốc gia khác đang có mặt tại Việt Nam và chiếm một thị phần

đáng kể đều nằm trong danh sách các quốc gia bị kiện chống bán phá giá cao trên

thế giới, cụ thể: Hàn Quốc 284 vụ (đứng thứ hai sau Trung Quốc); Đài Loan 211 vụ

(đứng vị trí thứ tư), Thái Lan 164 vụ (đứng vị trí thứ bảy)…[127, truy cập lần cuối

ngày 20/07/2012].

Như vậy, xu hướng trên thế giới, cũng như thực tiễn vận hành của nền kinh

tế Việt Nam hiện nay cho thấy nhu cầu hoàn thiện và áp áp dụng công cụ chống bán

phá giá để bảo vệ ngành sản xuất trong nước, cũng như bảo vệ cho nền kinh tế được

vận hành một cách lành mạnh là cấp thiết. Tuy nhiên, bên cạnh hệ thống pháp luật

về chống bán phá giá và pháp luật về về các lĩnh vực liên quan đến điều tra chống

bán phá giá còn chưa hoàn thiện, thiếu tương thích; vị thế của nền kinh tế Việt Nam

trên thị trường quốc tế sẽ là những nguyên nhân gây ra khó khăn cho Việt Nam khi

áp dụng chính sách này vào thực tiễn, bởi các lý do sau:

Thứ nhất, với hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh chống bán phá giá

được cho là khá nhiều, nhưng khi so sánh, đối chiếu với Hiệp định ADA và pháp

luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, EU thì pháp luật chống bán phá giá của Việt

Nam còn nhiều vấn đề cần phải hoàn thiện, nhiều quy định chưa đủ chi tiết, không

rõ ràng, còn chung chung; sự chưa hoàn toàn tương tích giữa pháp luật về chống

8

bán phá giávới pháp luật về thuế Xuất khẩu, Nhập khẩu; Pháp luật về Hải quan,

Pháp luật về Tố tụng hành chính.v.v…

Thứ hai, Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế khá nhỏ bé, các ngành sản

xuất trong nước còn lạc hậu, manh mún, rời rạc và mức độ cạnh tranh thua kém rất

nhiều so với các sản phẩm tương tự của các nhà sản xuất trên thế giới. Do vậy, khi

áp dụng biện pháp chống bán phá giá với sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài, có thể

sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng, hoặc là sự “bảo hộ” thái quá cho ngành sản

xuất trong nước kém cỏi và lạc hậu đó sẽ dẫn đến thiệt hại cho nền kinh tế, dẫn đến

sự “trả đũa” thương mại từ các quốc gia bị đánh thuế chống bán phá giá. Thực tiễn

cho thấy, những quốc gia bị kiện chống bán phá giá nhiều nhất lại là các nền kinh tế

lớn.

Mặc dù có những khó khăn nhất định, có thể trong tương lai gần Việt Nam

chưa thể áp dụng thành công biện pháp phòng vệ này. Nhưng, việc nghiên cứu và

hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá là cần thiết phải làm, nhằm phục

vụ cho nhiệm vụ bảo vệ ngành sản xuất trong nước, bảo đảm cho nền kinh tế hoạt

động lành mạnh và phát triển trong tương lai.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án được nghiên cứu để đạt được các mục đích sau đây:

Thứ nhất, việc nghiên cứu sẽ tìm ra những bất cập của pháp luật về điều tra

chống bán phá giá của Việt Nam. Từ đó, đặt ra phương hướng hoàn thiện, nêu lên

những nội dung pháp luật cần phải được sửa dổi, bổ sung và hoàn thiện để nhằm

đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ ngành sản xuất trong nước, bảo vệ quyền lợi của người

tiêu dùng và bảo đảm cho nền kinh tế được hoạt động lành mạnh. Bên cạnh đó, viêc

hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá cần phải tuân thủ các nguyên tắc

và quy định của WTO và Hiệp định ADA.

Thứ hai, mục đích của việc nghiên cứu là tìm hiểu các quy định pháp luật

liên quan đến tổ chức và hoạt động điều tra chống bán phá giá của Hiệp định ADA,

của Việt Nam, Hoa Kỳ và EU. Từ đó, các Doanh nghiệp, ngành sản xuất trong nước

của Việt Nam có thể dùng tài liệu để tham khảo khi phải đối mặt với các vụ kiện

9

chống bán phá giá ở nước ngoài, cũng như chủ động nộp đơn yêu cầu điều tra

chống bán phá giá ở Việt Nam khi nhận thấy hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài có

hành vi bán phá giá ở thị trường Việt Nam.

Thứ ba, mục đích của việc nghiên cứu nhằm chỉ ra sự cần thiết của Chính

phủ, mà cụ thể là Bộ Công thương cần phải chủ động hơn nữa trong việc hỗ trợ

ngành sản xuất trong nước khi có dấu hiệu về hành vi bán phá giá ở thị trường Việt

Nam. Đặc biệt là, trong trường hợp cần thiết có thể chủ động tự khởi xướng điều

tra, không nhất thiết cứ phải chờ vào đơn yêu cầu của ngành sản xuất trong nước.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, Nghiên cứu có hệ thống cơ sở lý luận của chính sách pháp luật

chống bán phá giá của WTO, Hoa Kỳ, EU và pháp luật của Việt Nam về chống bán

phá giá;

Thứ hai, Nghiên cứu và làm sáng tỏ nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các

quy định về điều tra chống bán phá giá của pháp luật Việt Nam;

Thứ ba, Nghiên cứu so sánh các mô hình pháp luật về tổ chức và hoạt động

điều tra chống bán phá giá của Việt Nam với Hiệp định ADA, Hoa Kỳ và EU;

Thứ tư, Phân tích, đối chiếu và làm sáng tỏ thực trạng điều chỉnh pháp luật

về tổ chức và hoạt động điều tra chống bán phá giá nói ở Việt Nam.

3. Phạm vi và Đối tƣợng nghiên cứu

3.1. Phạm vi nghiên cứu.

Luận án giới hạn ở nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan

đến chống bán phá giá và quy định pháp luật về tổ chức, hoạt động điều tra chống

bán phá giá đối với “hàng hóa nhập khẩu”. Nội dung phân tích quy định pháp luật

về một số khái niệm liên quan đến điều tra chống bán phá giá, cơ cấu tổ chức của cơ

quan chống bán phá giá, trình tự, thủ tục điều tra chống bán phá giá của Hiệp định

ADA, của pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá, cũng như quy định tương ứng

của pháp luật Hoa Kỳ và EU.

3.2. Đối tượng nghiên cứu.

10

Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ sở lý luận, cũng như thực tiễn về

hoạt động điều tra chống bán phá giá, cơ cấu tổ chức và hoạt động điều tra chống

bán phá theo Hiệp định ADA, pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam, của Hoa

Kỳ và EU. Bên cạnh đó, một vài vụ kiện về chống bán phá giá cũng sẽ được phân

tích và đánh giá ở trong quá trình nghiên cứu.

4. Những điểm mới của luận án

Đề tài sẽ góp phần:

Thứ nhất, luận án đã phân tích một số khái niệm trong điều tra chống bán

phá giá như: sản phẩm tương tự, khái niệm về chứng cứ, khái niệm về lẩn tránh thuế

chống bán phá giá…Đây là những khái niệm đã được đề cập trong Hiệp định ADA

và pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam cũng đã có đề cập hoặc chưa đề

cập. Từ những khái niệm này, luận án đã phân tích sâu hơn, cụ thể hơn để nhằm

hoàn thiện những khái niệm này trong pháp luật về chống bán phá giá ở Việt Nam.

Thứ hai, luận án phân tích thực trạng pháp luật về điều tra chống bán phá giá

của Việt Nam, trên cơ sở so sánh và đối chiếu với pháp luật Hoa Kỳ, EU về chống

bán phá giá, cũng như kinh nghiệm nội luật hóa pháp luật về chống bán phá giá của

các quốc gia này từ Hiệp định ADA. Từ đó, căn cứ vào tình hình thực tiễn Kinh tế￾xã hội của Việt Nam, luận án đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều

tra chống bán phá giá trên cơ sở Hiệp định ADA và học hỏi kinh nghiệm từ các

quốc gia khác đã so sánh.

Thứ ba, từ việc phân tích một số khái niệm trong điều tra chống bán phá giá,

phân tích thực trạng quy định pháp luật về điều tra chống bán phá giá của Việt

Nam, Hoa Kỳ, EU và đặc biệt là trên cơ sở quy định khung của Hiệp định ADA.

Luận án đưa ra những kiến nghị nhằm cụ thể hóa các khái niệm, hoàn thiện các quy

định về điều tra chống bán phá giá cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của

Việt Nam, cũng như đáp ứng được nhu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của ngành

sản xuất trong nước;

Thứ tư, cũng từ việc nghiên cứu, so sánh và đối chiếu quy định pháp luật của

Hiệp định ADA, pháp luật về điều tra chống bán phá giá của Hoa Kỳ, EU, Luận án

sẽ cung cấp những thông tin quan trọng, có giá trị tham khảo cao cho các doanh

11

nghiệp, ngành sản xuất trong nước, nhà xuất khẩu Việt Nam khi phải đối phó với

các vụ kiện chống bán phá giá ở Hoa Kỳ, EU.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về điều tra

chống bán phá giá dưới gó độ luật so sánh. Những kết luận và đề xuất, kiến nghị mà

luận án nêu ra đều có cơ sở khoa học và giá trị thực tiễn cao. Vì vậy, có ý nghĩa đối

với việc xây dựng và thực hiện pháp luật về chống bán phá giá nói chung và điều tra

chống bán phá giá nói riêng, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của ngành sản xuất

trong nước, bảo đảm sự vận hành lành mạnh của nền kinh tế, quyền lợi của người tiêu

dùng và lợi ích chung của xã hội.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận

án gồm 4 chương.

Chương1: Cơ sở lý thuyết và Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2: Những vấn đề lý luận về bán phá giá, chống bán phá giá và điều tra

chống bán phá giá

Chương 3: Thực trạng pháp luật về điều tra chống bán phá giá

Chương 4: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về điều tra

chống bán phá giá

12

CHƢƠNG I:

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở lý thuyết

1.1.1. Các câu hỏi nghiên cứu

Chủ đề chính của luận án này liên quan đến các quy định pháp luật về hoạt

động điều tra chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu. Để xác định các câu hỏi

nghiên cứu, phải tham khảo các tài liệu liên quan, phân tích các quy định của Hiệp

định ADA, và của một số quốc gia có quá trình lịch sử lâu dài đối với hệ thống

pháp luật chống bán phá giá, có kinh nghiệm áp dụng thuế chống bán phá giá

thường xuyên và được coi là rất hoàn thiện. Mục đích giải quyết các câu hỏi nghiên

cứu mà tác giả đưa ra không chỉ nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật của Việt Nam

về chống bán phá giá, mà còn dùng tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp trong

việc tự bảo vệ mình khi phải đối phó với các vụ kiện ở những quốc gia này.

Cụ thể có ít nhất 8 vấn đề nghiên cứu sau đây sẽ lần lượt được giải quyết

trong luận án này:

(1). Khái niệm sản phẩm tương tự;

(2). Chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá;

(3). Thủ tục nộp và rút đơn kiện chống bán phá giá;

(4). Tư cách đại diện trong đơn kiện chống bán phá giá;

(5). Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong điều tra chống bán phá giá;

(6). Các biện pháp cam kết trong điều tra chống bán phá giá;

(7). Bảo mật thông tin trong quá trình điều tra chống bán phá giá;

(8). Rà soát tư pháp đối với kết quả điều tra chống bán phá giá.

Ngoài ra, còn có một số vấn đề khác cũng sẽ được đề cập và phân tích trong

phần nội dung của luận án.

1.1.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu sau đây sẽ được sử dụng trong quá trình nghiên

cứu:

1.1.2.1. Phương pháp nghiên cứu so sánh pháp luật

Đây là phương pháp sẽ được thực hiện xuyên suốt trong luận án. Với phương

13

pháp này, tác giả sẽ so sánh và đối chiếu được các quy định của Hiệp định ADA,

quy định của pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá, quy định của pháp luật Hoa

Kỳ và pháp luật EU về chống bán phá giá. Từ đó, chỉ ra được những bất cập mà

pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam cần phải bổ sung, hoàn thiện, trên

nguyên tắc phải phù hợp với Hiệp định ADA, các quy định của WTO, phù hợp với

điều kiện, hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam, với mục đích đáp ứng được nhiệm

vụ bảo vệ ngành sản xuất trong nước, cũng như bảo vệ quyền lợi của người tiêu

dùng và bảo đảm sự hoạt động lành mạnh của nền kinh tế.

1.1.2.2. Phương pháp chuyên gia:

Với phương pháp này, Tác giả tham khảo ý kiến của các chuyên gia pháp lý,

các nhà nghiên cứu luật học. Đây là một phương pháp rất quan trọng, với sự góp ý

của các nhà nghiên cứu, của các chuyên gia cũng như những nhà tham gia trực tiếp

trong các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giúp tác giả có cái nhìn hoàn thiện hơn,

những vấn đề mà giữa lý luận và thực tiễn còn chưa giải quyết được

1.1.2.3. Phương pháp thống kê toán học:

Phương pháp thống kê được sử dụng trong luận án, sử dụng phương pháp

này để cho thấy tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung của luận

án, tình hình hoạt động chống bán phá giá trên thế giới và xu hướng của nó trong

những năm gần đây. Từ đó, có thể đưa ra được nhận định có tính khái quát và xu

hướng của hoạt động chống bán phá giá về sau.

Ngoài ra, các phương pháp lịch sử, phân tích, logíc, tổng hợp, chứng

minh…cũng được sử dụng hợp lý xuyên suốt quá trình nghiên cứu.

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu, luận án chỉ đề cập đến các công

trình khoa học trong nước và quốc tế đã nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan

đến các nội dung mà luận án cần phải làm rõ. Cụ thể, các vấn đề sau đây: Khái niệm

sản phẩm tương tự; Chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá; Thủ tục nộp và rút

đơn kiện chống bán phá giá; Tư cách đại diện trong đơn kiện chống bán phá giá;

Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong điều tra chống bán phá giá; Các

biện pháp cam kết trong điều tra chống bán phá giá; Bảo mật thông tin trong quá

14

trình điều tra chống bán phá giá; Rà soát tư pháp đối với kết quả điều tra chống

bán phá giá.

1.2.1. Khái niệm về sản phẩm tương tự

Trong hoạt động chống bán phá giá, việc xác định “sản phẩm tương tự” một

cách chính xác có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc áp thuế chống bán phá giá

hàng hóa nhập khẩu. Việc xác định chính xác sản phẩm tương tự có ý nghĩa quan

trong đối với việc khởi xướng điều tra chống bán, cũng như ra quyết định áp thuế

chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu. Hiện thời, khái niệm “sản phẩm

tương tự được hiểu là sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm có tất cả các đặc tính

giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm

nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không giống ở mọi đặc tính nhưng có

nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm được xem xét”[2, điều 2.6].

Với khái niệm tưởng chừng đơn giản như vậy, nhưng khi áp dụng vào thực

tiễn thì vô cùng khó khăn, gây ra nhiều tranh cãi giữa các học giả, giữa các chuyên

gia và các quốc gia. Vì thế, có rất nhiều công trình trong và ngoài nước đã nghiên

cứu về khái niệm này, cụ thể là:

- Konrad von Moltke, Reassessing„Like Products‟ Trade, Paper presented at

the Chatham House Conference, Trade, Investment and the Environment, 29 & 30

October 1998.

Trước hết tác giả này phân tích về “sản phẩm tương tự” trong giải quyết

tranh chấp của WTO, mọi vấn đề xoay quanh việc giải thích từ “like” trong “like

product”. Khái niệm sản phẩm tương tự là yếu tố cốt lõi được đề cập đến nhiều

phương diện trong hệ thống GATT/WTO. Hai nguyên tắc trung tâm của nó là Quy

chế Tối huệ quốc (MFN) và quy chế đối xử quốc gia đều phụ thuộc rất nhiều vào

khái niệm này. Theo GATT “bất cứ lợi thế, đặc ân, đặc quyền hoặc miễn trừ bởi

bất cứ bên ký kết nào đối với bất cứ sản phẩm nào có xuất xứ hoặc đến từ bất kỳ

quốc gia nào khác thì sẽ được giành ngay lập tức và vô điều kiện cho sản phẩm

tương tự xuất xứ hoặc đến từ lãnh thổ của tất cả các thành viên khác”[1, điều I.1].

“Sản phẩm của bất cứ quốc gia thành viên nào nhập khẩu vào lãnh thổ của quốc

gia thành viên khác sẽ không phải là đối tượng trực tiếp hoặc gián tiếp phải chịu

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!