Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Điều kiện mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN
ĐIỀU KIỆN MANG THAI HỘ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
NGUY
ỄN THỊ M
Ỹ DUYÊN LU
ẬT DÂN S
Ụ VÀ T
Ố
T
ỤNG DÂN S
Ự KHÓA 30
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐIỀU KIỆN MANG THAI HỘ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Lê Vĩnh Châu
Học viên: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
Lớp: Cao học Luật Dân sự và tố tụng dân sự – Khóa 30
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Điều kiện mang thai hộ theo pháp
luật Việt Nam” là kết quả nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của Ts. Lê Vĩnh Châu. Mọi thông tin tham khảo được sử dụng trong
luận văn được trích dẫn rõ ràng, tuân thủ quy định về trích dẫn, chú thích tài
liệu tham khảo. Nếu có sự gian dối, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn
NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Chữ được viết thường Chữ được viết tắt
1. Luật Hôn nhân và gia đình Luật HNGĐ
2. Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28
tháng 01 năm 2015 của Chính phủ Quy
định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm và điều kiện mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP
3. Nghị định số 98/2016/NĐ-CP ngày 01
tháng 7 năm 2016 của Chính phủ Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số
10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm
2015 của Chính phủ quy định về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và
điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo
Nghị định số 98/2016/NĐ-CP
4. Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày
12/02/2003 của Chính phủ về sinh con theo
phương pháp khoa học
Nghị định số 12/2003/NĐ-CP
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN MANG THAI HỘ .........9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về điều kiện mang thai hộ .............................9
1.1.1. Khái niệm điều kiện mang thai hộ .................................................................9
1.1.2. Đặc điểm của điều kiện mang thai hộ..........................................................12
1.1.3. Ý nghĩa của quy định về điều kiện mang thai hộ .........................................14
1.2. Cơ sở của quy định điều kiện mang thai hộ.................................................16
1.2.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn ................................................................................16
1.2.2. Cơ sở pháp lý ...............................................................................................18
1.3. Lịch sử pháp luật Việt Nam về mang thai hộ qua các thời kỳ ...................20
1.3.1. Thời kỳ phong kiến đến năm 1959 ...............................................................20
1.3.2. Trong giai đoạn từ năm 1959 đến năm 2014...............................................21
1.4. Quy định của một số quốc gia trên thế giới về mang thai hộ .....................26
1.4.1. Pháp luật các quốc gia công nhận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.....26
1.4.2. Pháp luật các quốc gia công nhận mang thai hộ vì mục đích thương mại .33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...............................................................................................41
CHƯƠNG 2: ĐIỀU KIỆN MANG THAI HỘ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN HÀNH, BẤT CẬP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ....42
2.1. Các điều kiện chung đối với thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo ..........................................................................................................................43
2.2. Điều kiện đối với người nhờ mang thai hộ...................................................48
2.3. Điều kiện đối với người mang thai hộ...........................................................59
2.4. Điều kiện đối với cơ sở y tế thực hiện mang thai hộ ...................................73
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...............................................................................................75
KẾT LUẬN.......................................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vô sinh đang là vấn đề nguy hiểm đứng thứ ba, chỉ đứng sau ung thư, tim mạch
và ngày càng trở nên phổ biến ở các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam. Theo nghiên
cứu do Trường Đại học Y Hà Nội phối hợp với Bệnh viện Phụ sản Trung ương thực
hiện ở 08 tỉnh thành, với trên 14.300 cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản cho thấy tỷ
lệ vô sinh tại Việt Nam đang có xu hướng tăng cao, lên đến 7,7%, trong đó có 50%
là các cặp vợ chồng dưới 30 tuổi
1
. Có thể thấy, tình trạng vô sinh đang dần trẻ hóa đã
gây ra những tác động tiêu cực đến gia đình và xã hội.
Dưới góc độ gia đình, việc không thể sinh con dẫn đến hôn nhân dễ tan vỡ, bởi
lẽ sinh con không chỉ có ý nghĩa duy trì nòi giống, gắn kết và giữ gìn hạnh phúc gia
đình, mà con cái còn là động lực để cha mẹ làm việc tốt hơn, sống có trách nhiệm
hơn với gia đình. Ở khía cạnh xã hội, gia đình là tế bào của xã hội, gia đình ấm no,
hạnh phúc, tiến bộ góp phần vào sự phát triển của xã hội. Không những thế, trẻ em
còn là nguồn nhân lực trong tương lai, quyết định đến sự phồn vinh của xã hội. Trong
bối cảnh đó, với sự phát triển vượt bậc của khoa học, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã và
đang góp phần hiện thực hóa giấc mơ có con của các cặp vợ chồng vô sinh, từ năm
2014 đến năm 2018 ước tính có khoảng 50.000 ca áp dụng phương pháp thụ tinh
trong ống nghiệm thành công2
. Trong các giải pháp điều trị vô sinh, mang thai hộ
được xem là giải pháp tối ưu cho những trường hợp mà người phụ nữ vì bệnh lý
không thể tự mang thai, nhưng cũng là phương pháp có độ phức tạp và nhạy cảm cao,
gây nhiều tranh cãi nhất bởi việc áp dụng biện pháp này cần có sự tham gia người thứ
ba. Mặc dù còn nhiều ý kiến trái chiều, nhưng không thể phủ nhận những giá trị tích
cực từ phương pháp mang thai hộ, cụ thể cho phép mang thai hộ đối với một số chủ
thể được chỉ định sẽ đảm bảo quyền làm mẹ chính đáng của người phụ nữ - một trong
những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được ghi nhận tại khoản 4
Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tạo ra khung pháp lý an toàn cho các
giao dịch mang thai hộ và hạn chế các đường dây thương mại hóa, bóc lột sức khỏe
sinh sản của người phụ nữ.
1 Mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/mang-thai-hotheo-quy-dinh-cua-phap-luat-viet-nam, truy cập ngày 01/03/2021.
2 Bộ Y tế, “Đánh giá quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về bảo đảm quyền dân sự, hôn nhân
gia đình của cá nhân dưới góc độ y tế”, Tham luận của Bộ Y tế tại Hội nghị sơ kết 03 năm thi hành Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 30/07/2019 tại Hà Nội, tr. 2.
2
Như vậy, việc Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 lần đầu tiên ghi nhận mang
thai hộ không những là một bước tiến dài mang tính đột phá trong công tác xây dựng
pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật hướng đến đảm bảo quyền con người
3
, mà
còn phù hợp với bối cảnh, nhu cầu thực tế xã hội và tạo điều kiện cho công tác quản
lý xã hội của Nhà nước
4
.
Vì đây là nội dung mới, lần đầu được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi
nhận nên các quy định về vấn đề này còn tồn tại những hạn chế, nhất là về điều kiện
mang thai hộ như:
Một là, người nhờ và người được nhờ mang thai hộ vẫn còn giới hạn ở một số
đối tượng;
Hai là, điều kiện về tình trạng con chung của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ
cần được hướng dẫn chi tiết hơn;
Ba là, thỏa thuận mang thai hộ cũng nên được mở rộng, ghi nhận thêm một số
nội dung nhằm chi tiết hóa một số vấn đề liên quan đến mang thai hộ;…
Bên cạnh đó, tuy đã có một số công trình nghiên cứu về chế định này, nhưng
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu riêng về các điều kiện mang thai hộ.
Do đó, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Điều kiện mang thai hộ theo pháp luật
Việt Nam” để thực hiện Luận văn thạc sĩ Luật học, với mong muốn góp phần hoàn
thiện quy định của pháp luật về điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm hiện tại, những quy định liên quan đến mang thai hộ đã thu
hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều tác giả ở những phạm vi và mức độ khác nhau,
có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau đây:
2.1. Giáo trình, sách chuyên khảo
Nhắc đến tài liệu viết về mang thai hộ thì thật thiếu sót nếu như không đề cập
đến “Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Tái bản có sửa đổi, bổ sung)”
của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), NXB. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam. Trong đó, nội dung về mang thai hộ được nhóm tác giả đề cập từ
3 Mỗi năm nước ta ước tính có khoảng 500 đến 700 trường hợp có nhu cầu mang thai hộ, xem tại: Hà An, “Mỗi
năm 500 – 700 người có nhu cầu mang thai hộ”, https://vnexpress.net/moi-nam-500-700-nguoi-co-nhu-caunho-mang-thai-ho-3008302.html, truy cập ngày 01/03/2021.
4 Theo như số liệu dự kiến, mỗi năm nước ta có khoảng 500 – 700 người có nhu cầu mang thai hộ, việc cho
phép mang thai hộ trong khuôn khổ pháp luật sẽ giúp cho công tác quản lý xã hội thuận tiện hơn tránh cho họ
tìm đến các “đường dây” bất hợp pháp. Xem thêm tại: Hà An, “Mỗi năm 500 – 700 người có nhu cầu nhờ
mang thai hộ”, https://vnexpress.net/moi-nam-500-700-nguoi-co-nhu-cau-nho-mang-thai-ho-3008302.html,
truy cập ngày 01/03/2021.
3
trang 275 đến trang 284, chủ yếu xoay quanh các vấn đề như khái niệm mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo; nêu và phân tích các điều kiện mang thai hộ; các vấn đề liên
quan đến quyền, nghĩa vụ của các bên; và cách xác định quan hệ cha mẹ con trong
quan hệ mang thai hộ. Mặc dù giáo trình đã đề cập đầy đủ các quy định của pháp luật
về mang thai hộ, là cơ sở lý luận cho tác giả tham khảo khi thực hiện đề tài, nhưng
đây là tài liệu được biên soạn nhằm mục đích phục vụ công tác giảng dạy, học tập
của thầy cô và sinh viên tại các cơ sở đào tạo luật nên nhóm tác giả chỉ nêu, phân tích
các quy định của pháp luật mà chưa đánh giá thực trạng và chỉ ra những bất cập, hạn
chế khi áp dụng các quy định của pháp luật về mang thai hộ.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), “Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam”, NXB. Tư Pháp. Từ trang 290 đến trang 303 nhóm tác giả đã khái quát
một cách toàn diện các nội dung về chế định này như khái niệm, ý nghĩa mang thai
hộ; nêu và phân tích các điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; quyền và nghĩa
vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ; trách nhiệm pháp lý phát sinh từ việc
mang thai hộ như xác định cha mẹ con, quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đình với đứa trẻ sinh ra từ mang thai hộ. Mặc dù các nội dung được đề cập khá
đầy đủ, nhưng giáo trình chưa chỉ ra những hạn chế, bất cập khi áp dụng các quy định
này trên thực tế và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
2.2. Luận văn, luận án
Le Xuan Trung (2016), “Ethical and legal aspects of surrogacy –
recommendations for the regulation of surrogacy In Vietnam (Những khía cạnh đạo
đức và pháp lý của vấn đề mang thai hộ. Các khuyến nghị cho việc điều chỉnh pháp
luật về mang thai hộ tại Việt Nam)”, Luận án tiến sĩ tại Đại học Southampton. Tác
giả đã khái quát quá trình hình thành và thay đổi của pháp luật Việt Nam về mang
thai hộ, cùng với đó là lý giải nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi này dưới góc độ văn
hóa, xã hội. Bên cạnh đó, luận án còn đề cập đến quy định của pháp luật Việt Nam
về mang thai hộ trên cơ sở so sánh với pháp luật nước Anh, từ đó chỉ ra những hạn
chế trong quy định của pháp luật và kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên nội dung của
luận án tập trung vào phân tích các nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của pháp luật
Việt Nam về mang thai hộ, mà chưa phân tích, làm rõ toàn bộ quy định của pháp luật
về điều kiện mang thai hộ nên việc tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ các điều kiện
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trên cơ sở tham khảo các vấn đề tác giả tiếp cận
trong đề tài này là điều cần thiết.
4
2.3. Bài viết tạp chí, tài liệu hội thảo, đề tài nghiên cứu khoa học
Ở phạm vi nghiên cứu khoa học, hội thảo cũng có rất nhiều công trình nghiên
cứu về chế định mang thai hộ, điển hình như:
- Ngô Thị Anh Vân, Nguyễn Nhật Thanh (2018), Báo cáo tóm tắt đề tài nghiên
cứu khoa học cấp trường về “Xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản trong pháp luật Việt Nam”, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh. Đề tài này tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về xác định mối
quan hệ cha mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, trong
đó mang thai hộ cũng được tác giả nhắc đến khi trình bày về cách xác định cha mẹ
cho con trong trường hợp sinh sản đối với cặp vợ chồng vô sinh khi người vợ không
có khả năng mang thai và sinh con. Vì trọng tâm của đề tài là mối quan hệ cha mẹ
con nên nội dung về mang thai hộ chỉ dừng lại ở việc nêu ra các quy định của pháp
luật về điều kiện mang thai hộ mà chưa đi sâu vào phân tích, tìm hiểu các điều kiện
mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam.
- Đặng Thị Thu Trang, “Vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo từ góc độ
quyền công dân”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về “Triển khai thi hành chế định quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 2013” do Khoa
Luật Hành chính – Nhà nước Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
Thông qua việc phân tích các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về
điều kiện mang thai hộ; quyền, nghĩa vụ của các bên, tác giả chỉ ra mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo là một chính sách pháp luật tốt, thực thi quyền con người, quyền
tự do, dân chủ của công dân theo đúng mục tiêu Đảng đề ra trong chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung các điều kiện
của người phụ nữ mang thai hộ, các cơ sở y tế được phép tiến hành mang thai hộ và
thỏa thuận mang thai hộ được đề cập một cách khái quát mà chưa được phân tích,
đánh giá cụ thể.
- Chế Mỹ Phương Đài, “Chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014”, Hội thảo khoa học Những điểm mới của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết
đã đưa ra các vấn đề lý luận xoay quanh về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, qua
đó cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quát về chế định này. Tuy nhiên, nội dung
các điều kiện về chủ thể, thỏa thuận mang thai hộ được đề cập một cách khái quát mà
chưa được phân tích, đánh giá cụ thể.
5
- Nguyễn Ngọc Hồng Phượng, “Mang thai hộ trong pháp luật nước ngoài –
kinh nghiệm cho việc hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình 2014”, Hội thảo khoa
học Những điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung bài viết tập trung vào phân tích các quy định của
pháp luật ở một số nước trên thế giới về mang thai hộ. Trên cơ sở đó, tác giả đã rút
ra một số bài học và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ. Những kiến nghị
này mang tính chất định hướng, gợi mở cho quá trình nghiên cứu sâu hơn về mang
thai hộ nói chung và điều kiện mang thai hộ nói riêng.
- Nguyễn Văn Lâm (2015), “Quy định về mang thai hộ - điểm mới trong Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 237, tr. 108-110. Bài
viết chỉ ra được những cơ sở, nguyên nhân dẫn đến việc mang thai hộ được hợp pháp
hóa tại Việt Nam, nhưng nội dung về quy định điều chỉnh mang thai hộ nói chung và
điều kiện mang thai hộ nói riêng chưa được đề cập.
- Nguyễn Quế Anh (2015), “Quy định về mang thai hộ - Một nội dung mới trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 08, tr. 56-
58. Trong bài viết này, tác giả đã nêu ra một cách khái quát các quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01
năm 2015 của Chính phủ Quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bao gồm: Điều kiện pháp lý
để được mang thai hộ; nội dung thỏa thuận mang thai hộ; quyền, nghĩa vụ của các
bên và giải quyết tranh chấp nếu có phát sinh. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu lên ý
nghĩa nhân văn của pháp luật khi luật hóa chế định này.
- Nguyễn Thị Lan (2015), “Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh”, Tạp chí
Luật học, số 04, tr. 12-21. Nhìn chung, bên cạnh việc phân tích các quy định của pháp
luật về mang thai hộ như điều kiện, thỏa thuận mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của
các bên, mối quan hệ giữa cha mẹ, con và giữa đứa trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ với
các thành viên khác trong gia đình, tác giả còn bàn về hậu quả pháp lý từ việc mang
thai hộ trong mối liên hệ với các chế định pháp lý có liên quan như quyền yêu cầu ly
hôn; khai sinh cho trẻ,… Trong đó, các hạn chế trong quy định về điều kiện về mang
thai hộ được tác giả đánh giá khá chi tiết nhưng lại chưa đưa ra được kiến nghị hoàn
thiện pháp luật.
- Nguyễn Văn Cừ (2016), “Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam”, Tạp chí
Luật học, số 06, tr. 11-22. Trên cơ sở nhu cầu thực tế của xã hội đối với mang thai
hộ, cũng như quan điểm của một số nước trên thế giới về vấn đề này, tác giả bàn về
6
sự cần thiết của quy định về mang thai hộ ở Việt Nam. Bên cạnh đó, các quy định
pháp luật điều chỉnh về chế định này cũng được quan tâm, luận giải, bao gồm cả điều
kiện về mang thai hộ. Tuy vậy, vì hướng nghiên cứu của bài viết là bao quát các khía
cạnh liên quan đến mang thai hộ, nên điều kiện về mang thai hộ chưa được đánh giá
chuyên sâu.
Nói tóm lại, các công trình nghiên cứu nêu trên được ra đời trong bối cảnh chế
định mang thai hộ lần đầu tiên được pháp luật công nhận, do đó nội dung các bài viết
chủ yếu xoay quanh các vấn đề pháp lý của việc mang thai hộ như các nguyên tắc
chung về mang thai hộ; điều kiện mang thai hộ; quyền và nghĩa vụ của bên mang thai
hộ và bên nhờ mang thai hộ; quan hệ cha, mẹ, con giữa cặp vợ chồng vô sinh nhờ
mang thai hộ, người mang thai hộ với đứa trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ; xử lý hậu quả
phát sinh từ việc mang thai hộ. Không thể phủ nhận, các bài viết, công trình kể trên
đã cung cấp cho người đọc một cách nhìn toàn diện, khái quát về chế định mang thai
hộ - một trong những điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Đây là
nguồn tài liệu tham khảo, tạo tiền đề cho các nghiên cứu chuyên sâu về mang thai hộ
nói chung và điều kiện mang thai hộ nói riêng - vốn được coi là công cụ để quản lý
việc mang thai hộ - vì hiện nay, ngoài các hướng tiếp cận như trên thì chưa có công
trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống riêng
về điều kiện mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam. Do đó, tác giả lựa chọn vấn đề
này để tìm hiểu, nghiên cứu và mong muốn đề tài “Điều kiện mang thai hộ theo
pháp luật Việt Nam” sẽ là một đóng góp mới, góp phần hoàn thiện quy định
của pháp luật về chế định mang thai hộ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận về điều kiện mang thai hộ theo
pháp luật Việt Nam, đánh giá thực tiễn, qua đó chỉ ra những bất cập của pháp luật về
điều kiện mang thai hộ cũng như vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật,
nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện mang thai hộ theo pháp luật
Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, trong luận văn, tác giả tập trung giải
quyết các nhiệm vụ sau đây:
7
Một là, làm sáng tỏ các vấn đề về mặt lý luận của điều kiện mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo, bao gồm các nội dung: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở hình thành
pháp luật về mang thai hộ và quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ.
Hai là, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện mang thai
hộ, trong đó có sự liên hệ, đối sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về
vấn đề này.
Ba là, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về mang thai hộ nói chung và điều
kiện mang thai hộ nói riêng ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập của pháp luật và vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng.
Bốn là, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế định này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo dưới khía cạnh lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng. Nội
dung luận văn chú trọng các vấn đề lý luận, các quy định về điều kiện mang
thai hộ đối với chủ thể nhờ mang thai hộ, người mang thai hộ cũng như cơ sở
y tế tiến hành quá trình mang thai hộ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 cùng các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về điều kiện mang thai hộ theo quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật. Xét
rằng, hiện nay pháp luật Việt Nam chỉ cho phép hình thức mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo nên trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, trừ phần nội dung tìm hiểu
pháp luật nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành bài luận văn, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu, trong đó có phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh, quy nạp
khi phân tích các điều kiện mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam cũng như
thực trạng về mang thai hộ hiện nay. Các biện pháp này được kết hợp đan xen
với nhau và phân bổ xuyên suốt nội dung của bài luận văn, cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích: Đây là một trong những phương pháp được sử
dụng xuyên suốt đề tài, từ phân tích các vấn đề lý luận đến các quy định của
8
pháp luật về điều kiện mang thai hộ. Phương pháp này được sử dụng nhiều
nhất tại các Mục 1.1, 1.2 của Chương 1 và Mục 2.1, 2.2, 2.3 của Chương 2.
- Phương pháp tổng hợp: Sau khi tiến hành phân tích vấn đề, tổng hợp là
phương pháp nhằm hệ thống lại các vấn đề, quan điểm đã phân tích, qua đó
giúp người đọc có một cái nhìn khái quát về chế định mang thai hộ nói chung
và điều kiện mang thai hộ nói riêng. Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp
trong phần kết luận của Chương 1, Chương 2 và kết luận chung của luận văn.
- Phương pháp lịch sử: Phương pháp này được tác giả sử dụng khi trình
bày quá trình thay đổi của pháp luật Việt Nam về mang thai hộ từ không có
cơ chế điều chỉnh đến quy định cấm mang thai hộ và cuối cùng là hợp pháp
hóa hình thức mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Phương pháp này được sử
dụng chủ yếu ở Mục 1.3 của Chương 1.
- Phương pháp so sánh luật học: Đây là phương pháp được áp dụng trong
việc tìm hiểu quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về mang
thai hộ nói chung và điều kiện mang thai hộ nói riêng, từ đó làm rõ những
điểm tương đồng và khác biệt với pháp luật Việt Nam và tạo cơ sở kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ. Phương pháp này được tác giả sử dụng
chủ yếu ở Mục 1.4 của Chương 1 và các Mục 2.1, 2.2, 2.3 của Chương 2.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài nghiên cứu sẽ đưa ra cái nhìn tổng quát về các điều kiện mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các điểm hạn
chế, vướng mắc cũng như các kiến nghị nêu ra trong luận văn có giá trị tham
khảo trong quá trình hoàn thiện quy định của pháp luật về mang thai hộ.
Luận văn có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu các nội dung liên quan
đến mang thai hộ nói chung và điều kiện mang thai hộ nói riêng trong các
công trình nghiên cứu trong tương lai.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, luận văn được chia thành 02 chương:
Chương 1: Khái quát chung về điều kiện mang thai hộ
Chương 2: Điều kiện mang thai hộ trong pháp luật Việt Nam hiện hành, bất cập
và một số kiến nghị hoàn thiện.
9
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN MANG THAI HỘ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về điều kiện mang thai hộ
1.1.1. Khái niệm điều kiện mang thai hộ
Ngày nay, cụm từ “mang thai hộ” đối với chúng ta không còn xa lạ. Mang thai
hộ đã trở thành hiện tượng của thế giới từ những năm thập niên 70 của thế kỷ XX, đã
và đang gây ra nhiều tranh cãi tại nhiều quốc gia trên thế giới bởi nó chịu sự chi phối
cũng như tác động đến nhiều yếu tố như: đạo đức, văn hóa, tín ngưỡng, y học, kinh
tế và cả tội phạm học. Tuy vậy, có ý kiến cho rằng mang thai hộ xuất hiện từ rất sớm
và ghi nhận lần đầu tiên trong Bộ luật Hammurabi – một trong những bộ luật cổ xưa
nhất thế giới ra đời trong khoảng thời gian từ 1792 – 1750 TCN. Hay chương 16 Sách
sáng thế Genenis đã ghi nhận bà Sarah với khát khao làm mẹ nhưng không thể có con
cùng chồng là Ông Abraham, trước sức ép bởi phong tục lúc bấy giờ, bà Sarah đã gửi
người hầu gái của mình là Hagar đến chỗ chồng mình để mang thai và sinh con cho
vợ chồng bà5
. Theo dòng chảy của thời gian cùng với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, “mang thai hộ” được hiểu và tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể
trong giai đoạn đầu, mang thai hộ được hiểu là việc người đàn ông (người chồng)
quan hệ trực tiếp với một người phụ nữ (không phải vợ, thường được gọi là người mẹ
thay thế - surrogacy mother hay người mang thai hộ), cho đến khi người phụ nữ này
thụ thai, mang thai và sinh con. Đứa trẻ sinh ra sẽ được giao cho cặp vợ chồng để
chăm sóc và nuôi dưỡng. Năm 1978, em bé đầu tiên trên thế giới ra đời bằng phương
pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)6 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong công
tác hỗ trợ sinh sản nói chung và cách nhìn nhận về mang thai hộ nói riêng. Bởi lẽ,
như đề cập ở trên, mang thai hộ trước đây được hiểu là việc người vợ vì lý do nào đó
không thể mang thai và sinh con nên đã cho chồng mình quan hệ sinh lý với người
phụ nữ khác để người này mang thai và sinh con. Giờ đây, với sự ra đời của phương
pháp thụ tinh trong ống nghiệm thì mang thai hộ được nhìn nhận là hành động mang
thai và sinh con thay cho người khác, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng
của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm tạo thành phôi, sau đó cấy phôi vào tử
cung của một người phụ nữ khác để người này mang thai và sinh con.
5 Vũ Huy Cương (2015), Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật hôn nhân gia đình, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 6.
6 Minh Đức, Thi Trân, https://vnexpress.net/cha-de-cua-phuong-phap-thu-tinh-trong-ong-nghiem3418347.html, truy cập ngày 01/03/2021.