Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Điều kiện hình thành và phát triển sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.doc
PREMIUM
Số trang
113
Kích thước
809.8 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1377

Điều kiện hình thành và phát triển sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.doc

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cho đến nay sở giao dịch hàng hóa (Commodity exchange) đã không còn mới

lạ đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Kể từ lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1848 cho

đến nay, sở giao dịch hàng hóa đã không ngừng phát triển và đóng một vai trò hết sức

quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại và góp phần vào phát triển nền kinh tế nói

chung. Tuy nhiên, ở Việt Nam sở giao dịch hàng hóa vẫn còn là một khái niệm khá

xa lạ với những nhà sản xuất hay các nhà đầu tư. Người ta vẫn mới chỉ biết đến một

loại hình sở giao dịch tương tự sở giao dịch là sở giao dịch chứng khoán mà thôi. Với

thị trường tiềm năng là hơn 80 triệu dân, trong đó phần lớn là ở nông thôn, cộng với

nền kinh tế ngày càng phát triển với tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục,

và sự hội nhập ngày càng sâu rộng của thương mại Việt Nam với thế giới, nhu cầu về

sự hình thành sở giao dịch hàng hóa nhằm tăng cường giao dịch hàng là rất lớn. Nh￾ưng tại sao ở Việt Nam vẫn chưa hình thành những sở giao dịch hàng hóa thế mạnh

đặc biệt là các mặt hàng nông sản? Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra hiện nay là cần phải

đáp ứng những yếu tố nào để có thể thành lập được sở giao dịch hàng hóa ở Việt

Nam, do đó em đã chọn “Điều kiện hình thành và phát triển sở giao dịch hàng hóa

ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích nghiên cứu của khóa luận

Trên cơ sở xây dựng hệ thống cơ sở lý luận chung về sở giao dịch hàng hóa

trên thế giới cũng như việc tìm hiểu những điều kiện cần thiết để hình thành và phát

triển sở giao dịch hàng hóa, khóa luận đã đưa ra nhận xét về khả năng xây dựng sở

giao dịch hàng hóa ở Việt Nam. Đồng thời, trên cơ sở tìm hiểu kinh nghiệm của một

số quốc gia đang phát triển, đề xuất mô hình sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu: các điều kiện khách quan và chủ quan để xây dựng sở

giao dịch hàng hóa trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.

1

Phạm vi nghiên cứu: tìm hiểu cơ sở lý luận chung sở giao dịch hàng hóa, đánh

giá khả năng thành lập sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam đồng thời đề xuất mô hình

áp dụng cho Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Để nghiên cứu đề tài, em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: thu

thập tài liệu, phân tích thống kê, hệ thống hóa và diễn giải. Bên cạnh đó còn sử dụng

phương pháp so sánh đối chiếu để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, đồng thời

nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn.

5. Bố cục của khóa luận

Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung

của khóa luận được phân bổ thành 3 chương:

- Chương I: Tổng quan về sở giao dịch hàng hóa.

- Chương II: Điều kiện để xây dựng sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.

- Chương III: Kinh nghiệm thành lập sở giao dịch ở một số nước và một số đề xuất

về sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.

Trong quá trình làm khóa luận này em xin gửi lời cảm ơn trước nhất tới PGS.

TS Nguyễn Văn Hồng – Bộ môn Giao dịch Thương mại quốc tế, khoa kinh tế và kinh

doanh quốc tế đã hướng dẫn và giúp em hoàn thiện bài khóa luận của mình.

Đồng thời em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn, và các

thầy cô giáo trong khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế và của trường đại học Ngoại

Thương đã trang bị cho em những kiến thức hết sức bổ ích và thiết thực giúp em

hoàn thành bài khóa luận này cũng như trong quá trình công tác sau này.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 6 năm 2008

2

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ

1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN SỞ GIAO DỊCH HÀNG

HOÁ

1.1.1. Quá trình phát triển sở giao dịch hàng hoá

Đối với nhiều người thì nhắc đến sở giao dịch hàng hoá là nhắc đến một hệ

thống thị trường phức tạp với một hệ thống giao dịch phát triển các giao dịch tương

lai và quyền chọn hàng hoá như những sở giao dịch nổi tiếng như sở Thương Mại

Chicago (CBOT), sở giao dịch ngũ cốc Tokyo (Tokyo Grain Exchange), hay là sở

giao dịch kim loại Luân Đôn (London Metal Exchange). Đối với một số người khác

thì lại cho rằng sở giao dịch là một cơ cấu thị trường tiên tiến được sử dụng ở các

nước công nghiệp các nước có thu nhập thấp không thể mơ tới.

Lịch sử về sự phát triển thị trường ở Chicago đã cho thấy rằng, hệ thống thị

trường sẽ dần phát triển cùng với sự phát triển của các thị trường này cũng như khi

sự tăng tưởng kinh tế chứ không phải xuất phát từ một thị trường phức tạp ngay từ

đầu. Hay nói khác đi, sở giao dịch Chicago không bắt đầu từ một thị trường phát triển

ngay như ngày hôm nay. Vào những năm 1840, khi mà việc sản xuất ngũ cốc ngày

càng phát triển nhờ sự cải tiến về công nghệ thì những người nông dân ở phía Tây

nước Mĩ thường đến Chicago để bán ngũ cốc cho các thương gia, rồi sau đó những

người này sẽ đưa lượng hàng hoá này đi khắp cả nước. Dần dần, hoạt động này trở

nên sôi nổi đến mức hầu như không đủ nhà kho chứa lúa mì của nông dân. Khối

lượng sản xuất ngày càng lớn trong khi hệ thống vận tải chưa phát triển phù hợp

không thể đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hóa. Khi những người nông dân

này đến Chicago họ không hề biết trước giá cả thị trường, hơn nữa ở Chicago lúc này

có rất ít các công cụ để cất trữ hàng hoá và cũng không có một quy trình chuẩn nào

để cân và đánh giá chất lượng ngũ cốc, khiến cho nông dân rơi vào thế bị động và

phụ thuộc vào thương nhân. Thị trường tiêu thụ hỗn loạn, các nhà đầu cơ lợi dụng

tình trạng này ép giá làm giá ngũ cốc giảm mạnh sau vụ thu hoạch rồi sau đó lại tăng

lên khi nguồn cung đã được giải toả. Những hiện tượng mang tính chu kỳ như vậy đã

gây nên những thiệt hại nghiêm trọng cho người sản xuất lương thực, do đó những

3

người nông dân đã tìm cách tránh rủi ro bằng cách bán ngũ cốc trước khi vận chuyển

đến nơi tiêu thụ, kể cả với mức giá thấp hơn một ít so với giá dự kiến khi ngũ cốc

được đưa đến thị trường. Người mua và người bán lúc này phải thoả thuận với nhau

về số lượng ngũ cốc, chất lượng, giá cả, thời gian, địa điểm giao hàng và nhận tiền.

Ban đầu, những hoạt động này diễn ra tự phát và đơn lẻ nhưng dần dần do tính ưu

việt của nó trong việc tiêu thụ cũng như lưu thông hàng hoá nó lại trở nên ngày càng

phổ biến. Do vậy, một thị trường mới dần được hình thành, một thị trường mà ở đó

người mua và người bán gặp nhau để thoả thuận, cam kết với nhau về việc mua bán,

giao hàng và nhận tiền trong tương lai. Tuy nhiên, ở một thị trường mới như vậy,

việc tìm được người mua hay người bán đúng với số lượng và chất lượng hàng hoá

nông sản mình cần không phải là một việc dễ dàng. Chính vì vậy, trên thị trường lúc

này xuất hiện một người thứ ba - người trung gian với vai trò môi giới chắp nối

những người cần mua và cần bán lại với nhau. Nhưng việc chắp nối của người trung

gian thực không đơn giản, để hành nghề họ cũng phải bỏ thời gian và sức lao động và

để thu được lợi nhuận họ cũng phải gánh chịu những rủi ro khi không gặp được đúng

người mua và người bán. Các hiện tương như vậy đã đặt ra cho các nhà kinh tế một

nhiệm vụ cần phải giải quyết, một mặt để giải toả được những ách tắc trong lưu

thông, làm ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế, mặt khác đây cũng là một thị

trường kinh doanh hết sức hấp dẫn. Chính vì vậy vào năm 1848, Chicago Board of

Trade (CBOT) đã được mở ra bởi 82 thương nhân buôn ngũ cốc ở một thị trấn nhỏ là

Midwestern như là một trung tâm mua bán nơi mà những người nông dân và các

thương nhân gặp gỡ để đổi tiền lấy việc giao ngay những loại hàng hoá nông sản như

lúa mì, trên cơ sở những quy định nhất định đã được CBOT thiết lập sẵn về việc đánh

giá và cân đo lúa mì, và việc cất trữ những phần lúa mì còn lại chưa được giao dịch,

cũng như là việc đấu thầu giá cả, và giải quyết những tranh chấp diễn ra. Đây chính

là sở giao dịch hàng hóa đầu tiên trên thế giới.

Sự phát triển các loại hình sở giao dịch hàng hóa: khi cả những người chế

biến, nông dân đều thấy được lợi ích từ việc mua bán giao dịch qua sở giao dịch thì

vào năm 1851, những người nông dân và các thương nhân đã bắt đầu áp dụng các

hợp đồng kỳ hạn (forwards). Người nông dân sẽ thỏa thuận một mức giá để bán một

4

lượng ngũ cốc nhất định tại một thời điểm trong tương lai. Khi những hợp đồng kỳ

hạn này trở nên phổ biến thì vào năm 1865, CBOT đã đưa ra một hợp đồng chuẩn

được biết đến là hợp đồng tương lai với ngày giao hàng được xác định trước và một

khoản tiền bảo chứng để ràng buộc việc thực hiện nghĩa vụ. Ngay sau năm đó thì Sở

giao dịch bông New York cũng được thành lập và đã bắt đầu chi phối thị trường

bông, từ việc mua bán bông rồi sau đó là thực hiện mua các các loại nông sản khác.

Dựa trên những sự phát triển này, năm 1859 nghĩa là đúng một thập niên sau khi

được thành lập, chính phủ Mĩ đã chính thức trao quyền cho CBOT và do đó uỷ quyền

cho CBOT việc đặt ra những tiêu chuẩn về chất lượng của hàng hoá và đảm nhận

việc giám sát thường xuyên vào mặt hàng ngũ cốc được giao dịch trên sở giao dịch,

nhằm bảo đảm sự thống nhất của thị trường. Sự cải tiến này đã giảm những rủi ro và

chi phí liên quan đến việc thoả thuận các hợp đồng kỳ hạn trên cơ sở cá nhân.

Ban đầu hoạt động của các thị trường tương lai không có gì đặc biệt. Lúc đó

người ta gọi những người hoạt động theo kiểu này là những “kẻ đầu cơ liều mạng”.

Những người này thành công trong việc mua vét hàng hay ép giá một mặt hàng nào

đó trên thị trường nhất định. Một biến cố nổi tiếng đã xảy ra đó là: ngày thứ sáu đen

tối năm 1869 là ngày giá vàng bị phá. Việc hai nhà kinh doanh Jay Gould và Jim Fisk

mua vét giá vàng đã bị đổ bể khi tổng thống Grant ra lệnh bán vàng của kho bạc Mỹ.

Với ấn tượng là việc mua bán tương lai hàng hoá mang tính chất đầu cơ tạo nên sự

bất ổn định về tài chính và sự biến động giá giao ngay quá lớn làm cho những nhà lập

pháp liên tiếp phản đối và thậm chí họ còn muốn loại bỏ hình thức giao dịch này trên

thị trường. Cuối cùng vào năm 1922 tức là khoảng 74 năm sau ngày thành lập đầu

tiên của sở giao dịch Chicago, chính phủ Mỹ đã thành lập Grain Futures

Administration là một cơ quan giám sát để giám sát sự mở rộng của hoạt động giao

dịch trên sở giao dịch ngũ cốc và năm 1936 ban hành luật về sở giao dịch hàng hoá.

Năm 1968, các luật trên lại được sửa đổi và điều chỉnh với các điều khoản phù hợp

trong việc mua bán tương lai. Năm 1974 ủy ban mua bán tương lai (CFTC) được

thành lập. Vai trò và quyền hạn của CFTC hết sức quan trọng vì đó là tổ chức duy

nhất thay mặt chính quyền quản lý các hoạt động của thị trường tương lai. Tuy sự

hình thành và phát triển của thị trường tương lai đã tiếp thu được tất cả những ưu việt

5

đồng thời cũng khắc phục được những hạn chế của thị trường kỳ hạn nhưng các sở

giao dịch tương lai hàng hóa không thay thế hoàn toàn thị trường kỳ hạn - tiền thân

của giao dịch tương lai, mà chúng song song tồn tại. Các giao dịch kỳ hạn vẫn tiếp

tục tồn tại với tư cách là những hoạt động giao dịch ngoài sở, lúc này sở giao dịch

trong thị trường tương lai đóng vai trò như người trung gian chắp nối cho các nhu cầu

mua và bán trong thị trường kỳ hạn một cách có tổ chức.

Cùng với làn sóng tự do hoá thương mại trên toàn cầu thì sự hình thành các sở

giao dịch hàng hoá ngày càng nhiều với khối lượng giao dịch ngày càng lớn1

, đặc biệt

là ở các quốc gia đang phát triển và để thu hẹp khoảng cách để lại do hệ thống giá cả

cố định trước đây chứ không chỉ có trong phạm vi nước Mỹ 2

. Những sở giao dịch

còn tồn tại được và hiện nay là những sở giao dịch lớn nhất trên thế giới và đang giao

dịch những loại hàng hoá hoàn toàn khác so với những loại hàng hoá mà ban đầu nó

vẫn giao dịch. Ví dụ như sở giao dịch Chicago (Chicago Mercantile Exchange) ban

đầu chủ yếu giao dịch nông sản, còn hiện tại lại chủ yếu giao dịch các hợp đồng

tương lai tài chính; sở giao dịch năng lượng lớn nhất hiện nay, sở giao dịch New

York (New York Mercantile Exchange) trước đây giao dịch chủ yếu là khoai tây và

bơ. Hiện nay rất nhiều sở giao dịch đang phải đối mặt với một câu hỏi là liệu họ có

nên tiếp tục tập trung vào việc giao dịch những loại hàng hoá truyền thống hay là tìm

kiếm một loại hình hợp đồng mới. Sự cân nhắc này dẫn tới việc xuất hiện hợp đồng

dầu mỏ trên sở giao dịch hàng nông sản, các hợp đồng quyền chọn đối với các hợp

đồng tương lai đã được giao dịch, thậm chí là cả những hợp đồng phái sinh phức tạp

khác như ( bảo hiểm mùa vụ, chi phí vận tải, quyền thải khí ô nhiễm, v.v…). Do đó,

ngày nay hàng hoá giao dịch trên các sở giao dịch ‘hàng hoá’ trên thị trường thế giới

hiện nay hết sức đa dạng chứ không chỉ gói gọn trong mặt hàng nông sản truyền

thống nữa.3

Xu hướng sáp nhập các sở giao dịch hàng hóa: Các sở giao dịch hàng hóa

ngày nay đã trải qua một số giai đoạn sáp nhập, các sở giao dịch ở Mĩ vào những năm

1980, hầu hết đều là kết quả của các vụ sát nhập của hai hay thậm chí là nhiều sở

1

Xem phô lôc 1

2

Xem phô lôc 3 vµ phô lôc 4

3

Xem phô lôc 10 vµ phô lôc 11

6

giao dịch. Những năm 90 của thế kỉ 20 thậm chí còn chứng kiến nhiều vụ sáp nhập

hơn nữa. Một trong những nguyên nhân của xu hướng này chính là tính cạnh tranh

ngày càng tăng của các giao dịch hợp đồng tương lai: mối đe dọa từ hệ thống giao

dịch điện tử đối với những sở giao dịch với những hệ thống giao dịch truyền thống.

Thêm vào đó một nguyên nhân nữa là từ phía các quy định của chính phủ đặc biệt là

ở những quốc gia như Nhật Bản và Trung Quốc. Những nguyên nhân đó đã dẫn tới

một loạt các cuộc sáp nhập: ở Nhật số lượng các cuộc sáp nhập đã làm cho số lượng

các sở giao dịch ở nước này giảm xuống hơn một nửa từ 17 sở giao dịch năm 1993

xuống còn 8 năm 1997. ở Anh, Liffe đã sáp nhập với Sở giao dịch hàng hóa Luân

Đôn vào tháng 9/1996. Tại Mỹ, NYMEX sàn giao dịch tương lai năng lượng lớn nhất

thế giới lúc bấy giờ đã sáp nhập với Comex (Comex hiện nay đang hoạt động như là

một công ty con của Nymex), và các thành viên của cả NYCE và CSCE đã đều bỏ

phiếu đồng ý sáp nhập và thành lập NYBT (Board of Trade of city New York). Xu

hướng sáp nhập các sở giao dịch hàng hóa trên thế giới được dự đoán là sẽ tiếp tục

kéo dài, điển hình là vụ sáp nhập giữa hai sở giao dịch lớn nhất của Mỹ là CBOT và

CME để hình thành một sở giao dịch lớn nhất thế giới. 4

Điều đáng chú ý từ cái nhìn tổng quát về sự lịch sử phát triển của sở giao dịch

hàng hoá này chính là việc thị trường Chicago đã được thành lập và phát triển để giải

quyết những vấn đề về chi phí cũng như là rủi ro mà nông dân phải gánh chịu trên thị

trường, và nhu cầu phải sắp xếp thị trường hàng hoá nông sản qua những người tham

gia thị trường, qua không gian và thời gian. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng quy định

của chính phủ tăng lên khi thị trường phát triển là để thúc đẩy sự phát triển thị trường

chứ không phải là kiểm soát thị trường.

1.1.2. Đặc điểm sở giao dịch hàng hóa

Xét về bản chất một sở giao dịch hàng hoá chỉ đơn giản là một nơi mà người

mua và người bán tập trung để trao đổi theo một cách thức đã được định trước, với

“những quy định” cụ thể và hết sức rõ ràng. Với nghĩa rộng này, một sở giao dịch

hàng hoá là bất cứ thị trường có tổ chức nào, giao dịch hàng hoá thực hoặc không,

được tập trung qua một bộ máy duy nhất, cho phép sự cạnh tranh hiệu quả nhất giữa

4

Xem phô lôc 7: c¸c tËp ®oµn së giao dÞch thÕ giíi

7

những người mua và những người bán. Do đó giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa là

một phương thức giao dịch đặc biệt so với các phương thức giao dịch khác như mua

bán trực tiếp, mua bán qua trung gian, mua bán đối lưu,…ở những đặc điểm sau đây

1.1.2.1. Các hợp đồng phải có tiền bảo chứng

Tiền bảo chứng (hay mức ký quỹ) là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng,

bắt buộc đối với cả bên bán và bên mua. Thay vì phải bỏ ra một khoản tiền lớn để đặt

cọc hoặc một lượng tiền bằng với giá trị hàng hóa (thế chấp) để bảo đảm cho việc

mua bán thì sở giao dịch chỉ quy định một mức bảo chứng rất thấp, tùy vào loại hàng

hóa. Mức yêu cầu về tiền bảo chứng thấp khi tham gia vào các hợp đồng tại sở giao

dịch là một trong những nguyên nhân làm cho chúng trở thành những công cụ đòn

bẩy tài chính mạnh mẽ. Các loại tiền bảo chứng trên sở giao dịch gồm

• Tiền bảo chứng ban đầu (Initial Margin): Tiền bảo chứng ban đầu là khoản

tiền ký quỹ vào tài khoản bảo chứng để bảo đảm trang trải bất cứ khoản lỗ nào do

những biến động xấu trên thị trường. Việc ký quỹ tiền bảo chứng ban đầu này được

xem như khoản tiền đặt cọc cam kết thi hành hợp đồng mà hai bên mua bán phải thực

hiện. Mức tiền bảo chứng ban đầu cũng khác nhau tùy loại hợp đồng và phải trả

trước khi chuyển lệnh cho người môi giới.

Mỗi người tham gia thị trường đều phải trả khoản tiền bảo chứng ban đầu cho

người môi giới của mình và phải duy trì khoảng mức tiền bảo chứng được yêu cầu.

Trong trường hợp các khách hàng còn phải thông qua một hãng môi giới khác ngoài

các thành viên môi giới của sở giao dịch hàng hoá, như là các FCM (hãng buôn hoa

hồng_Futures commission Merchants) thì họ còn phải nộp một khoản tiền bảo chứng

ban đầu cao hơn vì các FCM này thường yêu cầu khách hàng phải nộp khoản tiền lớn

hơn vì mục tiêu kinh doanh của họ.

• Tiền bảo chứng duy trì (Maintenance Margin): Khi tiền bảo chứng đạt mức

duy trì tối thiểu, nhà đầu tư cần phải nộp tiền để đảm bảo đưa mức tiền bảo chứng trở

lại tiền bảo chứng ban đầu (Initial margin). Đây là khoản tiền tối thiểu mỗi hợp đồng

mà khách hàng phải ký quỹ mãi mãi. Khoản bảo chứng này thường thấp hơn khoản

tiền bảo chứng ban đầu, nó thường bằng 75% khoản tiền bảo chứng ban đầu.

8

• Tiền bảo chứng biến đổi (Variation Margin hay Margin Call): Những khoản lỗ

và lãi của những khách hàng của các thành viên được kết toán thông qua trung tâm

thanh toán bù trừ. Cuối mỗi ngày giao dịch, trung tâm thanh toán lại xác định các

mức giá kết toán cho mỗi hợp đồng trên cơ sở giá niêm yết trên thị trường vào cuối

phiên giao dịch. Những thành viên mà bị lỗ ở cuối ngày giao dịch sẽ bị yêu cầu nộp

tiền bảo chứng thêm. Các thành viên thanh toán lại chuyển thông báo về số tiền phải

nộp thêm cho khách hàng của mình.

1.1.2.2. Đa số các hợp đồng được thanh lý trước thời hạn

Trong các hợp đồng thông thường, khi các bên muốn thanh lý hợp đồng trước

ngày giao hàng đồng nghĩa với việc thỏa thuận để chấm dứt hợp đồng hoặc thoả

thuận chuyển nghĩa vụ của mình cho người khác, khi đó các bên sẽ thoát khỏi sự ràng

buộc về nghĩa vụ với nhau. Nhưng trong hợp đồng giao sau được mua bán tại sở giao

dịch hàng hóa thì các bên có thể thanh lý hợp đồng trước ngày đáo hạn một cách dễ

dàng mà không cần phải thông qua một sự thoả thuận nào. Chẳng hạn như thanh toán

hợp đồng tương lai, giao và nhận hàng hữu hình là cách thanh lý hợp đồng mà không

mấy người tham gia thị trường này lựa chọn:

• Giao hàng hữu hình: Kết thúc một vị thế tương lai bằng việc nhận giao hàng

thường là biện pháp ‘nặng nhọc’ để hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng. Việc giao hàng

hữu hình đặt ra những chi phí rõ rệt: chi phí kho hàng, bảo hiểm, xếp tàu, và lệ phí

môi giới. Trên trên thực tế việc giao hàng hữu hình chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ

(khoảng 2%) bởi nó đòi hỏi mua hay bán thực sự một thứ hàng, điều mà các nhà kinh

doanh thường không muốn làm trừ khi họ có nhu cầu cụ thể đối với hàng hoá (với và

do đó chỉ những công ty kinh doanh hàng hoá mới ưa chuộng hình thức này.

• Bù trừ (Offsetting): đây là hình thức thanh toán vị thế phổ biến nhất, người

mua khởi đầu và kết thúc vị thế của mình bằng việc bán một hợp đồng tương lai y hệt

(cùng một loại hàng và cùng tháng giao hàng). Tương tự, người bán khởi đầu kết thúc

vị thế của mình bằng cách mua một hợp đồng y hệt. Sau khi việc mua bán đó được

thực hiện và báo cáo về trung tâm thanh toán thì nghĩa vụ của cả hai bên được xoá đi

trong sổ sách của trung tâm thanh toán và của những người môi giới ngoài sở (nếu

có).

9

So với việc nhận hoặc giao hàng hữu hình thì việc thanh toán bằng bù trừ

tương đối đơn giản hơn. Nó chỉ đòi hỏi thị trường tương lai đủ cơ động để tạo thuận

lợi mua bán bằng bù trừ và chỉ khuyến khích chi phí môi giới thông thường.

1.1.2.3 Các điều khoản trong hợp đồng được tiêu chuẩn hóa

Các hoạt động mua bán tại sở giao dịch hàng hóa phải được thực hiện liên tục

với trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bảo đảm an toàn cao. Từ yêu cầu đó mà các

điều khoản trong hợp đồng phải được tiêu chuẩn hóa một cách tối đa, giúp cho việc

ký kết hợp đồng nhanh chóng, đảm bảo an toàn về mặt pháp lý. Các điều khoản được

tiêu chuẩn hóa thường bao gồm: tên hàng, chất lượng, quy mô hợp đồng, thời gian

giao hàng và địa điểm giao hàng.

Tên hàng là hàng hóa được phép giao dịch trên sở giao dịch đó. Hàng hóa đó

đa số là hàng hóa thông thường nhưng cùng với sự mở rộng hoạt động thì một số sở

giao dịch lớn còn cung cấp các sản phẩm hợp đồng tài chính. Mỗi sở giao dịch chỉ

giao dịch một số loại hàng hóa nhất định, người tham gia thị trường chỉ được phép

giao dịch các hàng hóa cho phép đó.

Chất lượng hàng hóa cũng được tiêu chuẩn hóa và giám sát nghiêm ngặt.

Hàng hóa được phân thành các mức chất lượng khác nhau nhưng thông thường thì sở

giao dịch chỉ cho phép giao dịch một vài mức chất lượng nhất định. Khi chất lượng

hàng hóa được chuẩn hóa, phân loại rõ ràng thì đã tạo điều kiện cho hoạt động giao

dịch trở nên thuận tiện, nhanh chóng và đáng tin cậy, từ đó tạo nên uy tín của từng sở

giao dịch hàng hóa. Đó là lý do vì sao việc làm đánh giá chất lượng hàng hóa là một

công việc cơ bản có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các sở giao dịch.

Quy mô hợp đồng là độ lớn giá trị tài sản được giao dịch trong một hợp đồng.

Độ lớn mỗi hợp đồng tương lai về mỗi loại hàng hóa đều được thống nhất và hầu như

được thống nhất trên toàn thế giới giúp cho việc mua bán giữa các sở giao dịch hàng

hóa trên thế giới thông qua hệ thống kết nối mạng toàn cầu lại càng dễ dàng hơn.

Việc quy định độ lớn mỗi hợp đồng sao cho không quá lớn để những nhà bảo hộ nhỏ

cũng có khả năng tham gia và không quá nhỏ để đảm bảo giá trị được bảo hiểm hoặc

đầu cơ sẽ bù đắp được chi phí huê hồng hay các chi phí cố định khác.

10

Thời điểm giao hàng (thời điểm đáo hạn hợp đồng) thường được xác định là

tháng giao hàng trong năm. Trong tháng giao hàng đó, ngày giao hàng được quy định

cụ thể tuỳ vào loại hàng hóa và thị trường. Thời điểm giao hàng còn là điều kiện xác

định để nhằm phân biệt đối tượng được giao dịch trong hợp đồng tương lai, ví dụ

như: hợp đồng giao sau cà phê tháng 3 năm 2005 khác với hợp đồng giao sau cà phê

tháng 5 năm 2005…

Địa điểm giao hàng do sở giao dịch quy định trong hợp đồng. Như đã trình

bày thì việc mua bán trong các hợp đồng tại sở giao dịch thường là mang tính danh

nghĩa và không gắn với việc chuyển giao hàng hóa thực tế. Nhưng nếu có những

thương nhân muốn thực hiện hợp đồng chuyển giao hàng hóa thực sự khi hợp đồng

đáo hạn thì việc giao hàng này sẽ tiến hành tại các địa điểm do sở giao dịch quy định

để tiết kiệm chi phí, tạo thuận lợi cho cả thương nhân và sở.

Sự tiêu chuẩn hóa các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng giao dịch tại sở giao

dịch hàng hóa là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt sở giao dịch với các

phương thức mua bán hàng hóa khác.

1.1.2.4. Trung tâm thanh toán giám sát việc thực hiện hợp đồng

Trung tâm thanh toán bù trừ đóng một vai trò quan trọng trong các sở giao

dịch tương lai và quyền chọn hàng hoá bởi vì nó kiểm soát rủi ro vỡ nợ của tất cả các

thành viên của các sở giao dịch đó. Người mua và người bán không ràng buộc trực

tiếp với nhau trên cơ sở hợp đồng nhưng đều bị ràng buộc bởi trung tâm thanh toán

này. Để đảm bảo chức năng của mình thì trung tâm thanh toán bù trừ của các sở giao

dịch hàng hóa đều phải thực thi những nhiệm vụ nhất định, bao gồm:

- Thiết lập và thực hiện chức năng của thị trường: nghĩa là thực hiện thiết lập và

quản lý các mức giá cả trên sở giao dịch; ghi nhận các giao dịch; giám sát các hoạt

động tại sàn; nhập và công cố các mức giá trong suốt phiên giao dịch và các mức giá

thực hiện ở cuối ngày giao dịch.

- Giám sát và quản lý các thành viên tham gia thị trường.

- Các hoạt động thanh toán bù trừ: bao gồm những công tác đảm bảo rủi ro tín

dụng; duy trì các tài khoản bảo chứng; thực hiện giao hàng đối với những hợp đồng

không được bù trừ trước hạn.

11

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!