Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Địa tầng các trầm tích Permi thượng - Trias hạ, điều kiện thành tạo và khoáng sản liên quan ở khu vực Bắc Bộ
PREMIUM
Số trang
351
Kích thước
39.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
968

Địa tầng các trầm tích Permi thượng - Trias hạ, điều kiện thành tạo và khoáng sản liên quan ở khu vực Bắc Bộ

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

VIỆN NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT VÀ KHOÁNG SẢN

BÁO CÁO

ĐỊA TẦNG CÁC TRẦM TÍCH PERMI THƯỢNG - TRIAS HẠ

ĐIỀU KIỆN THÀNH TẠO VÀ KHOÁNG SẢN CÓ LIÊN QUAN Ở

KHU VỰC BẮC BỘ

6615

26/10/2007

Hà Nội, 10-2004

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

VIỆN NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT VÀ KHOÁNG SẢN

Các tác giả: Đặng Trần Huyên, Đoàn Nhật Trưởng,

Nguyễn Đình Hữu, Nguyễn Linh Ngọc,Phạm Đức

Lương, Trần Hữu Dần, Nguyễn Văn Vượng, Nguyễn

Hữu Hùng, Nguyễn Đức Phong, Phạm Văn Hải,

Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Thị Minh Phương

Những người tham gia: Đặng Mỹ Cung, Nguyễn Thế Vấn,

Nguyễn Thi Lan, Nguyễn Thị Hồng Nhung,

Nguyễn Xuân Quang, Trần Minh Khang, Trần Thị Nhuần

BÁO CÁO

ĐỊA TẦNG CÁC TRẦM TÍCH PERMI THƯỢNG - TRIAS HẠ,

ĐIỀU KIỆN THÀNH TẠO VÀ KHOÁNG SẢN LIÊN QUAN

Ở KHU VỰC BẮC BỘ

VIỆN TRƯỞNG

VIỆN NC ĐỊA CHẤT VÀ KHOÁNG SẢN

TS NGUYỄN XUÂN KHIỂN

CHỦ NHIỆM ĐỀ ÁN

TS ĐẶNG TRẦN HUYÊN

Hà Nội, 10-2004

3

MỤC LỤC

Các văn bản pháp lý 6

Lời nói đầu 37

Chương I. Lịch sử nghiên cứu địa tầng, điều kiện thành tạo và khoáng

sản có liên quan của các trầm tích Permi thượng - Trias hạ ở khu vực

Bắc Bộ

43

1. Nghiên cứa địa tầng các trầm tích Permi thượng - Trias hạ 43

2. Nghiên cứu điều kiện thành tạo các trầm tích Permi thượng - Trias hạ 57

3. Các khoáng sản ngoại sinh trong địa tầng các trầm tích Permi thượng -

Trias hạ

57

4. Những vấn đề tồn tại 58

Chương II. Phương pháp nghiên cứu 60

1. Nhóm các phương pháp kỹ thuật 60

2. Nhóm các phương pháp chuyên môn 60

Chương III. Địa tầng 63

1. Thang địa tầng sử dụng trong báo cáo 63

2. Các phân vị địa tầng 65

2.1. Vùng Duyên hải Đông Bắc Bộ 65

Hệ tầng Bãi Cháy 65

2.2. Vùng Đông Bắc Bộ 71

Hệ tầng Đồng Đăng 72

Hệ tầng Lạng Sơn 82

Hệ tầng Bắc Thủy 88

Hệ tầng Bằng Giang 96

Hệ tầng Sông Hiến 108

Hệ tầng Hồng Ngài 121

2.3. Vùng Tây Bắc Bộ 127

Phức hệ Cẩm Thủy 127

Loạt Yên Duyệt 178

Hệ tầng Tiên Quang 179

Hệ tầng Nà Có 188

4

Hệ tầng Hua Tất 190

Hệ tầng Pa Khôm 197

2.4. Vùng Cực Tây Bắc Bộ 204

Đá vôi Mường Nhé 204

Chương IV. Sinh địa tầng 208

1. Các sinh đới trong Permi thượng 208

2. Các sinh đới trong Trias hạ 209

3. Đối sánh địa tầng 218

Chương V. Ranh giới Permi - Trias 225

1. Nghiên cứu ranh giới Permi -Trias bằng phương pháp sinh địa tầng 227

2. Nghiên cứu ranh giới Permi -Trias bằng phương pháp MESC 235

Chương VI. Điều kiện thành tạo các trầm tích Permi thượng - Trias hạ

ở khu vực Bắc Bộ

239

1. Đặc điểm thành phần vật chất của các tổ hợp thạch kiến tạo Permi

thượng - Trias hạ Bắc Bộ Việt Nam

239

1.1. Đặc điểm tổ hợp thạch kiến tạo đồng tạo núi va chạm mảng PZ

muộn - MZ sớm Đông Bắc Bộ

239

1.2. Đặc điểm tổ hợp thạch kiến tạo rift PZ muộn - MZ sớm Tây Bắc

Bộ

243

2. Bối cảnh kiến tạo 253

2.1. Vị trí kiến tạo các bồn trầm tích cuối Permi - đầu Trias Bắc Bộ

Việt Nam

253

2.2. Hoạt động biến dạng kiến tạo cuối Permi - đầu Trias khu vực Tây

Bắc Bộ

254

2.3. Hoạt động biến dạng kién tạo cuối Permi - đầu Trias khu vực

Đông Bắc Bộ

256

3. Môi trường trầm tích 256

3.1. Môi trường ven bờ 256

3.2. Môi trường biển nông (thềm lục địa) 260

3.3. Môi trường sườn lục địa 264

4. Cộng sinh tướng 265

4.1. Đới cấu trúc Duyên hải 266

4.2. Đới cấu trúc Sông Hiến 266

4.3. Đới cấu trúc An Châu 273

5

4.4. Đới cấu trúc Tây Bắc 275

Chương VII. Vị trí địa tầng các khoáng sản ngoại sinh và tiền đề tìm

kiếm

281

Chương VIII. Kinh tế 298

Những kết quả chính đạt được và những tồn tại của đề án 318

Kết luận 321

Văn liệu tham khảo 322

Phụ lục

Các mặt cắt địa chất

Các bản ảnh cổ sinh

331

346

6

LỜI NÓI ĐẦU

Các trầm tích Permi thượng và Trias hạ ở Bắc Bộ phân bố khá rộng rãi tại

các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá, Hà Tây (thuộc Tây

Bắc Bộ); Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh (thuộc Đông Bắc Bộ) với

tổng diện tích khoảng 3.000km2

(hình 1). Các trầm tích này được hình thành trong

một giai đoạn địa chất không dài (khoảng 20 triệu năm) nhưng là một trong những

giai đoạn có nhiều biến động nhất trong lịch sử phát triển địa chất ở Bắc Bộ, nó giữ

vai trò định vị một bình đồ cấu trúc kiến tạo hoàn toàn mới cho khu vực. Vào cuối

Permi giữa - đầu Permi muộn, môi trường trầm đọng đồng nhất, yên tĩnh đã từng

tồn tại trong suốt Carbon - Permi giữa đã chấm dứt với một gián đoạn trầm tích

mang tính khu vực được tiếp nối bằng hoạt động núi lửa mafic - siêu mafic mạnh

mẽ ở Tây Bắc Bộ. Sau hoạt động núi lửa, ở vùng Tây Bắc Bộ và muộn hơn, ở vùng

Đông Bắc Bộ đã xảy ra các đợt biển tiến - thoái với quy mô khác nhau. Vào đầu

Trias sớm, ở vùng Đông Bắc Bộ, hoạt động phun trào cũng đã xảy ra. Tất cả các

hoạt động địa chất trên đã tạo ra sự đa dạng và phức tạp của các thành tạo Permi

thượng - Trias hạ ở khu vực Bắc Bộ.

Do sự đa dạng và phức tạp nói trên, đến nay, mặc dù công tác nghiên cứu địa

tầng Permi thượng - Trias hạ đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng vẫn còn

nhiều tồn tại, đó là:

- Các phân vị địa tầng được xác lập dựa trên Quy phạm địa tầng của Liên Xô

trước đây không phù hợp với tiêu chí thạch địa tầng đang được áp dụng hiện nay,

- Chưa có sự thống nhất trong phân chia các phân vị địa tầng Permi thượng -

Trias hạ,

- Vị trí và tuổi của một số phân vị địa tầng có liên quan đến các đá phun trào,

- Các phân vị sinh địa tầng (các đới và phức hệ cổ sinh) chưa được nghiên

cứu đồng bộ và chi tiết,

- Điều kiện và môi trường thành tạo chưa được nghiên cứu theo hướng thạch

luận nguồn gốc,

- Các mặt cắt chứa khoáng sản có giá trị công nghiệp như bauxit, than, vật

liệu xây dựng và tiền đề địa tầng cho các loại khoáng sản này chưa được chú trọng

nghiên cứu,

- Vấn đề ranh giới giữa hai hệ Permi và Trias ở Việt Nam chuyển tiếp liên

tục hay gián đoạn.

Xuất phát từ những tồn tại trên, ngày 31/1/2002, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp

ra quyết định số 339 QĐ-CNCL, cho phép Viện Nghiên cứu Địa chất và Khoáng

sản thi công đề tài nghiên cứu "Địa tầng các trầm tích Permi thượng - Trias hạ (P3-

T1), điều kiện thành tạo và khoáng sản có liên quan ở khu vực Bắc Bộ" với mục tiêu

và nhiệm vụ:

7

1. Phân chia chi tiết các phân vị địa tầng, các trầm tích Permi thượng - Trias

hạ (P3-T1) trong phạm vi khu vực Bắc Bộ.

2. Nghiên cứu, xác lập các đới cổ sinh có mặt trong các trầm tích Permi

thượng - Trias hạ (P3-T1).

3. Xác định điều kiện và môi trường thành tạo của các trầm tích Permi

thượng - Trias hạ và các tiền đề, dấu hiệu khoáng sản liên quan.

Đề tài chính thức được thi công từ 01/2002 với sự phân công như sau:

Nhóm nghiên cứu địa tầng Permi thượng gồm: Đoàn Nhật Trưởng (chịu

trách nhiệm chính), Trần Hữu Dần, Nguyễn Đức Phong.

Nhóm nghiên cứu địa tầng Trias hạ gồm: Đặng Trần Huyên (chịu trách

nhiệm chính), Nguyễn Đình Hữu, Nguyễn Hữu Hùng, Trần Minh Khang.

Nhóm nghiên cứu các đá núi lửa: Phạm Đức Lương (chịu trách nhiệm

chính), Nguyễn Thế Vấn.

Nhóm nghiên cứu điều kiện thành tạo các đá trầm tích: Nguyễn Linh Ngọc

(chịu trách nhiệm chính), Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Đức Chính, Đặng Mỹ

Cung.

Nghiên cứu bối cảnh kiến tạo: Nguyễn Văn Vượng.

Nghiên cứu tiền đề địa tầng của các khoáng sản ngoại sinh: Trần Hữu Dần.

Công tác văn phòng được thực hiện với sự phân công như sau: nghiên cứu và

xác định Foraminifera do Đoàn Nhật Trưởng; Bào tử phấn hoa do Trần Hữu Dần và

Phạm Văn Hải; Conodonta do Tạ Hòa Phương, Phạm Kim Ngân; Radiolaria do

Trần Thị Nhuần; Bivalvia do Đặng Trần Huyên và Vũ Khúc; Ammonoidea do Vũ

Khúc và Nguyễn Đình Hữu; Brachiopoda do Nguyễn Đức Phong và Nguyễn Hữu

Hùng.

Công tác văn phòng, phân tích tài liệu về trầm tích luận do Nguyễn Linh

Ngọc đảm nhiệm; về các đá núi lửa do Phạm Đức Lương đảm nhiệm.

Các kết quả phân tích thạch học, microfacies và tàn dư carbonat được thực

hiện tại Phòng Phân tích khoáng thạch và Phòng Thạch luận - Trầm tích luận, Viện

Nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản.

Các mẫu phân tích quang phổ plasma, hóa silicat do Trung tâm Phân tích Thí

nghiệm Địa chất thực hiện.

Mẫu Huỳnh quang tia X do Trung tâm Hạt nhân Thành phố Hồ Chí Minh

thực hiện.

Mẫu kích hoạt neutron do Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt thực hiện.

Phân tích khoáng vật bằng phương pháp Microsonde: Phòng Nghiên cứu

Khoáng vật và Địa chất đồng vị, Viện Nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản.

Sau 3 năm nghiên cứu, những mục tiêu của đề tài đặt ra đã được hoàn thành

tốt. Để đạt được những kết quả nêu trên, đề tài đã nhận được những ý kiến chỉ đạo

sát sao từ Ban Giám đốc và các chuyên viên của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

8

Trong quá trình thi công cũng như tổng kết, đề tài được các Phòng, Ban chức năng

của Viện tạo mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành đúng tiến độ.

Trong quá trình làm báo cáo kết thúc, chúng tôi nhận được sự cộng tác, góp

ý kiến của các cán bộ trong và ngoài Viện, đặc biệt là của GS TSKH Đặng Vũ

Khúc, GS TS Phan Cự Tiến (Tổng hội Địa chất Việt Nam), TS Nguyễn Xuân Khiển

(Viện Nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản), TS Nguyễn Đức Thắng (Bộ Tài nguyên

và Môi trường), PGS TS Tạ Hòa Phương (Đại học Quốc gia Hà Nội), GS TSKH

Nguyễn Thị Kim Thoa (Viện Vật lý Địa cầu - Viện Khoa học Công nghệ Việt

Nam), PGS TS Bùi Minh Tâm (Viện Nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản).

Tập thể tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành.

Cho dù đã hết sức nỗ lực nhằm hoàn thành tốt những mục tiêu của đề tài đặt

ra nhưng chắc chắn báo cáo không tránh khỏi các sai sót và tồn tại. Chúng tôi mong

nhận được sự đóng góp ý kiến rộng rãi của các nhà khoa học để báo cáo được hoàn

thiện tốt nhất.

12

CHƯƠNG I

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA TẦNG, ĐIỀU KIỆN THÀNH TẠO VÀ

KHOÁNG SẢN CÓ LIÊN QUAN CỦA CÁC TRẦM TÍCH

PERMI THƯỢNG - TRIAS HẠ Ở KHU VỰC BẮC BỘ

Lịch sử nghiên cứu địa tầng, điều kiện thành tạo và các khoáng sản liên quan

của các trầm tích Permi thượng - Trias hạ ở khu vực Bắc Bộ có thể chia thành hai

giai đoạn chủ yếu: 1. Trước năm 1954, là thời kỳ do các nhà địa chất Pháp ở Sở Địa

chất Đông Dương tiến hành (bao gồm cả các công trình công bố đến năm 1960

nhằm tổng kết các kết quả nghiên cứu của các nhà địa chất Pháp). 2. Từ năm 1954

đến nay, do các nhà địa chất Việt Nam ở Cục Địa chất và Khoáng sản thực hiện với

sự giúp đỡ của các đồng nghiệp Xô Viết trong những năm đầu.

1. NGHIÊN CỨU ĐỊA TẦNG CÁC TRẦM TÍCH PERMI THƯỢNG - TRIAS HẠ

1.1. GIAI ĐOẠN TRƯỚC NĂM 1954

1.1.1. Các trầm tích Permi thượng

Những nghiên cứu về trầm tích Permi thượng của các nhà địa chất Pháp

được tiến hành ngay từ đầu thế kỷ XX. Đây là những công trình của Douvillé

(1906), Colani (1919, 1924), Patte (1927), v.v..

Tổng kết gần 50 năm nghiên cứu địa chất của người Pháp ở Đông Dương,

Saurin (1956) đã rà soát lại và xếp các thành tạo sau đây vào Permi thượng, bậc

Kazani:

- Kazani hạ: 1. Đất đá chứa Lepidolina multiseptata, Sumatrina annae ở khối

Bắc Sơn; 2. Đá vôi, đá silic hay silic hoá chứa Staffella inflata (=Nankinella inflata)

ở Hạ Long và Lạng Sơn .

- Kazani thượng: 1. Các lidit có Productus purdoni, Proboscidella kutorgae

(Lạng Nác) và những đá phiến bị silic hoá có Martinia aff. triquetra, Ophiceras sp.

trong khối Bắc Sơn; 2. Các ftanit có Fenestella, Lyttonia, Productus gratiosus,

Pseudophillipsia acuminata ở bờ vịnh Hạ Long.

Theo hiểu biết hiện nay, trừ các đá chứa Lepidolina multiseptata thuộc Permi

trung, còn các thành tạo khác được xác nhận thuộc Permi thượng. Ngoài các thành

tạo nêu trên, nhiều thành tạo khác được xếp vào những mức địa tầng trẻ hơn hoặc

xếp chung vào Urali - Permi, ngày nay được xác nhận là Permi thượng: andezit tuổi

Antracolit ở Tây Bắc Bộ (Fromaget, 1938), bauxit ở Đồng Đăng, Lạng Sơn tuổi

Permi - Trias (Saurin, 1956), laterit cổ, đá phiến sét, sa thạch sắt tuổi Trias (một

phần) (Patte, 1927).

Lịch sử nghiên cứu địa tầng Permi thượng trong giai đoạn này còn gắn bó

với việc phát hiện và xác định vị trí địa tầng của giống fusulinid đặc trưng cho

Permi thượng Palaeofusulina. Năm 1913, Deprat phát hiện ra một giống fusulinid

mới trong đá vôi đen ở Lạng Nắc. Do đá vôi này giống với đá vôi đen Núi Voi ở

Hải Phòng chứa hoá thạch Dinanti (Vise) nên Deprat cho rằng giống mới này cũng

13

có tuổi Dinanti và là dạng tổ tiên. Vì vậy, ông đặt tên là Palaeofusulina. Colani

(1924) cho rằng cấu tạo của Palaeofusulina đã tiến hoá không thể là dạng tổ tiên,

tuy nhiên bà chỉ xếp giống này vào khoảng địa tầng ứng với P1 hiện nay. Patte

(1927) dựa vào quan sát ở thực địa thấy rằng Palaeofusulina nằm lân cận với đá vôi

chứa Neoschwagerina, đã kết luận rằng Palaeofusulina là một dạng của Permi

thượng. Kết luận đúng đắn này của Patte không được Saurin (1956) thừa nhận.

Ngày nay, những tiến bộ trong nghiên cứu cổ sinh, địa tầng đã xác nhận

Palaeofusulina có vị trí địa tầng cao nhất trong Permi thượng.

Nhìn chung, trong giai đoạn đầu, những kết quả nghiên cứu của các tác giả

Pháp về Permi thượng chỉ mang tính chất phát hiện và tập trung ở khu vực Đông

Bắc Bộ. Các mô tả về các thành tạo không có được sự hoàn chỉnh của một phân vị

địa tầng. Một hạn chế khác là do không nghiên cứu địa tầng theo các mặt cắt cụ thể

nên trật tự địa tầng có khi bị lẫn lộn.

1.1.2. Các trầm tích Trias hạ

Ở Đông Bắc Bộ (kể cả vùng Duyên hải Bắc Bộ). Các nghiên cứu địa tầng

các trầm tích Trias hạ được tiến hành rất sớm, từ đầu thế kỷ XX.

Các phát hiện hoá thạch Mollusca Trias đầu tiên của Counillon và Mansuy ở

vùng Lạng Sơn đã được Mansuy (1908) nghiên cứu và mô tả. Ông đã xác nhận sự

có mặt của đá phiến chứa các hoá thạch Trias sớm phát hiện được ở vùng Bình Gia

và ngay sát thị xã Lạng Sơn: Pseudomonotis griesbachi, Danubites sp., D. cf.

lissarensis, Columbites sp., Inyoites cf. oweni.

Giraud (1918) đã tiến hành nghiên cứu địa chất ở vùng Lạng Sơn - Điềm He

và xác nhận sự có mặt của loạt đá phiến - cát kết dưới chứa Danubites phát triển ở

Lạng Sơn. Ngoài ra, với 2 điểm hoá thạch chứa Ammonoidea bảo tồn kém phân bố

ở gần Đức Hinh và gần Lạng Nắc, ông cho rằng thành tạo đá phiến - cát kết thượng

(formation schistogréseuse supérieure) phân bố rộng rãi trên các tờ Thất Khê, Phố

Bình Gia và Lạng Sơn ứng với một phần "Hệ thống X" của Zeil (1907) có thể là

Trias hạ.

Năm 1919, Mansuy đã dẫn ra sự phân chia các thành tạo Trias hạ ở Đông

Bắc Bộ như sau:

1. Đá phiến đen chứa Ammonoidea có thể so sánh với "Hungarites" ở gần

Lạng Nắc.

2. Đá phiến chứa Pseudomonotis griesbachi và Danubites ở Phố Bình Gia và

Lạng Sơn.

Năm 1922, Bourret khi nghiên cứu địa chất ở Đông Bắc Bắc Bộ đã tách từ

"Hệ thống X" ra "Đá phiến Sông Hiến” mà theo ông gồm hai phần: phần dưới là "đá

phiến Sông Hiến" thực thụ còn phần trên là dăm kết. Đá phiến Sông Hiến thực thụ

gồm các đá phiến phân lớp thanh, uốn nếp mạnh, ít nhiều có chứa các lớp xen cát

kết. Đá phiến được đặc trưng trước hết bằng sự xen kẽ của các ryolit bị ép mạnh,

tạo nên các khối quan trọng thường ở chân của "Đá phiến Sông Hiến", tiếp đến là

các lớp cát kết rất đặc biệt mà thành phần giống như ryolit. Cũng chính Jacob và

14

Bourret (1920) đã cho rằng "loạt Đồng Văn" gồm các đá phiến màu phớt vàng có

quarzit xen kẽ với ryolit và microgranit do Deprat (1915) xác lập ở Thượng Bắc Bộ

và xếp vào Gotlandi cũng là thành phần của "Đá phiến Sông Hiến".

Theo Bourret, "Đá phiến Sông Hiến" có lẽ thuộc Trias thượng và Ret (trong

đó phần dăm kết ở trên được xem có tuổi Ret).

Việc xác lập "Đá phiến Sông Hiến" có ý nghĩa quan trọng như việc phân

định một phân vị địa tầng Trias của khu vực nghiên cứu. Tuy rằng chưa có hoá

thạch chứng minh cho tuổi của phân vị, song nó đã phân biệt với các thể địa chất

nằm trên và dưới nó. Hiện nay, "đá phiến Sông Hiến" của Bourret được xác nhận

như là một phân vị địa tầng, có tuổi Trias sớm (Đặng Trần Huyên, 1992; Vũ Khúc,

Đặng Trần Huyên, 1995; Đặng Trần Huyên, 1998, 2000).

Năm 1927, Patte đã công bố kết quả nghiên cứu địa chất ở Đông Bắc Bộ.

Ông đã xác định bậc Werfen với sự tồn tại của mức này về mặt địa tầng bằng sự

liên tục giữa Permi và Trias.

Như vậy, trong giai đoạn nghiên cứu đầu tiên của người Pháp, các trầm tích

Trias hạ biển ở Đông Bắc Bộ đã được phát hiện và mô tả. Tuy vậy, chúng chưa

được phân chia thành các phân vị địa tầng khu vực, trừ "Đá phiến Sông Hiến". Các

hoá thạch sưu tập được chủ yếu là Mollusca và một ít Ammonoidea ở Lạng Sơn và

các vùng lân cận đã được Mansuy (1908, 1919) và Patte (1926) mô tả. Kết quả của

các nghiên cứu kể trên đã được Saurin (1956) tóm tắt trong "Từ điển địa tầng Đông

Dương”.

Ở Tây Bắc Bộ. Năm 1915, Deprat lần đầu tiên đã phân chia các trầm tích

Trias ở Tây Bắc Bộ, trong đó các trầm tích "cát kết sặc sỡ Chi Nê" ở vùng Hoà Bình

- Phủ Nho Quan và "đá phiến chứa vôi có Danubites hymalayacus" ở trung lưu

Sông Đà được ghi nhận có tuổi Werfen (T1). Các tầng cát kết ở làng Mương, xóm

Ni chứa Hoernesia socialis đáng lẽ xếp vào Werfen thì ông lại xếp vào Anisi.

Năm 1922, Jacob đã xác định các đá bột kết và đá phiến sét ở lân cận La Sơn

(Thanh Hoá) có tuổi Ret - Lias do không tìm thấy các di tích Claraia.

Fromaget (1941) đã xếp các trầm tích lục nguyên chứa tuf và carbonat ở

vùng Huổi Xó, Làng Sảng, Pa Tỷ Lèng (Lai Châu) và bắc Thạch Thành (Thanh

Hoá) cùng với các đá phiến sét chứa than vào các trầm tích chứa than tuổi Trias

muộn (hiện nay các trầm tích này được xếp vào Trias hạ và Permi thượng). Năm

1952, Fromaget đưa ra sơ đồ những thành hệ biển và vũng vịnh Trias ở Tây Bắc

Việt Nam và đã liên hệ phần thấp nhất của Trias ở khu vực này với các trầm tích

Carni chứa Discotropites và Halobia. Vì thế, theo ông, Trias của khu vực được bắt

đầu từ Carni hoặc phần nào từ Ladin.

Nói chung các trầm tích Trias hạ ở Tây Bắc Bộ không được các nhà địa chất

Pháp nghiên cứu kỹ như ở Đông Bắc Bộ và để lại những sai lầm nhất định. Tổng

hợp những nghiên cứu địa chất của các nhà địa chất Pháp trong năm mươi năm,

Saurin (1956) cũng không nhắc đến sự có mặt của các trầm tích Werfen (Trias hạ) ở

Tây Bắc Bộ.

15

1.2. GIAI ĐOẠN SAU NĂM 1954 ĐẾN NAY

1.2.1. Các trầm tích Permi thượng

Dovjikov và nnk., (1965) trong công trình đo vẽ Bản đồ địa chất Miền Bắc

Việt Nam tỷ lệ 1/500.000 đã xác nhận sự có mặt của các trầm tích Permi thượng

trong phạm vi đới tướng - cấu trúc Sông Hiến và An Châu thuộc Đông Bắc Bộ. Từ

dưới lên trên gồm hai thành tạo:1/ Đá silic - lục nguyên và 2/ Đá vôi chứa

Palaeofusulina.

Ngoài ra, các trầm tích Permi thượng còn được xác nhận lại ở đới Duyên Hải

bằng "tập silic Bãi Cháy". Đặc biệt, lần đầu tiên trầm tích Permi thượng được xác

nhận ở đới Thanh Hoá, bao gồm các thành tạo lục nguyên, đôi khi chứa than (bảng

I.1).

Các trầm tích Permi thượng nêu trên được xác nhận nằm trên mặt bào mòn

của đá vôi Permi trung.

Các tác giả bản đồ tỷ lệ 1/500.000 cũng đã xác lập ba phức hệ Foraminifera

đặc trưng cho Permi muộn, trong đó phức hệ thứ nhất và phức hệ thứ hai dường như

ngang mức địa tầng: 1/ Pseudofusulina, Parafusulina, Jangchienia; 2/ Reichelina,

Nankinella và nhiều đại biểu Lagenida, Miliolida; 3/ Palaeofusulina, Lagenida và

Miliolida.

Điểm hạn chế của các tác giả kể trên và của nhiều tác giả bản đồ tỷ lệ

1/200.000 là họ vẫn dùng những tên địa tầng ở Tây Âu, Liên Xô để gọi những trầm

tích tương ứng ở Việt Nam. Dưới một tên gọi trên bản đồ là nhiều loại trầm tích

khác nhau được thể hiện. Điều này không phản ảnh được lịch sử phát triển địa chất

của khu vực.

Nhằm phục vụ cho công tác tìm kiếm bauxit ở Đông Bắc Bộ, Nguyễn Văn

Liêm (1966) đã dẫn ra trật tự địa tầng sau cho trầm tích Permi thượng:

- Tầng có Neoschwagerina: đá vôi xám, xám sáng.

- Tầng chứa bauxit Đồng Đăng: đá silic, bauxit, aleurolit, silic vỡ vụn chứa

Nankinella, Staffella và Reichelina.

- Tầng có Palaeofusulina: đá vôi vụn, đá vôi đen lẫn sét.

Những năm tiếp theo, qua công tác đo vẽ bản đồ địa chất tỷ lệ 1/200.000, các

trầm tích Permi thượng được phát hiện rộng rãi. Nhiều phân vị địa tầng đã được xác

lập cho từng vùng nghiên cứu.

Ở Đông Bắc Bộ có các phân vị địa tầng sau đây được xác lập:

- Điệp Hạ Long (P2-T1hl): Phạm Văn Quang và nnk., (1969); - Tầng Phù

Lãng (Ppl): Nguyễn Quang Hạp (1967); - Tầng silic Bãi Cháy (P2bc): Nguyễn Văn

Liêm (1967); - Hệ tầng Bãi Cháy (P2bc): Nguyễn Công Lượng(1980); - Tầng than

Phó Bảng (P2): Lê Hùng (1971); - Tầng bauxit Táp Ná (P2): Nguyễn Anh Tuấn

(1971); - Điệp Nhị Tảo (P2nt): Phạm Đình Long (1976); - Điệp Đồng Đăng (P2đđ):

Phan Cự Tiến (1978).

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!