Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đề tài: Tính toán Thủy văn và Điều tiết hồ chứa Xạ Hương – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc pps
PREMIUM
Số trang
123
Kích thước
3.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1611

Tài liệu đang bị lỗi

File tài liệu này hiện đang bị hỏng, chúng tôi đang cố gắng khắc phục.

Đề tài: Tính toán Thủy văn và Điều tiết hồ chứa Xạ Hương – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc pps

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BÁO CÁO THỰC TẬP

Đề tài

Tính toán Thủy văn và Điều tiết hồ chứa Xạ

Hương – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc

MỤC LỤC

III.1.3. Ứng dụng mô hình Tank để tính toán dòng chảy đến hồ.........................................60

Để ứng dụng mô hình TANK tính toán dòng chảy đến hồ Xạ Hương ta sử dụng tài liệu

dòng chảy thực đo trạm Ngọc Thanh, tài liệu mưa và bốc hơi trạm Vĩnh Yên để xác định

bộ thông số của mô hình, sau đó sử dụng bộ thông số của mô hình để tính toán dòng chảy

đến tuyến công trình.............................................................................................................60

III.1.3.1. Tài liệu dùng cho mô hình.....................................................................................61

Kiểm định mô hình...............................................................................................................62

..............................................................................................................................................62

Bảng 3-1: Bộ thông số mô hình TSVY.PAR.......................................................................63

MỞ ĐẦU

Như chúng ta đều biết, nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hình

thành, phát triển của xã hội loài người. Bên cạnh vai trò quan trọng đó nước cũng là

một trong những tác nhân gây ra các hiểm hoạ như lũ lụt, hạn hán và sa mạc hoá,

tác động trực tiếp đến đời sống của con người. Thậm chí ở một số nơi trên thế giới,

việc giành quyền sở hữu nguồn nước là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những cuộc

xung đột đẫm máu giữa một số quốc gia.

Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hệ thống sông, hồ, kênh rạch phong

phú và lượng mưa trung bình hàng năm tương đối lớn, từ 1.200 đến 3.000 mm. Là

một trong những quốc gia có nguồn tài nguyên nước phong phú, thuộc loại cao trên

thế giới và có trữ lượng nước dồi dào ở khu vực Châu Á Chính sự ưu đãi to lớn về

tài nguyên thiên nhiên như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh

tế - xã hội. Tuy nhiên, sự phân bố rất không đều giữa các mùa trong năm và giữa

các vùng, các lưu vực sông trong cả nước, gây ra lũ lụt vào mùa mưa và hạn hán,

thiếu nước về mùa khô. Cùng với quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất

nước, những vấn đề mới nảy sinh như ô nhiễm môi trường, ô nhiễm dòng chảy sông

hồ, sự cạn kiệt nguồn nước… đã và đang gây ra những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng

tiêu cực đến sự phát triển và an sinh xã hội.

Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đang phải từng ngày, từng giờ hứng

chịu những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu như hiện tượng trái đất nóng lên,

hiện tượng El Nino, La Nina…mà Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng

nặng nề nhất. Nhiều vùng đất đai màu mỡ của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ

bị biến mất trên bản đồ trong vòng vài chục năm tới.

Để tăng cường điều hòa dòng chảy, nhiều công trình thủy lợi, đặc biệt là

công trình hồ chứa đã được xây dựng nhằm phục vụ đời sống và sản xuất cũng như

phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai. Các công trình này đã góp phần quan trọng trong

việc đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời

gian qua. Với mong muốn vận dụng các kiến thức đã học về nghành Thủy văn, đặc

biệt là chuyên ngành Tính toán Thủy văn, em đã chọn đề tài: “Tính toán Thủy văn

và Điều tiết hồ chứa Xạ Hương – huyện Bình Xuyên – tỉnh Vĩnh Phúc ” để làm đồ

án tốt nghiệp. Nội dung chủ yếu của đồ án là nghiên cứu và tính toán một số đặc

trưng Khí tượng - Thủy văn thiết kế cho lưu vực để phục vụ bài toán quy hoạch,

tính toán điều tiết hồ chứa phục vụ cấp nước tưới cho nông nghiệp.

Với mục tiêu đề ra như trên, đồ án đã sử dụng những phương pháp sau để

phân tích tính toán:

- Phương pháp điều tra và thu thập số liệu.

- Phương pháp thống kê xác suất.

- Phương pháp sử dụng mô hình toán.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đồ án được trình bày trong 4 chương, bao

gồm:

Chương 1: Điều kiện địa lý tự nhiên khu vực nghiên cứu : Chương này

trình bày khái quát một số đặc điểm địa lý, địa hình của lưu vực và khái quát về tình

hình dân sinh kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc và huyện Bình Xuyên.

Chương 2: Tính toán các yếu tố khí tượng: Chương này phân tích và tính

toán một số đặc trưng bao gồm: Lượng mưa bình quân trên lưu vực; lượng mưa

năm thiết kế; phân mùa mưa, tính toán phân phối mưa năm.

Chương 3: Tính toán thủy văn thiết kế: Chương này phân tích tính toán

dòng chảy năm; tính toán dòng chảy lũ; tính toán dòng chảy bùn cát.

Chương 4: Điều tiết dòng chảy : Chương này tính toán điều tiết để xác định

dung tích hiệu dụng của hồ Xạ Hương từ đó phục vụ thiết kế xây dựng hồ chứa và

điều tiết cấp nước cho khu vực Bình Xuyên. Ngoài ra tính toán điều tiết lũ nhằm

phòng lũ cho công trình.

Với những nội dung đó, đồ án giúp Sinh Viên biết cách vận dụng các các

kiến thức đã học vào việc tính toán thủy văn phục vụ thiết kế xây dựng các công

trình thủy lợi. Ngoài ra đồ án còn giúp sinh viên biết phân tích lựa chọn những

phương pháp tính toán phù hợp, phân tích được tính quy luật của các yếu tố thủy

văn từ kết quả tính toán.

CHƯƠNG I

ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU

I.1. Tỉnh Vĩnh Phúc

I.1.1. Điều kiện tự nhiên

I.1.1.1. Vị trí địa lí

Tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong khu vực châu thổ sông Hồng thuộc trung du và

miền núi phía bắc. Vĩnh Phúc là một tỉnh ở vùng đỉnh của châu thổ Sông Hồng,

thuộc khu vực chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng vì vậy có ba vùng sinh thái:

Đồng bằng ở phía Nam tỉnh, Trung du ở phía Bắc tỉnh, vùng núi ở huyện Tam Đảo.

Diện tích tự nhiên, tính đến 31/12/2008 là 1.231,76 km2

Tỉnh Vĩnh Phúc có các điểm cực:

- Điểm cực bắc ở 210,35 vĩ bắc (Đạo Trù - Tam Đảo)

- Điểm cực nam ở 210,06 vĩ bắc (Tráng Việt - Mê Linh)

- Điểm cực đông ở 1060,48 kinh đông (Ngọc Thanh TX Phúc Yên)

- Điểm cực tây ở 1060,19 kinh đông (Bạch Lưu – Lập Thạch)

Tỉnh Vĩnh Phúc tiếp giáp với các tỉnh:

- Phía bắc giáp hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, đường ranh giới là

dãy núi Tam Đảo, Sáng Sơn.

- Phía tây giáp tỉnh Phú Thọ, ranh giới tự nhiên là Sông Lô

- Phía nam giáp Hà Nội, ranh giới tự nhiên là sông Hồng.

- Phía đông giáp hai huyện Sóc Sơn, Đông Anh – Hà Nội.

(Nguồn: www.vi.wikipedia.org)

I.1.1.2. Địa hình

Địa hình Vĩnh Phúc kéo dài theo phương Tây Bắc - Đông Nam, là phương

chung của địa hình ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc bộ Việt Nam. Phía bắc của tỉnh có

dãy núi Tam Đảo với đỉnh Đạo Trù cao 1.592m, phía tây Nam được bao bọc bởi 2

con sông lớn là sông Hồng và sông Lô, tạo nên dạng địa hình thấp dần từ đông bắc

xuống tây nam và chia ra 3 vùng có địa hình đặc trưng: đồng bằng, gò đồi, núi thấp

và trung bình.

Địa hình đồng bằng: gồm 76 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là

46.800 ha. Vùng đồng bằng bao gồm vùng phù sa cũ và phù sa mới, chủ yếu do phù

sa của các hệ thống sông lớn như: Sông Hồng, sông Lô, sông Đáy bồi đắp nên vùng

phù sa cũ chiếm diện tích khá rộng, gồm phía bắc của thị xã Phúc Yên, các

huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường và phía nam của các huyện Tam Dương, Bình Xuyên,

được hình thành cùng thời kì hình thành châu thổ sông Hồng. Vùng phù sa mới dọc

theo các con sông thuộc các huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, nam Bình

Xuyên, được hình thành vào thời kì Đệ tứ - Thống Holoxen. Đất đai vùng đồng

bằng được phù sa sông Hồng bồi đắp nên rất màu mỡ, là điều kiện lí tưởng cho việc

phát triển kinh tế nông nghiệp thâm canh.

Địa hình đồi: gồm 33 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là 24.900

ha, đây là vùng đồi thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả và hoa màu

kết hợp với chăn nuôi gia súc, tạo điều kiện thuận lợi trong việc chuyển đổi cơ cấu

cây trồng và chăn nuôi theo hướng tăng sản xuất hàng hoá thực phẩm. Vùng đồi

núi Bình Xuyên là vùng được thành tạo vào thời kì Trung Trias giữa Đệ Tam, gồm

các lớp trầm tích bể cạn, gồm các phiến thạch, sa thạch, phiến sa và một số loại đá

khác xen kẽ.

Địa hình núi thấp và trung bình: Có diện tích tự nhiên là 56.300 ha, chiếm

46,3% diện tích tự nhiên của tỉnh. Địa hình vùng núi phức tạp bị chia cắt, có nhiều

sông suối, đây là một trong những ưu thế của Vĩnh Phúc so với các tỉnh quanh Hà

Nội, vì nó sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các khu công nghiệp tập

trung và các khu du lịch sinh thái. Vùng núi Tam Đảo có diện tích rừng quốc gia là

15.753ha.

a. Vùng núi Lập Thạch, Sông Lô, Tam Đảo

Vùng núi Tam Đảo, Lập Thạch, Sông Lô nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới

ẩm mưa mùa vùng núi. Lượng mưa ở đai cao của núi Tam Đảo khá lớn (2.600 mm)

vì ở đây có thêm lượng mưa địa hình. Mùa mưa từ tháng 4 đến cuối tháng 10 chiếm

90% tổng lượng mưa cả năm. Mưa nhiều vào các tháng 6, 7, 8 và 9, cao nhất vào

tháng 8 dương lịch, thường gây xói mòn và lũ lớn. Số ngày mưa khá nhiều trong

năm (trên 140 ngày). Nhiệt độ trung bình của vùng núi cao trung bình là 19-200C.

Còn khu vực chân núi nhiệt độ cao hơn, khoảng từ 22-230C, tháng lạnh nhất là

tháng 1 (11-150C), tháng nóng nhất là khoảng tháng 7 (26-280C). Riêng vùng đỉnh

núi có nền nhiệt độ thấp hơn cả, bình quân từ 18 - 190C, nhiệt độ xuống thấp nhất là

tháng 1 (10,80C), nhiệt độ cao nhất vào tháng 6 (khoảng 230C). Nhiệt độ khu nghỉ

mát Tam Đảo thấp hơn nhiệt độ ở thành phố Vĩnh Yên khoảng 60C. Khí hậu vùng

núi Tam Đảo, Lập Thạch chia thành 2 tiểu vùng: tiểu vùng khí hậu núi cao Tam

Đảo quanh năm mát mẻ, thuận tiện cho việc phát triển du lịch, hình thành các khu

nghỉ mát, du lịch vui chơi giải trí. Khu vực còn lại thuộc tiểu vùng mang đặc điểm

của khí hậu gió mùa chí tuyến Đông Bắc Bắc Bộ. Độ ẩm bình quân là 84- 85%, vào

mùa mưa, nhất là khi có mưa phùn độ ẩm có thể lên tới 90%, nhưng vào mùa khô

độ ẩm giảm xuống có khi chỉ còn 70-75%.

Do lượng mưa vùng khá lớn nên tạo ra mạng lưới sông suối trong vùng ngắn

và dốc, có dạng chân rết, cấu trúc dốc và hẹp lòng từ đỉnh xuống chân núi, lưu

lượng nước lớn, chảy vào các hồ trong vùng, thuộc lưu vực sông Đáy. Chia làm hai

mùa rõ rệt: mùa lũ (xảy ra vào tháng 8) lũ tập trung nhanh và cũng rút nhanh; mùa

kiệt (tháng 2). Vùng có hệ thống hồ lớn nhỏ, lớn nhất là hồ Vân Trục nằm ở phía

Nam vùng, hồ Bò Lạc, hồ Suối Sải, hồ Đá Ngang và nhiều hồ nhỏ khác.

Đất vùng này chủ yếu là các loại đất xám, bao gồm: Đất xám mùn đá nông:

Phân bố ở độ cao trên 700m. Đất xám đỏ vàng đá nông: phân bố ở phần lớn diện tích

vùng núi Tam Đảo, ở độ cao dưới 700m. Một phần nhỏ diện tích đất loang lổ chạy

dọc theo thung lũng sông Bá. Phía Nam của vùng có đất xám đỏ vàng điển hình. Dọc

theo sông Cà Lồ và các nhánh của nó tồn tại các loại đất xám điển hình và các loại

đất xám loang lổ. Dọc theo các sông suối, thung lũng, các đứt gãy trong vùng có các

loại đất cát chua và một số nơi có đất phù sa chua. Phía Nam của vùng có đất xám

vàng đá nông, phía Tây có đất xám điển hình glay sâu.

Đối với vùng núi Tam Đảo, Lập Thạch, Sông Lô tính đặc thù của các nhân tố

sinh thái phát sinh đã tạo nên đặc điểm đa dạng sinh học và tài nguyên sinh vật

phong phú bao gồm các kiểu rừng:

Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới núi thấp: Phân bố ở khu vực 700m,

loại rừng này chiếm phần lớn dãy Tam Đảo với những loài cây có giá trị kinh tế cao

như: Chò chỉ (Choera chinensis), Giổi (Michelia Ital), Re (Cinnamomum Ital)...

Quần hệ thực vật kiểu rừng này gồm nhiều tầng, tán kín với những loài cây lá rộng

thường xanh hợp thành. Kiểu rừng này đang bị tàn phá nặng nề.

Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình: Phân bố ở độ cao

800m trở lên (chỉ có ở dãy Tam Đảo). Quần hệ thực vật là các loài họ Dầu

(Dipterocarpaceae), họ Re (Lauraceae). Dẻ (Fagceae), họ Chè (Theaceae), họ Mộc

Lan (Magnoliaceae), họ Sau Sau (Hamamelidaceae). Ngoài ra, ở độ cao trên 1.000

m xuất hiện một số loài thuộc ngành hạt trần như: Thông (Dacrycarpus), Pơ mu

(Fokienia hodginsii), Thông tre (Podocarpus neriifolius), Thông yến tử

(Podorcarpus pilgeri), Kim giao (Nageia fleuryi).

Rừng lùn trên đỉnh núi: Là một kiểu phụ đặc thù của rừng kín thường xanh

mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình, được hình thành trên các đỉnh dốc, hay các đỉnh

núi cao đất xấu, nhiều nắng gió, mây mù. Vì vậy cây cối thường thấp, bé và phát

triển chậm. Rừng tre nứa: Mọc xen kẽ trong các kiểu rừng khác. Các loại tiêu biểu

là Vầu, Sặt gai ở độ cao trên 800m; Giang thường ở độ cao 500- 800m; Nứa thường

ở độ cao dưới 500m.

Rừng phục hồi sau nương rẫy: Kiểu rừng này hình thành từ rừng bị khai thác

gỗ nặng nề trước những năm 80, thường có ở vùng đệm của Vườn Quốc gia Tam

Đảo.

Rừng trồng: Gồm các loại rừng: Rừng thông, rừng Bạch đàn, rừng Keo và

rừng lá rộng, được trồng ở độ cao khoảng từ 200-600m. Rừng trồng được bao phủ

với diện tích khá lớn ở phần phía Tây Bắc của vùng (vùng Lập Thạch). Ngoài

ra, những khu vực thung lũng, sông suối và phần phía Nam của vùng còn trồng cây

lương thực, rau màu. Ngoài ra trong vùng còn có các kiểu trảng cây bụi, trảng cỏ

thứ sinh sau khai thác.

b. Vùng trung du: Bình Xuyên, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tam Dương

Vùng này nằm trên nền đá biến chất cao, tạo thành dải kéo dài theo hướng

Tây Bắc - Đông Nam, gồm các đá gnei giàu plagioclas, biotit, silimanit, có tuổi

Proterozoi giữa (PR2- i1 sc), đôi chỗ gặp quarzit chứa mica hệ tầng Chiêm Hóa

(PR3- € ch). Phía Tây của vùng có một vài khối đồi sót có tuổi Neogen sớm (N1) hệ

tầng Na Dương, là khối xâm nhập còn sót lại sau quá trình biển thoái cuối cùng.

Ngoài ra, phần lớn diện tích vùng đồi này được cấu tạo bởi trầm tích Đệ tứ có tuổi

Pleistocen trung - thượng (QII-III), và tuổi Holocen trung - thượng (QIV

2-3). Vùng đồi

có độ cao từ 20 đến 238m, độ dốc trung bình < 200

, riêng khu phía Đông Bắc của

vùng là vùng đồi cao > 200

, khu vực này các dãy đồi cao chạy theo hướng Tây Bắc -

Đông Nam. Các đồi gò khác tồn tại ở dạng khối, phần lớn là các bề mặt Pediment

cao 20-60m với độ dốc trung bình cấp III (từ 8 đến 150

). Dọc theo các sông suối có

các bậc thềm tích tụ sông bậc 1 và các bề mặt đồng bằng tích tụ tầng thấp giữa vùng

đồi thấp. Thấp hơn là những bãi bồi tuổi hiện đại bằng phẳng (< 30

). Phần phía

Đông của vùng có dạng địa hình đồi cao, nằm trên phần kéo dài của khối Tam Đảo,

có tuổi Triat trung thuộc hệ tầng Nà Khuất và hệ tầng sông Hiến.

Đây là vùng đồi gò nên các chỉ tiêu khí hậu được đo tại trạm khí tượng Vĩnh

Yên. Khí hậu thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa: Gió Đông Nam: thổi từ tháng 4

đến tháng 9; Gió Đông Bắc: thổi từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Tạo ra 2 mùa rõ

rệt: Mùa nóng ẩm, mưa nhiều: từ tháng 4 đến tháng 9; Mùa lạnh khô, mưa ít: từ

tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23- 240C, lạnh nhất

vào tháng 1 là 16,70C và tháng nóng nhất là tháng 7 với nhiệt độ trung bình tháng là

30,2oC. Lượng mưa hàng năm là 1.166,6mm, tháng khô nhất là tháng 11 - 12 với

lượng mưa chỉ vào khoảng 9,0 đến 9,5 mm, tháng mưa nhiều nhất là tháng 8 với

lượng mưa lên tới 236,0 mm. Độ ẩm tương đối trung bình là 78 - 80%, trong đó

tháng độ ẩm nhỏ nhất là tháng 2 (72%), và độ ấm lớn nhất vào tháng 8.

Mạng lưới thủy văn dày đặc, nhiều sông, suối, hồ, đầm. Hệ thống lớn nhất là

hệ thống sông Đáy, với lưu lượng nước bình quân là 23 m3

/s; lưu lượng cao nhất là

833m3

/s; mùa khô kiệt, lưu lượng chỉ 4 m3

/s, có quãng sông cạn có thể lội qua được.

Hệ thống sông này cung cấp nước tưới cho đồng ruộng của các huyện Tam Dương,

Bình Xuyên. Hệ thống kênh mương trong vùng tương đối dày, nhưng do nằm trong

vùng hạ lưu các con sông chảy xuống từ Tam Đảo và do địa hình thoải, nên vào

mùa mưa thoát nước kém, gây ngập úng, tạo ra nhiều hồ đầm trong vùng. Hệ thống

hồ đầm có tác dụng tích nước cho mùa khô phục vụ cho sản xuất nông nghiệp,

trong đó đầm lớn nhất phải kể đến là Đầm Vạc nằm ở phía Nam và hồ Đại Lải ở

phía Đông. Đầm Vạc có diện tích mặt thoáng về mùa kiệt là 250ha, về mùa lũ lên

tới 500ha có tác dụng tưới tiêu nước cho khu vực. Hồ Đại Lải là hồ nhân tạo lớn

nhất trong vùng với dung tích hữu ích là 25,4 triệu m3

, diện tích tưới thiết kế là

2.700ha. Ngoài nhiệm vụ tưới nước và phòng lũ còn phục vụ du lịch sinh thái, tạo

cảnh quan môi trường hồ nước vùng trung du. Ngoài ra, trong vùng còn có hệ thống

kênh mương đào và các trạm bơm phục vụ công tác tưới, tiêu nước cho vùng.

Do phát triển trên các đá gneis giàu plagioclas, biotit, silimanit nên loại đất

được hình thành chủ yếu là đất xám, gồm các loại đất xám điển hình và đất xám đỏ

vàng. Đất phù sa chua điển hình phân bố dọc theo các sông suối như sông Đáy,

sông Xạ Hương và các chi lưu của nó. Theo dải hẹp nhỏ dọc theo sông Đáy có đất

phù sa trung tính ít chua, ngập úng vào mùa mưa; Đất glay phân bố ở phía Nam

huyện Lập Thạch, chủ yếu là glay chua điển hình. Đất loang lổ có tồn tại ở khu vực

phía Đông Nam và Tây Nam của vùng. Đất phù sa chua tồn tại phần lớn ở phía Tây

và phần trung tâm của Yên Lạc; đất loang lổ phân bố ở phần phía Tây, phía Bắc và

phía Đông Yên Lạc; đất gley có nhiều nhất ở phía Bắc Yên Lạc và một phần ở phía

Nam thị trấn Xuân Hòa, thị xã Phúc Yên. Đất phù sa trung tính ít chua có ở ven các

con sông chảy trong vùng. Ngoài ra, còn có đất tầng mỏng trên vùng đồi cao thuộc

thị trấn Xuân Hòa Phúc Yên. Sản phẩm trên bề mặt vùng đồi Vĩnh Phúc là sản

phẩm phong hoá gồm các lớp đất sét nâu đỏ, laterit và các mũ sắt. Nhân dân thường

dùng lớp đất sét có latarit này để làm gạch đá ong và gạch không nung.

Thực vật trong vùng chủ yếu là rừng trồng rải rác khắp vùng và trồng các

loại cây ăn quả như vải, nhãn,… các loại cây công nghiệp ngắn ngày (đậu tương,

lạc), cây lương thực được trồng ở những khu vực có địa hình thấp, độ dốc nhỏ.

c. Vùng đồng bằng Vĩnh Tường, Yên Lạc, Nam Bình Xuyên

Vùng này phần lớn diện tích nằm trên trầm tích sông tuổi Holocen trung -

thượng (aQIV

2-3), phía Đông và Đông Nam có trầm tích biển tuổi Pleistocen (mQIII),

trầm tích hồ - đầm tuổi Pleistocen (lbQIV

2-3) và một khối sót có tuổi Neogen hạ

thuộc hệ tầng Na Dương (N1 nd).

Đây là vùng đồng bằng ven sông có độ cao nhỏ hơn 30m. Gồm các khu vực

ven sông Hồng, vùng này có độ dốc nhỏ, dưới 50

.

Khí hậu vùng thuộc kiểu khí hậu vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhiệt độ trung bình

khoảng 230C, nhiệt độ trung bình tháng 7 là 280C, trung bình tháng 1 là 160C. Mùa

nóng, nhiệt độ cực đại tuyệt đối có thể lên tới 400C. Vùng này có mưa phùn nhiều vào

tháng 1 và tháng 2. Lượng mưa trung bình khoảng 1500 - 2.000 mm.

Do địa hình thấp nên vào mùa mưa thường gây ngập úng, tạo ra nhiều hồ đầm

trong vùng. Nhiều hệ thống kênh mương dẫn nước, tưới tiêu nước cho khu vực như

kênh Liễn Sơn kéo dài trên 7 huyện, thị từ miền núi, trung du tới vùng đồng bằng

(Lập Thạch, Tam Dương, Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh Tường). Sông Cà Lồ chảy từ

xã Vạn Yên, huyện Mê Linh theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, giữa hai huyện Bình

Xuyên và Mê Linh, có chiều dài 86km. Nguồn nước sông Cà Lồ chủ yếu là tập trung

nước các sông, suối bắt nguồn từ núi Tam Đảo, núi Sóc Sơn. Lưu lượng bình quân

chỉ 30 m3

/s. Lưu lượng cao nhất về mùa mưa là 286 m3

/s. Tác dụng chính của sông là

tiêu úng vào mùa mưa lũ. Riêng khúc sông đầu nguồn cũ từ Vạn Yên đến sông Cánh

đã được đắp chặn lại ở gần thôn Đại Lợi (Mê Linh), dài gần 20km, biến thành một hồ

chứa nước lớn tưới ruộng và nuôi cá. Đầm Rưng trải dài trên khu vực 3 xã: Tam

Phúc, Tứ Trung, Ngũ Kiên (Vĩnh Tường) có diện tích mặt thoáng khoảng 205 ha, về

mùa lũ có khi lên tới 500 ha, có tác dụng tưới tiêu cho khu vực xung quanh và nuôi

trồng thủy sản.

Đất trong vùng chủ yếu là đất phù sa trung tính ít chua, trong đó có phù sa

trung tính ít chua điển hình, phù sa trung tính ít chua glay nông và sâu, phù sa trung

tính ít chua loang lổ nông và sâu, phù sa trung tính ít chua có kết von. Phù sa chua

là dải nằm ở phía sau dải đất phù sa trung tính ít chua tính từ sông vào. Phía Đông

của vùng là dải đất loang lổ chiếm diện tích khá lớn, có xen lẫn đất xám.

Thảm thực vật rừng trồng ít, do đây là vùng đồng bằng phù sa nên chủ yếu

trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày, cây lương thực. Ngoài ra, còn trồng các

loại cây dược thảo, các loại hoa. Khu vực trong đê thường trồng lúa 1 vụ, 2 vụ; khu

vực ngoài đê thường là đất được sử dụng chuyên trồng màu.

Như vậy, sự phân hóa về địa bàn của Vĩnh Phúc khá phức tạp. Dựa vào đặc

điểm điều kiện tự nhiên, sự phân hóa về địa hình, cấu trúc của lớp địa chất, thổ

nhưỡng, điều kiện khí hậu thủy văn, Vĩnh Phúc được chia thành 3 vùng địa lí tự

nhiên, mỗi vùng có những đặc trưng riêng: vùng núi Tam Đảo, Lập Thạch, Sông Lô

có khí hậu mát mẻ, có tiềm năng du lịch lớn; đồng thời phát triển các loại hình kinh

tế hộ, kinh tế trang trại. Vùng trung du Bình Xuyên, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tam

Dương phát triển mạnh cả về công nghiệp lẫn nông nghiệp; vùng đồng bằng Vĩnh

Tường, Yên Lạc, Nam Bình Xuyên đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp tập

trung, nông nghiệp hàng hóa. Đây là vùng có lợi thế phát triển nông nghiệp, các

làng nghề và tiểu thủ công nghiệp.

I.1.1.3. Địa chất

Về đất, có thể nói tiềm năng to lớn nhất của Vĩnh Phúc là đất. Đất ở đây có

nhiều loại. Không kể vùng núi cao Tam Đảo, Vĩnh Phúc chủ yếu là bán sơn địa,

vùng trung du, vùng đồi đất thấp và đồng bằng.

Vùng đồi gò trung du Vĩnh Phúc kéo dài từ Lập Thạch qua Vĩnh Yên đến

Mê Linh là vùng đất mở rộng từ chân núi Tam Đảo ra tới gần quốc lộ 2. Đây là

vùng phù sa cổ được nâng lên, có tầng dày đất sét pha cát có lẫn một ít sỏi và cuội

rất thích hợp để trồng cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày và cây lương thực phụ.

Vùng đồng bằng châu thổ kéo dài từ vùng đồi gò ra tận thung lũng sông

Hồng, sông Lô. Đây là vùng đất phù sa mới, được bồi tụ trong thời toàn tân, chứa

nhiều khoáng chất và vi lượng nên rất phì nhiêu, mầu mỡ, sẵn nước cộng với khí

hậu ôn hoà, rất thuận lợi cho việc thâm canh phát triển nền công nghiệp trồng lúa

nước. Nhờ vậy, mà đất ở Vĩnh Phúc, kể cả vùng gò đồi lẫn đồng bằng châu thổ đã

sớm được khai phá trồng trọt từ thời dựng nước đầu tiên của dân tộc.

I.1.1.4. Thực vật và động vật

Thảm thực vật ở đây thể hiện rõ trong nền cảnh chung của rừng nhiệt đới gió

mùa. Vào cuối thời cảnh tân và thời toàn tân, trên đất Vĩnh Phúc rừng rậm không

chỉ phủ kín dãy Tam Đảo với nhiều loại gỗ quý hiếm, mà vùng đồi gò nhấp nhô,

thậm chí cả vùng đồng bằng bao suốt từ Lập Thạch, Tam Dương đến Bình Xuyên,

Mê Linh cũng là những cánh rừng bạt ngàn.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!