Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đệ nhất phu nhân - Tập I
PREMIUM
Số trang
330
Kích thước
2.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1922

Đệ nhất phu nhân - Tập I

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

nguyễn xuân thiệp

TRẺ MAGAZINE

xuất bản 2012

tạp bút

Trẻ & Tác giả giữ bản quyền - All rights reserved

TẢN MẠN BÊN TÁCH CÀ PHÊ

tạp bút Nguyễn Xuân Thiệp

Minh họa Bảo Huân

Đỗ Thọ trình bày bìa

Trẻ Magazine xuất bản

2012

taûn maïn beân taùch caø pheâ 5

Lời thưa

Thưa bạn đọc thân mến,

Những bài viết trong sách này phần lớn đã được đăng trên

Phố Văn, báo Trẻ và rải rác trên các trang web. Nay tác giả

gom lại như những miểng vụn của hồi ức, đem in thành sách

gởi đến các bạn để đọc những lúc nhàn hứng một mình, và

rồi biết đâu cũng tìm được đôi điều thích thú, có thể là một

nụ cười, đôi khi là một giọt lệ.

Mặt khác, cũng cần nói thêm là những bài trong sách không

nhất thiết theo trình tự thời gian, và bạn có thể đọc bài nào

trước cũng được, tùy theo không gian, tiết trời và hoàn cảnh,

tâm cảnh của bạn lúc bấy giờ. Có bài đọc lúc nắng sáng, có

bài đọc lúc mưa đêm hay trong cảnh tuyết rơi, thunderstorm

kéo qua bầu trời. Hoặc giả, đọc lúc ngồi trên xe buýt, máy

bay, ở phòng trọ, khách sạn…

Lại nữa, đề tài của những bài viết thay đổi tùy theo ngẫu

hứng của tác giả. Một tiểu muội của người viết có lần phán:

Anh viết toàn chuyện trên trời dưới đất, đọc có khi phát

6 taûn maïn beân taùch caø pheâ

buồn cười. Mà quả có thế. Có những chuyện trọng đại như

nội chiến Hoa Kỳ, chiến tranh Việt Nam, mái nhà thế giới,

cách mạng văn hóa bên Trung Hoa, cách mạng nhung ở Tiệp

Khắc … Cũng có những chuyện về những sinh vật hèn mọn

như con ve, con dế, bầy chim én, con hải âu… hay những

vật tưởng như tầm thường -cánh diều, cái chong chóng, hòn

đá, chiếc lá vàng, ngọn rau con cá trong vàm, cái nhẫn cỏ…

Lại có những bài viết về các món ăn hấp dẫn: thịt chó và

phở, rau càng cua, bát canh hoa lý, món giả cầy ăn trong một

chiều trở lạnh, măng hầm chân giò và miến xào lươn, món

crawfish ăn ở tiệm Golden Corral cùng với cô ca sĩ một đêm

mưa lái xe lạc đường. Ngoài ra còn nhiều thứ khác nữa…

Tản Mạn Bên Tách Cà Phê in thành hai cuốn: Cuốn I & cuốn

II. Cuốn II sẽ phát hành trong đầu năm tới. Một điều hết sức

đáng tiếc là bài không có những bức hình chụp cảnh thực,

người thực đi kèm theo như trên báo và các website. Thôi

đành vậy. Mà cũng không dám hẹn tới kiếp nào.

Bây giờ mời người bạn thân mến của tôi đọc chơi một hai bài

xem sao, rồi đọc tiếp nếu thấy thích. Và nếu có thể, cho tác

giả biết ý kiến thì quý giá vô cùng.

Trân trọng.

taûn maïn beân taùch caø pheâ 7

8 taûn maïn beân taùch caø pheâ

Chiều tím một bông trăng

… Có một thời, sau khi đất nước đổi chủ, kẻ sĩ lang thang

trên đường phố với xe đạp và túi xách. Chỉ thiếu cái gậy đả

cẩu. Nào Trần Lê Nguyễn, Phạm Kiều Tùng, Thế Viên, Trụ

Vũ, Thế Phong... Và còn nhiều nữa –trong đó có cả Thanh

Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng…, những tác giả đã góp phần

làm nên diện mạo văn học một thời. Lại có kẻ -như Nguyễn

Đình Toàn- lui về căn nhà cũ, ở Làng Báo Chí, “Này em có

nhớ căn nhà xưa bên khu vườn cải / Nơi mỗi sớm nằm nghe

nắng dòn trên mái…” Và ai, ai đã nghĩ tới Nguyễn Du lúc

ẩn thân ở Ngàn Hống mà xót cho phận mình. Nguyễn Du về

Ngàn Hống / ngắm mảnh trăng non Đoài / tôi chiều hái rau

sam ngoài bờ ruộng / chiều tím một bông trăng... Thật ra

kẻ này không dám tự nhận mình là kẻ sĩ nhưng cũng ngày

ngày cưỡi xe đạp đi bán chữ. Từ những dặm đường gió bụi

này hình thành một phác thảo lấy tên Vầng Trăng Và Chiếc

Xe Đạp Của Tôi. Ôi, phác thảo cho tới ngày hôm nay vẫn

còn nằm trong hộp sọ, chưa bao giờ thành chương khúc hẳn

hoi. Trí tưởng mê hoảng của tôi lúc đó hình dung mình như

Dante trong Thần Khúc nhờ thi sĩ Virgil dẫn đường lần tới

inferno. Thế đây, xã hội trước mắt lúc bấy giờ chẳng phải

là một thứ lò luyện ngục -inferno đó sao. Không có ai dẫn

đường, tôi nhờ vầng trăng chỉ lối. Và cứ như thế, đi qua đi

qua những dặm trường, và tới phố Ôn Như Hầu: Hồn trà mi /

phố khuya / tôi đi từ cổ độ / về qua lối phù dung / thấy mảnh

trăng vô thường cháy / trên nóc mái đường thi...

Ôi, chiều ở đâu, chiều tím một bông trăng.

taûn maïn beân taùch caø pheâ 9

Hôm nay có phải là thu

Hôm nay có phải là thu... Có vẻ như đây là một câu hỏi,

khá là bâng quơ, không biết hỏi mình hay hỏi ai. Và khi

vừa cất tiếng lên là thấy ngay bầu trời chập chùng của

mùa thu và nghe vang lên trong đầu những câu thơ của

Đinh Hùng ngày nào. Đồng thời cũng nhớ lại những ca

khúc đã làm nên tâm cảm của mình một thời tuổi trẻ.

Vậy hôm nay nhân buổi nhàn hứng, gặp lúc hè vãn thu

về, Nguyễn tôi xin được cùng bạn đọc bàn phiếm đôi

dòng về những hương sắc không bao giờ nhạt phai trong

tim người.

Hôm nay có phải là thu… Câu thơ của Đinh Hùng quả thật

đơn giản như một lời nói, ấy vậy mà gợi lên trong lòng biết

bao cảm xúc. Vâng. Hôm nay có phải là thu / Mây năm xưa

đã phiêu du trở về... Mình đọc và thuộc bài thơ từ thuở còn

Tung học ở Huế, nghĩa là lúc mộng chưa phai tàn, đời chưa

vấp ngã đòi phen và vòng kim cô Cộng Sản chưa thít chặt

10 taûn maïn beân taùch caø pheâ

lên đầu dân tộc. Bài thơ mùa thu thật đẹp ấy đã ở lại trong

đầu qua suốt năm chục năm, bất chấp những đợt sóng bể

dâu, không thèm biết đến những hệ lụy nhân sinh và áo cơm

hành hạ.

Hôm nay, bầu trời Dallas nhiều mây xám, và hình như có

mưa thưa, tiếng sấm chuyển bụng ì ầm đâu ở cuối chân trời.

Trí óc lại trở về với những câu thơ mùa thu của Đinh Hùng

bèn ngồi chép ra giấy gởi qua làn sóng hư không về nơi

phương trời viễn mộng để ai đó đồng cảm đồng tình thì đưa

tay đón nhận. Em đi hoài cảm một mình / Hai lòng riêng để

mối tình cô đơn / Hôm nay tưởng mắt em buồn / Đã trông

thấp thoáng ngọn cồn bóng sương / Lạnh lùng trăng gió tha

hương / Em về bên ấy ai thương em cùng... Vâng. Cảm ơn thi

sĩ Đinh Hùng. Cảm ơn mùa thu.

Nói về những bài thơ mùa thu thì nhiều lắm. Hàng ngàn

bài, khởi đi từ Thu Hứng của Đỗ Phủ rồi đến Cảm Thu Tiễn

Thu của Tản Đà. Ngoài ra, kẻ nào đã có cắp sách đi học lại

không thuộc lòng Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư (thật ra, bài

này chẳng để lại dấu tích gì bao nhiêu trong đầu óc kẻ này).

Rồi nào là Chanson d’Automne Thu Ca của Paul Verlaine,

Automne Malade Mùa Thu Ốm của Guillaume Apollinaire…

Âm nhạc cũng vậy, ít ra cũng có tới hàng trăm bài nhạc viết

về mùa thu. Phải nói hầu hết đều hay. Ai không yêu Giọt

Mưa Thu, Buồn Tàn Thu, Thu Quyến Rũ, Em Ra Đi Mùa

Thu, Mùa Thu Chết, Les Feuilles Mortes The Falling Leaves

của Joseph Kosma?... Thế nhưng, riêng đối với kẻ này đặc

biệt có hai bài thân thiết nhất và dấu yêu nhất mỗi khi lòng

bâng khuâng tự hỏi “hôm nay có phải là thu”. Đó là Thu

Vàng của Cung Tiến và Nhìn Những Mùa Thu Đi của Trịnh

Công Sơn. Em sẽ hỏi, hơi cao giọng và ray rứt: Tại sao?

Tại sao? Thì đây là câu trả lời: Chẳng tại trăng tại sao gì

cả. Hay chỉ tại vì hai bài vừa nói có dính chút xíu tới những

năm tháng màu xanh của kẻ này. Thu Vàng với năm đầu

taûn maïn beân taùch caø pheâ 11

tiên làm sinh viên trường Luật -có cả Hồ Đăng Tín và Cung

Tiến chung lớp, chung bàn. A, những chiều xưa, gõ bước đi

dưới hàng cây sao đường Duy Tân, lòng chưa yêu ai và chưa

vướng bận những tính toán dung tục của cuộc đời. Nhạc của

Cung Tiến đã tạo nên không gian trong sáng ấy. Có nhớ bâng

khuâng, có chút chán chường nhưng chưa hề biết tới u sầu,

tuyệt vọng. Chiều hôm qua lang thang trên đường / Hoàng

hôn xuống chiều thắm muôn hương / Chiều hôm nay trời

nhiều mây vương / Có mùa thu vàng... Vâng. Mùa thu vàng

tới là mùa lá vàng rơi... Cung Tiến viết “Thu Vàng” là để

tặng Hà Nội thời thơ ấu của ông. Với kẻ này, Thu Vàng cũng

là một loại les premières fleurs... những bông hoa đầu tiên

trong cuộc đời.

Và Nhìn Những Mùa Thu Đi. Theo tài liệu của Đặng Tiến

và Hoàng Nguyên Nhuận (tức Hoàng Văn Giàu, khét tiếng

đấu tranh thời thập niên 60, ở Huế) thì Trịnh Công Sơn sáng

tác bài này vào năm 1967. Hoàng Nguyên Nhuận còn chú

thích thêm một câu xanh rờn: “Năm 1967, giữa lúc chúng tôi

(tức anh ta và đám phản chiến đi theo MTGPMN) còn lận

đận trong tù vì chiến dịch Nước Lũ, thì Trịnh Công Sơn vẫn

còn mơ màng nhìn những mùa thu đi”. Thế đấy. Nhưng thôi

mặc xác chiến dịch Nước Lũ con quỷ sứ gì đó của anh chàng

Hoàng Nguyên Nhuận, chúng ta nhìn bài ca dưới một ánh

sáng khác. Nhìn những mùa thu đi / Anh nghe sầu lên trong

nắng... Năm 1967, triết học hiện sinh và phong trào hippie

cùng lối sống bụi đã quét qua đời sống thanh niên ở các đô

thị miền Nam. Thế nhưng, ca từ trong “Nhìn Những Mùa

Thu Đi” vẫn chứa đầy tình và mộng. Cùng với sầu lên trong

nắng, còn có tháng ngày chết trong thu tàn, có lãng quên

và mộng nhạt phai... Có điều cần ghi nhận là ở đây, nỗi sầu

chưa đậm nét, chưa tới độ chin muồi đau đớn của “đóa hoa

vàng mỏng manh cuối trời / như một lời chia tay”... Không

gian trong bài ca có nắng trên hàng cây công viên, có gió

12 taûn maïn beân taùch caø pheâ

heo may se lạnh và đặc biệt, có màu tím loang trên hè phố,

mang nỗi buồn lãng du bụi bặm của thời đại. Từ màu vàng

của mùa thu Hà Nội bầu trời Cung Tiến, chuyển qua màu

tím buổi chiều xác xơ buồn của Huế, ta thấy dường như tâm

hồn vừa bước qua một ngưỡng nào đó, trước khi đi dần vào

thế giới của cơn ác mộng chiến tranh, mang khuôn mặt dữ

dằn, khốc liệt.

Dẫu thế nào đi nữa, với Nguyễn tôi, thì Hôm Nay Có Phải

Là Thu, và Thu Vàng, cùng với Nhìn Những Mùa Thu Đi, là

cả một thời đầy xúc cảm trong sáng và mơ mộng không bao

giờ mất dấu tích.

taûn maïn beân taùch caø pheâ 13

Giàn thiên lý đã xa

Những ngày này nắng rực rỡ trên phố xá, công viên.

Trong khu chung cư Nguyễn ở đêm đã thấy mảnh

trăng non mọc sớm. Không hiểu sao nhìn trăng

Nguyễn thường nghĩ đến mẹ mình. Và nghĩ đến mẹ,

nhất là trong những ngày hè, là nhớ tới giàn hoa thiên

lý lấp lánh nắng trong khu vườn ở Vỹ Dạ ngày xưa.

Dạo ấy, cái thuở Nguyễn còn nhỏ như con cún, trong sân nhà

có trồng một giàn hoa thiên lý. Cái giàn hoa ấy tỏa bóng mát

khi nắng hè rực lên ngoài bãi sông và những nụ nhỏ bắt đầu

hé nở. Nguyễn và cô bé nhà bên gọi chúng là những ngôi sao

xanh. Những chiều hè, mẹ thường bảo chị Thoa hái bông thiên

lý vào nấu canh. Canh hoa thiên lý nấu với tôm tép ngọt ơi là

ngọt, lại thoang thoảng mùi ánh trăng (ấy là sau này Nguyễn

tưởng tượng ra thêm khi nhớ tới con bé mắt nâu ngày xưa).

Nhưng như mọi thứ tốt đẹp ở đời… Giàn thiên lý đã

xa / đã rời xa… Những buổi chiều hè ấy không còn nữa.

Lớn lên, cô bé hàng xóm theo cha mẹ lên lập vườn cà phê

14 taûn maïn beân taùch caø pheâ

trên Ban Mê Thuột. Không còn hoa lý rụng trong chiều hè

nữa. Thỉnh thoảng viết về cho Nguyễn mấy chữ cô hàng

xóm ngày nào cho biết hoa cà phê thơm nhưng không

ở lâu như hoa thiên lý và không có “mùi của ánh trăng”.

Giàn thiên lý năm xưa giờ đã xa khuất cuối chân mây. Chiều

nay nhớ đến mẹ và chị Thoa và cô bé nhà bên cùng những chùm

hoa thiên lý trong bát canh ngày xưa, Nguyễn lên lưới gõ vào

Google mấy chữ “hoa thiên lý” và đọc được những đoạn văn

sau đây, bèn chép lại gởi tới những ai yêu hoa thiên lý như

Nguyễn, gọi là chút tình cố hương mong manh như ánh trăng.

“Hoa thiên lý thường nở vào mùa hè còn có tên gọi

là hoa dạ lài hương. Là loại dây leo, lá hình tim, hoa

mọc thành chùm, lúc nở có màu vàng xanh và thoang

thoảng hương về đêm. Ở quê tôi đa số các nhà thường

trồng dàn hoa thiên lý trước hiên nhà để che nắng, đồng

thời làm nguồn thực phẩm để chế biến các món ăn.

Hoa thiên lý có thể chế biến thành nhiều món như lẩu mắm

hoa lý, hoa lý nấu canh chua, hoa lý xào tôm, hoa lý luộc nhưng

phổ biến nhất vẫn là hoa lý nấu canh và hoa lý xào thịt bò.

Canh thiên lý dễ nấu, không cầu kỳ có thể nấu suông hoặc

nấu với tôm, thịt... Dù nấu với thịt, cá hay tôm, thứ nào cũng

ngon nhờ vị ngọt tự nhiên và cái chất bùi bùi, ngòn ngọt của

hoa lý, nhai vào cảm thấy giòn giòn mới thật thú vị. Nhưng

có lẽ canh hoa thiên lý nấu với cua đồng là đúng điệu nhất.

Cua đồng bóc mai, bỏ yếm, rửa sạch, cho vào một thìa

muối, xay nhuyễn. Lọc xác cua với nước sạch qua rây từ

3 đến 4 lần, gạn bỏ cấn để làm nước dùng. Đun nước dùng

cua đến khi nước sôi lăn tăn, dùng muỗng khuấy đều theo

một chiều để xác cua đông kết tạo thành gạch cua và gạch

không bị bám vào đáy nồi và không bị vỡ nát. Nước sôi,

cho hoa thiên lý vào nấu chung, đảo nhẹ tay để hoa không

bị nát cánh. Khi nước sôi lại là được múc ra bát, ăn nóng.

taûn maïn beân taùch caø pheâ 15

Bưng bát canh thiên lý nấu với cua đồng nóng hổi trên tay,

nhìn những những cánh hoa xanh nõn đã thấy người sảng

khoái, muốn ăn ngay để cảm nhận vị ngon ngọt, đậm đà.

Đoạn văn trên là của Hoàng Oanh. Sau đây là một đoạn văn

khác: “Mùa gió chướng về đem theo cái nóng như nung làm

người ta bức bối. Chợt một sáng nào, thấy trong giàn thiên lý

mát dịu những chum hoa xinh xinh xanh nõn. Và ngoài chợ

cũng đã có những mâm hoa vun đầy mời mọc, sẵn sàng dâng

hiến cho ta những món ăn bình dị mà ngọt ngào. Nhưng không

phải ai cũng biết ngoài cái mùi hương thoang thoảng trong

giàn lá mướt xanh, hoa thiên lý còn được dùng chế biến thành

những món ăn hấp dẫn, vừa ngon mắt lại vừa ngon miệng.

“Trước hết phải kể đến những món ăn được nhiều người ưa

thích là canh hoa thiên lý nấu giò sống. Tô canh nóng thoảng

nhẹ mùi hoa, những cánh hoa xanh rập rờn trong làn khói mỏng,

điểm quanh đây đó là những lát giò nâu hồng gợi cảm. Chỉ

có thế mà cái nóng nung người của trưa hè đã như lùi xa… “

Giờ đây… Giàn thiên lý đã xa, đã rời xa … Ở xứ người

không thiếu gì kỳ hoa dị thảo, nhưng với Nguyễn hoa

thiên lý vẫn là thân thiết nhất. Đôi lúc mình lẩn thẩn tự

hỏi ở Vương Phủ bây giờ có còn ai trồng hoa thiên lý?

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!