Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

đề cương môn mĩ học đại cương
MIỄN PHÍ
Số trang
71
Kích thước
429.6 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1715

đề cương môn mĩ học đại cương

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG

BÀI 1 Nhập môn mỹ học1.1 Mĩ học trước Mác1.2 Mĩ học Mác–Lê nin

Cấu trúc của mĩ học

Mối quan hệ của mĩ học với các bộ môn khác

Cấu trúc của “Đời sống thẩm mĩ“

BÀI 2 Cái đẹp

2.1 Khái niệm 2.2 Phân loại cái đẹp theo ba phạm vi 2.3 Những quan niệm

trước Mác về cái đẹp 2.4 Chủ nghĩa Mác Lê nin hoàn thành quan niệm về cái

đẹp

BÀI 3 Cái bi kịch

3.1. Khái niệm 3.2. Phân loại 3.3. Nghệ thuật bi kịch

BÀI 4 Cái trác tuyệt

4.1 Các hình thái biểu hiện của cái trác tuyệt 4.2. Tình cảm thẩm mĩ của cái

trác tuyệt

4.3.Cái trác tuyệt trong nghệ thuật 4.4. Ba xu hướng nghiên cứu cái trác tuyệt.

BÀI 5 Cái hài kịch

5.1 Khái niệm. 5.2 Ý nghĩa của hài kịch 5.3. Tính dân tộc của hài kịch

5.4. Cái hài trong nghệ thuật

BÀI 6 Chủ thể thẩm mĩ

6.1 Con người là chủ thể nghệ thuật

6.2 Thị hiếu thẩm mĩ và thị hiếu nghệ thuật

6.3. Lí tưởng thẩm mĩ và lí tưởng nghệ thuật

6.4. Phân loại chủ thể thẩm mĩ, chủ thể nghệ thuật

BÀI 7 Đại cương về nghệ thuật

7.1. Cấu trúc của đời sống nghệ thuật

7.2. Sự thể hiện lí tưởng thẩm mĩ trong nghệ thuật và Hành trình của nhân vật

lí tưởng trong nghệ thuật.

7. 7.3. Nghệ sĩ

7 7.4 Quan hệ giữa nghệ sĩ và các chủ thể nghệ thuật khác .

7. 7.5 Đặc trưng của kiến trúc và những loại hình nghệ thuật cơ bản

(Điêu khắc, hội họa, âm nhạc, múa, sân khấu, văn học và điện ảnh)

1. 7.6 Chức năng của nghệ thuật.

BÀI 8 Giáo dục thẩm mỹ

8.1. Hai căn bệnh trong đời sống thẩm mĩ

8.2. Nội dung và phương hướng giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường trung học

Giáo dục ý thức thẩm mĩ. Giáo dục về cái đẹp

Ôn tập – Bài tập

BÀI 1 NHẬP MÔN MĨ HỌC

1.1. Mỹ học trước Mác

Aristote thế kỉ 7 thời cổ Hi Lạp trước công nguyên, trong cuốn Poetika (Thi

pháp), ông yêu cầu triết học nghiên cứu qui luật sáng tạo nghệ thuật. Lúc ấy, mĩ

học còn phôi thai, chưa tồn tại độc lập.

Baumgacten (Đức) 1735: giáo sư yêu cầu mĩ học nhận nhiệm vụ nghiên cứu

con đường nhận thức thế giới bằng cảm xúc. Ông viết hai cuốn Mĩ học tập I năm

1750, Mĩ học tập II năm 1758. Từ đây mĩ học ra đời, chính thức trở thành khoa học

độc lập.

Immanuel Kant (Đức) cuối thế kỉ 18

Xác định đối tượng của mĩ học là “thị hiếu thẩm mĩ” là cái chủ quan, ông

bác bỏ sự nghiên cứu đối tượng khách quan (cái đẹp không phải ở trên đôi má

hồng thiếu nữ mà ở trong con mắt kẻ si tình)

Hegel (Đức) đầu thế kỉ 19

Mĩ học chỉ nghiên cứu cái đẹp nghệ thuật do Chúa trời ban phát cho nghệ sĩ, “nghệ

thuật là vương quốc bao la của cái đẹp”. Cái đẹp chủ yếu tập trung ở nghệ thuật,

còn những cái đẹp khác trong đời sống thì đơn giản, thiếu hụt và nhàm chán.

Tsernysevski (Nga thế kỉ 19) trái ngược với Hegel, khẳng định “Cái đẹp là cuộc

sống”.

Dostoievski (Nga thế kỉ 19) “Cái đẹp sẽ cứu cả thế giới“, “cái đẹp là lí tưởng đấu

tranh của nhân dân”.

Bielinski (Nga thế kỉ 19) mở rộng đối tượng mĩ học đến “lí tưởng thẩm mĩ”.

Gogol (Nga thế kỉ 19) nghiên cứu thi ca Puskin và từ đó đến với mĩ học. Ông

viết “con người có thể suy tư lặng đi trước mọi thứ nhỏ bé và vĩ đại, đó là lúc phát

sinh tia lửa điện thi ca-cái đẹp. Nó vốn có trong toàn bộ thế giới (mọi công trình

của thượng đế), kể cả và trước hết là trong Con Người”

1.2 Mỹ học Mác Lê nin

Mối quan hệ của mĩ học với các khoa học khác

Quan hệ với triết học

Triết học là cái nôi sinh ra Mĩ học

• Bản thể luận

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng,

Giác quan con người là công cụ của đời sống thẩm mĩ.

cái thẩm mĩ có sẵn trong bản chất thế giới.

cái đẹp mang tính thứ nhất triết học.

• Nhận thức luận

Theo Lê nin, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,

vậy thì chúng ta có thể dựa vào nghệ thuật để nhận thức thế giới khách quan.

Mặt khác, con người còn sáng tạo những cái thẩm mĩ chưa có trong thực

tiễn.

• Chủ nghĩa duy vật lịch sử (nghiên cứu về vai trò của cá nhân và quần chúng

trong sự phát triển của lịch sử) là công cụ đắc lực khi nghiên cứu mĩ học.

Quan hệ với tâm lí học

Mĩ học và tâm lí học cùng nghiên cứu một đối tượng là con người.

Con người có hai hoạt động là sinh lí và tâm lý. Mĩ học chú ý hoạt động tâm lí,

“cái đẹp tâm lí học” và “tâm lí học thẩm mĩ”.

Quan hệ với nghệ thuật học

Nghệ thuật học bao gồm nhiều chuyên ngành

¨ Lịch sử nghệ thuật (Lịch sử văn học VN, LS sân khấu…v.v…)

¨ Lí luận nghệ thuật (Lí luận văn học, Lí luận âm nhạc v.v…)

¨ Văn bản học (Văn bản Việt, văn bản Hán cổ, văn bản Nôm.v.v. . .)

¨ Tâm lí học sáng tạo nghệ thuật

¨ Tâm lí học tiếp nhận nghệ thuật

¨ Phê bình nghệ thuật (văn chương, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh.v.v…)

Quan hệ giữa mĩ học và nghệ thuật học là quan hệ hai chiều nhưng mĩ học chi phối

quyết định hơn.

Cấu trúc của đời sống thẩm mĩ

Nếu “bổ dọc” đời sống con người ta thấy 2 nửa: nửa vật chất và nửa tinh

thần

Nếu “cắt ngang”, ta thấy “lát cắt” chính là đời sống thẩm mĩ.

Đời sống thẩm mĩ thấm sâu hòa lẫn vào cả đời sống vật chất lẫn tinh thần.

Đời sống thẩm mĩ là một bộ ba

Khách thể thẩm mĩ

Chủ thể thẩm mĩ

Nghệ thuật

KHÁCH THỂ THẨM MĨ gồm Bốn phạm trù thẩm mĩ cơ

bản:

Cái đẹp – Cái trác tuyệt - Cái bi kịch - Cái hài kịch

CHỦ THỂ THẨM MĨ gồm 6 tố chất thẩm mỹ:

Cảm xúc thẩm mĩ

Biểu tượng thẩm mĩ

Hình tượng thẩm mĩ

Tình cảm thẩm mĩ

Thị hiếu thẩm mĩ

Lí tưởng thẩm mĩ

k

BÀI 2 CÁI ĐẸP

美, měi: Mỹ

美丽: měilì: mỹ lệ, 美好: měi hǎo: mỹ hảo

The Beauty, the Beautiful

2.1 Khái niệm

Thế giới của chúng ta là vương quốc bao la của cái đẹp.

Phong cảnh 风景 (fēng jǐng) là cảnh sắc đẹp tự nhiên, hài hòa với nhau.

Phong cảnh muôn màu sắc, muôn dáng điệu, muôn hương thơm.

“Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp, mây gió trăng hoa tuyết núi sông”

(Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ/ sơn thuỷ yên hoa tuyết nguyệt phong)

- Hồ Chí Minh “Khán Thiên gia thi hữu cảm”)

Phong cảnh là do thiên nhiên tạo ra, con người chỉ có thể tham gia vào cảnh một

cách hạn chế góp phần bổ sung thêm nét đẹp.

Con người đẹp muôn hình muôn vẻ

(SV trao đổi định nghĩa phân biệt từng vẻ đẹp)

Xinh đẹp: nhìn chung đẹp

xinh xắn đẹp nhỏ nhắn, trẻ trung

Kiều diễm: 娇艳 jiāo yàn: [kiều: mềm mại, xinh xắn, xanh tươi mơn mởn, nũng

nịu, hơi điệu. Diễm: đẹp tươi]

Diễm lệ (Yàn lì) 艳丽 đẹp tươi rực rỡ.

Ỷ nị (Yǐ nǐ ) gần như kiều diễm 旖旎

Mĩ lệ (měi lì): đẹp tươi 美丽

Duyên dáng : đẹp về dáng vóc, cử chỉ

Tươi thắm: làn da trắng hồng, đôi môi tươi hồng, đôi mắt sáng

Dễ thương /khả ái:可 爱

Ưa nhìn: nhìn chung đẹp tuy không có nét nào nổi bật.

Mảnh mai: đẹp và vóc người nhỏ

Thanh nhã 清 雅 (thanh: trong sáng, giản dị. Nhã: dịu dàng, mẫu mực qui tắc…)

Phương phi 丰满 fēng mǎn/ phong mãn,丰腴 fēng yú/ phong du

Khôi ngô 魁梧 kuí wú, khôi vĩ 魁伟 kuí wěi .

Dĩnh ngộ: vẻ đẹp hơi lạ

Tuấn tú 俊秀 jùnxiù: nam, tài giỏi, vóc trung bình, lanh lợi, đẹp trai.

(Phái nữ có nhiều vẻ đẹp tự nhiên phong phú hơn nên được gọi là “phái đẹp”,

nghệ thuật hội họa thường chọn người mẫu nữ để miêu tả cả thế giới)

v.v…

Chưa kể lối nói dân gian ngày nay “Cô ấy đẹp thảm thiết, …đẹp thảm khốc… cô

ấy đẹp đến nao lòng…,đẹp như tranh”. Vẻ đẹp con người vô cùng phong phú đa

dạng.

Hàng hóa đẹp và tác phẩm nghệ thuật

Mọi hàng hóa, dụng cụ cũng thể hiện một vẻ đẹp nào đấy. Những đồ thủ công mĩ

nghệ. Các tác phẩm nghệ thuật .

Karl Marx nhận xét “Con người sản xuất theo qui luật của cái đẹp”

Cảm xúc thẩm mĩ của cái đẹp

Đứng trước cái đẹp, con người cảm thấy dễ chịu, khoan khoái, pha chút

bàng hoàng ngạc nhiên và cảm thấy yêu đời hơn.

2.2 Cái đẹp trong ba phạm vi tồn tại

Cái đẹp trong Tự nhiên Cái đẹp trong Xã hội Cái đẹp trong Nghệ thuật

Phong cảnh thiên nhiên:cây lá

hoa bầu trời trăng sao,sông

biển, loài vật, chim hót… với

tiêu chuẩn sau :

* Hình dáng cân đối, cân xứng, trật tự, màu sắc, hương vị, hài hòa… trong muôn

hình muôn vẻ

* Tất cả thế giới sinh vật đều đẹp, do trải qua hàng triệu năm đã đào thải những gì

không đẹp.

* Sức sống là cái đẹp cơ bản nhất của sinh vật.

Con người là sinh vật hoàn hảo nhất trong giới sinh vật.

Thiên nhiên gồm vật hữu cơ và vật vô cơ . Vật hữu cơ là cái đẹp cơ bản của thiên

nhiên .

Bao dung

Lao động, kĩ xảo

Tình yêu, tình bạn . ..

Tình xóm giềng

Tình đồng bào

Tình nhân loại

Tha thứ, ân hận

Đoàn kết

dân chủ, tự do

công bằng

Trí tuệ

Làm ra sản phẩm tiêu dùng đẹp.

Giải trí lành mạnh

Trang trí, trang điểm

(thẩm mĩ viện . . .)

và cao nhất là tác phẩm nghệ thuật

*Tái tạo những vẻ đẹp của tự nhiên và xã hội, lấy con người làm trung tâm. Tác

động vào hai giác quan chính là Nghe và Nhìn (âm thanh và hình ảnh đẹp..)

Chọn lựa, tập trung những hình ảnh đẹp, gạt bỏ những cái bình thường, bố trí lại,

soi tỏ cái đẹp.

* Sáng tạo những vẻ đẹp mới chưa có trong hiện thực, nhân vật lãng mạn, cảnh vật

huyền ảo, kỳ vĩ, . . . và những ước mơ khát vọng cao cả.

*Nhân vật chính là con người

Câu hỏi: Cái đẹp nhất tồn tại ở đâu trong 3 phạm vi Tự nhiên – Xã hội – Nghệ

thuật ?

Trong thần thoại Hi Lạp có câu chuyện họa sĩ Pigmalion tạc ra bức tượng cô

gái đẹp từ một cái ngà voi. Nữ thần Venus cho cô gái ngà voi sức sống, chàng đặt

tên khai sinh cho vợ là Galatea, sinh con trai đặt tên là Paphos (tiếng Hylạp) nghĩa

là “say mê”. Từ đó sinh ra pathetique (và sympathetic) trong tiếng Latin, Pháp,

Anh nghĩa là “cảm động, thống thiết”.

Quan điểm của Tsernysevski “Cái đẹp là cuộc sống”. Cuộc sống hiện thực cao

hơn nghệ thuật (đúng / sai ? SV thảo luận)

Thật ra, chính nhờ bức tượng ngà voi là tác phẩm nghệ thuật tạo hình mà

Pigmalion mới cảm nhận được vẻ đẹp của nàng Galatea bằng xương bằng thịt –

con người thật sự.

Cái đẹp trong Tự nhiên rất phong phú, trong Xã hội càng phong phú hơn và

cái đẹp trong Nghệ thuật là vô tận.

2.3 Những quan niệm về cái đẹp trước Mác

Các nhà triết học cổ đại đã giải thích cái đẹp như những ma thuật, như cái lan tỏa

chứa đầy bí ẩn.

Nhà triết học toán học Pythagore căn cứ vào các con số để giải thích sự cân

đối, hài hòa của thế giới. Cái đẹp sinh ra từ những sự chuyển động có nhịp điệu và

âm thanh. Vậy cái đẹp là sự vận động nhịp nhàng của các con số và sự hòa điệu

của chúng (tiến tới lí thuyết âm nhạc: cái đẹp của âm thanh gọi là giai điệu ).

Nhà triết học Heraclet: cái đẹp sinh ra từ sự hài hòa của mâu thuẫn. Ông nhấn

mạnh tính tương đối của cái đẹp. Dấu hiệu của cái đẹp là sự hòa hợp trong mâu

thuẫn và phù hợp với điều kiện sống.

Nhà triết học Democrit cho rằng: điều tốt nhất của con người là sống, sống

khoan khoái hơn, ít buồn phiền hơn. Không nên cố đạt tới bất kì sự khoái cảm tột

đỉnh nào mà chỉ nên đạt tới khoái cảm gắn liền với cái đẹp. Ai vi phạm độ thì cái

dễ chịu sẽ trở thành cái khó chịu. Ông cũng cho rằng khi con người muốn tái hiện

cuộc sống, tái sản xuất cuộc sống thì nghệ thuật xuất hiện.

Nhà triết học Platon thờ cổ Hi Lạp: Cái đẹp là ý niệm vĩnh cửu, siêu cảm giác

và siêu trần thế. Mọi vẻ đẹp là do Thượng đế nhập vào, con người chỉ nhận ra cái

đẹp mà “không thể giải thích được cái đẹp” (!)

Nhà triết học Kant thế kỉ 18 : Cái đẹp chỉ tồn tại trong chủ thể

Hegel thế kỉ 19 : Cái đẹp chỉ có ở nghệ thuật

Ý kiến của các nhà văn, nhà mĩ học Nga thế kỉ 19 tiến thêm một bước khi bổ sung

tính xã hội của cái đẹp (cái đẹp là đấu tranh cho tự do ).

Giáo sư Chu Quang Tiềm (Trung Quốc) nói ”Đẹp là những sự vật mà tính chất,

hình thái nào đó về phương diện khách quan lại thích hợp với hình thái ý thức chủ

quan có thể giao hoà làm một mà trở thành tính chất ấy của một hình tượng hoàn

chỉnh”.

2.4. Quan niệm về cái đẹp của chủ nghĩa Mác- Lê Nin

Cái đẹp làm cho con người khoan khoái dễ chịu, yêu đời.

Cái đẹp là nhu cầu tinh thần vô hạn của con người (còn nhu cầu vật chất thì có

hạn).

Cái đẹp là một hiện tượng vô cùng phức tạp và đa dạng. Nó là một lĩnh vực tinh

thần và tình cảm dù nó tồn tại dưới dạng vật chất hay tinh thần. Cái đẹp là một loại

giá trị giúp con người đánh giá thế giới và bản thân mình. Cái đẹp là nhu cầu cá

nhân đồng thời cũng mang tính định hướng của xã hội. Nó tồn tại trong ba phạm

vi tự nhiên, xã hội và nghệ thuật.

Cái đẹp khách quan, tự nó

Cái đẹp có những chuẩn mực như hình dạng cân đối, màu sắc, âm thanh, hương

vị.. trật tự, hợp lí. Về kích thước, cái đẹp có “tỉ lệ vàng”, “kích thước vàng” cho

từng loại đối tượng.

Thiên nhiên là nơi chứa đựng những cái đẹp khách quan tự nó sau khi trải qua

hàng triệu năm thích nghi, đào thải, chọn lọc và tích lũy. (xem phim khoa học “Thế

giới động vật” trên TV thấy giới sinh vật có rất nhiều vẻ đẹp kì lạ hiếm có).

Cái đẹp hài hòa, chỉnh thể trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật

Hài hòa, chỉnh thể là : những bộ phận đứng riêng lẻ chưa phải là đẹp nếu được sự

phối hợp có thể tạo ra một cái đẹp chung. Một bộ phận có thể thiếu sự cân xứng,

nhưng nó được đặt trong một tương quan nào đó nên vẫn tạo ra được cảm giác hài

hòa và đẹp .

Ví dụ: mái tóc lệch, chiếc răng khểnh bản thân nó chưa đẹp, nhưng nhìn hòa hợp

với khuôn mặt, dáng người sẽ đẹp. Đôi chân con cò khẳng khiu, quá dài so với

thân thể nhỏ bé, nhưng lại hòa hợp với cổ dài, mỏ dài, do đó nhìn toàn bộ con cò

rất đẹp.

Một bài thơ hay có thể bao gồm cả những câu bình thường, thậm chí không hay.

Một tác phẩm hay vẫn có thể chứa đựng một số phần chưa hay. Khi phân tích tác

phẩm, xinb đừng nhằm vào những câu dở mà cố ép khen cho hay, hoặc áp đặt cho

nó cái đẹp mà nó không có (ví dụ bài thơ Bên kia sông Đuống rất hay, song câu thơ

dở không ít, chẳng hạn ”nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” . Xưa

nay bao giờ dòng sông ấy cũng nằm nghiêng vậy thôi, đâu phải chỉ trong kháng

chiến nó mới nằm nghiêng ! Câu thơ “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”là câu

thơ dở ở trong một bài thơ hay (Tràng giang của Huy Cận). Bài Các vị La Hán

chùa Tây Phương cũng là bài thơ hay mặc dù có khổ thơ cuối cùng rất dở, phi thực

tế, vội vàng…

Cái đẹp mang tính chủ thể – khách thể

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!