Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đánh Giá Một Số Mô Hình Trồng Cây Lâm Sản Ngoài Gỗ Do Dự Án Danida Xây Dựng Tại Vườn Quốc Gia Xuân Sơn Tỉnh Phú Thọ
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------------
NGUYỄN VĂN TUẤN
ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG CÂY
LÂM SẢN NGOÀI GỖ DO DỰ ÁN DANIDA XÂY DỰNG
TẠI VƯỜN QUỐC GIA XUÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Hà Nội, 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------------
NGUYỄN VĂN TUẤN
ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG CÂY LÂM SẢN NGOÀI GỖ
DO DỰ ÁN DANIDA XÂY DỰNG TẠI VƯỜN QUỐC GIA XUÂN SƠN,
TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60.62.68
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VÕ ĐẠI HẢI
Hà Nội, 2011
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng mang lại nhiều giá trị, từ xưa tới nay, khi nhắc tới giá trị kinh tế của
rừng người ta thường nói “Giá trị của rừng bao gồm giá trị gỗ và lâm sản
ngoài gỗ”. Tuy đây là một cách hiểu chưa đầy đủ về những giá trị của rừng
nhưng có thể thấy con người đã rất coi trọng giá trị cung cấp LSNG của rừng.
Ở Việt Nam, LSNG đã được khai thác, sử dụng nhiều từ thời cổ đại và nhiều
loại LSNG được coi là những sản vật quý của đất nước như Linh chi, Nhân sâm,...
LNSG có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhiều cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng các
dân tộc miền núi. Giá trị LSNG của rừng được thể hiện như rừng cung cấp lương
thực (củ Mài, củ Gạo,…), thực phẩm (Nấm, măng, rau rừng,…), cung cấp thảo
dược chữa bệnh (Nhân sâm, Hà thủ ô, Linh chi,…), cung cấp nguyên vật liệu xây
dựng, làm đồ gia dụng, đan lát (các loại tre nứa, song mây),...
Nhận thức được vai trò và vị trí của các loài LSNG đối với phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước, Nhà nước đã có nhiều chính sách quan tâm hỗ trợ để bảo
tồn và phát triển các loài cây LSNG, trong đó Quyết định số 2366/QĐ-BNN-LN
ngày 17/8/2006 của Bộ NN&PTNT về việc phê duyệt đề án bảo tồn và phát
triển lâm sản ngoài gỗ giai đoạn 2006 - 2020 là một trong những chính sách
quan trọng thể hiện sự quan tâm của Nhà nước tới vấn đề này, theo đó đến năm
2020, lâm sản ngoài gỗ trở thành một phân ngành sản xuất trong lâm nghiệp, đạt
được một số chỉ tiêu: giá trị sản xuất lâm sản ngoài gỗ chiếm trên 20% trong giá
trị sản xuất lâm nghiệp; giá trị xuất khẩu tăng bình quân 10-15%, đến năm 2020
đạt 700-800 triệu USD/năm (bằng 30-40% giá trị xuất khẩu gỗ); thu hút 1,5 triệu
lao động nông thôn miền núi vào việc thu hái, sản xuất, kinh doanh lâm sản
ngoài gỗ; thu nhập từ lâm sản ngoài gỗ chiếm 15-20% trong kinh tế hộ gia đình
nông thôn miền núi.
Vùng lõi VQG Xuân Sơn nằm gọn trong địa giới hành chính của xã Xuân
Sơn và một phần của xã Kim Thượng, Xuân Đài, Đồng Sơn với 10 thôn bản,
2
522 hộ dân cùng 2.730 nhân khẩu. Số dân cư này chủ yếu là đồng bào dân tộc
thiểu số chủ yếu là người Dao và người Mường. Các dân tộc này đã sống ở đây
từ rất lâu đời và cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào rừng, phần lớn các hộ gia
đình đều ở mức đói nghèo (xã Xuân Sơn có tỷ lệ số hộ nghèo cao nhất trong
huyện Tân Sơn). Trong những năm qua, tình hình vi phạm trái phép của cộng
đồng vào tài nguyên rừng như tình trạng đốt nương làm rẫy, săn bắn động vật
hoang dã, khai thác gỗ trái phép thường xuyên xảy ra gây nguy hại rất lớn tới
công tác bảo tồn của VQG. Mặc dù cộng đồng cũng ý thức được việc làm của
mình là vi phạm pháp luật và làm tổn hại tới tài nguyên rừng nhưng vì cuộc sống
đói nghèo lại không có công việc gì có thể đảm bảo cuộc sống nên họ vẫn thực
hiện các hành vi vi phạm.
Nhận rõ được những thách thức đó, nhằm tạo ra một nguồn sinh kế
mới cho người dân các xã quanh VQG Xuân Sơn từ đó giảm áp lực vào
tài nguyên rừng và đảm bảo quản lý rừng bền vững dự án DANIDA với sự
tài trợ của Đại sứ quán Vương quốc Đan Mạch tại Việt Nam đã xây dựng
được 5 mô hình trồng cây LSNG với các loài cây chủ yếu như: Rau Sắng,
khoai Tầng, Chuối phấn,… Dự án được triển khai thực hiện từ năm 2008
trên địa bàn 2 xã vùng đệm là Minh Đài, Xuân Đài và xã Xuân Sơn thuộc
vùng lõi Vườn quốc gia Xuân Sơn - huyện Tân Sơn - tỉnh Phú Thọ. Sau hơn 3
năm triển khai thực hiện, kết quả bước đầu cho thấy các mô hình này đã có
tác động tích cực trong việc cải thiện sinh kế và nhận thức cho cộng đồng địa
phương. Tuy nhiên, cho tới nay, vẫn chưa có một đánh giá, tổng kết các mô
hình này làm cơ sở cho việc đề xuất mở rộng.
Xuất phát từ những lý do đó, đề tài “Đánh giá một số mô hình trồng
cây lâm sản ngoài gỗ do dự án DANIDA xây dựng tại Vườn Quốc gia Xuân
Sơn, tỉnh Phú Thọ” được thực hiện là thực sự cần thiết, nhằm lựa chọn được
loài cây, kỹ thuật trồng cây LSNG có triển vọng nhất cho khu vực.
3
Chương 1:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm lâm sản ngoài gỗ
Đã có nhiều những tên gọi khác nhau về lâm sản ngoài gỗ đang được sử
dụng rộng rãi hiện nay như: lâm sản phụ, lâm sản phi gỗ, sản phẩm rừng không
phải là gỗ... Hầu hết mọi người đều có cùng quan điểm coi các khái niệm trên là
đồng nhất, để chỉ các sản phẩm của rừng không phải là gỗ như: động vật rừng,
các cây dược liệu, các sản phẩm từ cây rừng không phải là gỗ, các sản phẩm phụ
từ khai thác gỗ (cành, lá, gốc, rễ,...).
Có nhiều tài liệu viết về lâm sản ngoài gỗ, nhưng chỉ ở những phạm vi
hẹp của một loài hoặc một nhóm loài nhất định. Nhưng chưa có một công trình
nào đưa ra được một khái niệm chính xác về lâm sản ngoài gỗ này.
+ Khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ được đề cập chính thức vào năm 1989
do W.W.F. Theo khái niệm này: “Lâm sản ngoài gỗ bao hàm tất cả các vật liệu
sinh học khác gỗ, được khai thác từ rừng tự nhiên phục vụ mục đích của con
người. Bao gồm các sản phẩm là động vật sống, nguyên liệu thô và củi, song
mây, tre nứa, gỗ nhỏ và sợi” (The Economic value of Non-timber Forest
products in Southeast asia - W.W.F - 1989).
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về LSNG nhưng
thông dụng hơn cả là định nghĩa do Hội đồng Lâm nghiệp Tổ chức Nông Lương
của Liên Hiệp quốc (FAO) thông qua năm 1999: “Lâm sản ngoài gỗ (Non -
timber forest products - NTFP, hoặc Non - wood forest products - NWFP) bao
gồm những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật, khác gỗ, được khai thác từ rừng,
đất có rừng và từ cây gỗ ở ngoài rừng”.
Như vậy, lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các vật liệu sinh học khác gỗ
được khai thác từ rừng (cả rừng tự nhiên và rừng trồng) phục vụ mục đích của con
người. Có thể kể ra một số LSNG chính như các loài thực vật, động vật dùng làm
4
thực phẩm, làm dược liệu, tinh dầu, nhựa sáp, nhựa dính, nhựa dầu, cao su, tanin,
màu nhuộm, chất béo, song mây, tre nứa, cây cảnh, nguyên liệu giấy, sợi...
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về LSNG
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Nghiên cứu về phân loại, bảo tồn LSNG
Công trình “Nghiên cứu về tre trúc” của Munro (1868) được coi là một
trong những nghiên cứu về tre trúc đầu tiên (dẫn theo Đỗ Văn Bản, 2005) [3].
Trong công tác này tác giả đã khái quát được một cách tổng quan về họ phụ tre
trúc trên thế giới.
Khi nghiên cứu về “Các loại tre trúc” Gamble (1896) đã đề cập tương đối
chi tiết về phân bố, hình thái và một số đặc điểm sinh thái của 151 loài tre trúc
(dẫn theo Đỗ Văn Bản, 2005) có ở các nước Ấn Độ, Pakistan, Miến Điện,
Malaysia và Indonesia.
I. T. Haig, M.A Hubermen và U Aung Din de F.A.D (1963) với công
trình “Rừng tre nứa” đã nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái của tre trúc nứa
Ấn Độ, Pakistan liên quan đến thổ nhưỡng, khí hậu và một số biện pháp xử lý
lâm học, tái sinh, khai thác.
S. Dransfield and E.A. Widjaja (1995) [21] đã tiến hành mô tả đặc điểm
hình thái, sinh thái, phân bố, gây trồng, sử dụng cho 75 loài tre trúc thông dụng,
có giá trị ở vùng Đông Nam Á.
Nhìn chung, các nghiên cứu phân loại hiện nay mới chỉ tập trung chủ yếu
vào các loài LSNG có diện tích phân bố với số lượng lớn là Tre trúc, các nghiên
cứu về Song mây và một số cây thuốc, cay lấy dầu nhựa,… hầu như chưa được
đề cập đến.
1.2.1.2. Nghiên cứu về chọn giống, nhân giống và kỹ thuật gây trồng
Zhou Fangchun (2000) [22] có đề cập đến nhân giống của một số loài tre
trúc khác nhau ở Trung Quốc làm cơ sở cho việc gây trồng phát triển tre trúc.
5
Ở Malaysia bước đầu đã nghiên cứu tạo giống mây bằng phương pháp nuôi
cây mô, đã tiến hành thí nghiệm trồng song mây dưới tán các loại rừng với các
mật độ khác nhau. Malaysia và Indonesia đã xây dựng rừng mây giống phục vụ
cho gieo trồng trên quy mô lớn (dẫn theo Vũ Văn Dũng và cộng sự, 2002) [7].
Xiao Jianghua (1996) đã xác định những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình
sinh măng, sinh trường và phát triển của thân khí sinh là độ ẩm, nhiệt độ, dinh
dưỡng, cấu trúc rừng, biện pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những nhân tố cần
phải được quan tâm khi áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng suất măng
và thân khí sinh (dẫn theo Nguyễn Quang Hưng, 2008) [11].
Zhou Fangchun (2000) [22] đã cho thấy nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm có
ảnh hưởng khá rõ đến quá trình phát sinh, phát triển măng,… của nhiều loài tre
trúc khác nhau, đó là những cơ sở để áp dụng các biện pháp thâm canh nhằm
thúc đẩy sinh măng trái vụ ở Trung Quốc.
Theo J. Dransfield và N.Manokaran, 1998 việc trồng mây nếp đã phát
triển trên quy mô lớn ở Trung Quốc, phổ biến là trồng theo phương thức nông
lâm kết hợp, trồng xen trong các khu rừng phục hồi và rừng trồng, cây non được
trồng 1 hoặc 2 cây/cụm. Tại Quảng Đông, mây nếp được trồng thử nghiệm ở
sườn đồi, thu hoạch vào năm thứ 7 cho năng suất khoảng 1,2 tấn/ha (dẫn theo Vũ
Văn Dũng và cộng sự, 2002) [7].
Những năm gần đây, một số nhà khoa học đã nghiên cứu về đặc điểm sinh
thái học, kỹ thuật gây trồng, chế biến và tổng kết đánh giá kết quả trồng một số
loài LSNG có giá trị ở các nước nhiệt đới như Việt Nam, Trung Quốc,
Brazils,…. (Peter Zuidema, 2001;… Marinus J.A. Werger, 2000; FAO, 2000;…)
Nhìn chung, việc nghiên cứu về phân loại, mô tả hình thái, sinh thái, công
dụng, tầm quan trọng cũng như đánh giá các mô hình gây trồng và phát triển LSNG
trên thế giới đã có nhiều kết quả. Các kết quả đều khẳng định việc gây trồng, phát
triển, sử dụng hợp lý và bền vững thì LSNG sẽ có vai trò to lớn trong việc tạo thu
6
nhập cho người dân miền núi, nhiều nơi còn làm nguồn thu nhập chính, góp phần
xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định xã hội
đồng thời đóng góp rất lớn trong quá trình bảo vệ và phát triển rừng.
1.2.1.3. Nghiên cứu về thi ̣trường LSNG
Các nghiên cứu chỉra rằng, măc ḍ ù LSNG có giá
tri ̣to lớn, nhưng nhiều
ngườ
i sản xuất LSNG lai thu đư ̣ ơc hi ̣ êu qu ̣ ả rất thấp là do sựhan ch ̣ ế trong viêc ̣
tiếp cân thông tin th ̣ i ̣trường môt c̣ ách có
tổ chức hoăc ̣ thiếu những giải pháp kỹ
thuât ph ̣ ù hơp đ ̣ ể nâng cao chất lương s ̣ ản phẩm theo đò
i hỏi của thi ̣trường. Để
góp phần giải quyết những vấn đềtrên, vào năm 1992, chương trình rừng, cây và
con ngườ
i (FTPP) đãphá
t triển các bản hưỡng dân cho vi ̃ êc t ̣ ao ra c ̣ ác hê ̣thống
thông tin thi ̣trường LSNG ở mức đia phương v ̣ à giớ
i thiêu ṃ ôt ṣ ố kinh nghiêm ̣
về kỹthuât nuôi tr ̣ ồng , canh tác và phá
t triển thưc ṿ ât ngo ̣ à
i gỗ, như phá
t triển
rừng cung cấp dươc th ̣ ảo ở Nepan, rừng cung cấp cây họdầu, Tanin, cau rừa ở
vùng Amazon – Brazil, rừng cung cấp song mây ở Malaixia (dẫn theo Vũ Văn
Dũng và cộng sự, 2002) [7].
1.2.1.4. Các nghiên cứu về vai trò của LSNG
Phần lớn LSNG đã trở thành sản phẩm hàng hóa nên đã mở ra triển vọng
cho việc quản lý sử dụng bền vững nguồn tài nguyên rừng. Cùng với việc kinh
doanh gỗ, nó đem lại nhiều lợi ích cho việc bảo vệ rừng (Wim Bergmans, 1989).
Thấy rõ được vai trò của LSNG trong kinh tế và bảo vệ rừng, trên thế giới đã có
nhiều công trình nghiên cứu khoa học nhằm phát hiện các sản phẩm ngoài gỗ.
Phần lớn các công trình nghiên cứu được thực hiện ở các nước đang phát triển
trong khu vực nhiệt đới, là những nơi có tiềm năng LSNG nhất trên thế giới,
nhưng lại có áp lực phá rừng mạnh mẽ nhất.
Giá trị kinh tế - xã hội của LSNG thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, từ
cung cấp lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, nguyên liệu thủ công mỹ
nghệ, đến tạo việc làm, phát triển ngành nghề thủ công nghiệp,… Tầm quan
7
trọng của LSNG đối với các nước nhiệt đới đã được thừa nhận, như ở Thái Lan,
trong năm 1987 đã xuất khẩu LSNG đạt giá trị 23 triệu USD và ở Indonesia
cũng trong năm đó đạt tổng giá trị xuất khẩu LSNG lên tới 238 triệu USD
(Tenne, 1987).
Các tổ chức quốc tế như FAO (1997) [20], UICN (1999) [12] đã đưa ra
bảng giá trị của LSNG so với các giá trị khác của rừng được thể hiện ở bảng 01.
Bảng 1.1. Giá trị của rừng và LSNG ở một số quốc gia trên thế giới
Quốc gia Giá trị sinh thái
(%)
Giá trị lâm sản (%)
Toàn bộ Lâm sản gỗ LSNG
Nhật bản 96,0 4,0 2,0 2,0
CHLB Đức 93,0 7,0 4,1 2,9
LB Nga 70,0 30,0 20,1 9,9
Phần Lan 76,0 24,0 13,4 10,6
Việt Nam 75,0 25,0 12,5 12,5
Ấn Độ 80,0 20,0 10,0 10,0
Lào 80,0 20,0 10,0 10,0
Trung Quốc 93,0 7,0 4,0 3,0
Nguồn: FAO (1997), UICN (1999)
Như vậy, giá trị LSNG ở nhiều quốc gia được ước tính xấp xỉ bằng so với
giá trị của gỗ. Do đó, nếu chỉ coi gỗ là nguồn thu nhập duy nhất từ rừng thì
chúng ta đã bỏ lỡ một nguồn lợi khác tương đương với nó. Dưới đây là một số
nghiên cứu chứng minh điều này:
- Nghiên cứu của Mayer (1980) cho thấy, 60% tổng sản phẩm phi gỗ
được tiêu thụ bởi người dân địa phương và không bao giờ được tính ra tiền mặt.
- Ở Ấn Độ (1982) LSNG chiếm gần 40% giá trị lâm sản và 60% giá trị
lâm sản xuất khẩu. Ở Indonesia (1989) thu được 436 triệu USD từ LSNG.
8
- Padoch (1988), Bele (1989) qua nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Rừng nhiệt
đới có vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân địa phương một phần là
ở khả năng cung cấp LSNG. Mayer (1988) đã tính toán rằng, một khu rừng nhiệt
đới có diện tích 50.000 ha nếu được quản lý tốt sẽ cung cấp đều đặn 200
USD/ha/năm. Peter và cộng sự (1989) đã tính toán thu nhập từ gỗ và LSNG trên
một ha rừng nhiệt đới vùng Amazon đạt 6.820 USD/ha/năm [19].
1.2.1.5. Các nghiên cứu về tiềm năng và giải pháp nâng cao vai trò của
LSNG
Hệ sinh thái rừng nhiệt đới là một hệ sinh thái hoàn hảo và đầy đủ với khu
hệ động vật và thực vật phong phú và đa dạng nhất hành tinh (Van Steenis,
1956). Vì vậy, việc tận dụng triệt để mọi tiềm năng của rừng nhiệt đới ẩm để
kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổng hợp, trong đó có kinh doanh và lợi dụng
LSNG là hết sức cần thiết.
Rừng nhiệt đới tuy chỉ chiếm 7% bề mặt trái đất nhưng trong đó chứa
đựng gần 90% tổng số loài thực vật của trái đất (Mc Nell et al, 1990).
Năm 1987, Wilson đã tìm thấy quanh một gốc cây họ đậu ở Peru có tới 43
loài kiến, thuộc 26 giống, bằng toàn bộ khu hệ kiến có mặt ở nước Anh.
Tại Đông Nam á, rừng nhiệt đới và đặc biệt là rừng mưa có mức độ đa
dạng sinh học rất cao. Tại Malaysia có ít nhất 40.000 loài thực vật, Indonesia có
khoảng 20.000 loài, Thái Lan có 12.000 loài, số loài thực vật ở Đông Dương
(Việt Nam, Lào, Campuchia) là 15.000 loài.
Nhằm nâng cao vai trò của LSNG một số tổ chức quốc tế tiêu biểu trong
hoạt động nghiên cứu LSNG như: Tổ chức nông lương thế giới (FAO), Trung
tâm nghiên cứu Lâm nghiệp quốc tế (CIFOR), Trung tâm Nông lâm kết hợp
quốc tế (ICRAF),… đã tập trung nghiên cứu vào nhóm các nghiên cứu sau: