Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
190
Kích thước
25.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1667

Đăng ký quyền đối với tài sản trong pháp luật Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG PHƢỚC THÔNG

ĐĂNG KÝ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐĂNG KÝ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS ĐỖ VĂN ĐẠI

Học viên: ĐẶNG PHƢỚC THÔNG

Lớp: Cao học Luật Khóa 22

Hệ: Nghiên cứu

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN VÀ CẢM ƠN

Tôi xin cam đoan, Luận văn này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi,

dưới sự biết ơn đối với Phó Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Văn Đại, người được giao trách

nhiệm và tận tình hướng dẫn cho công trình khoa học này.

Các thông tin nêu trong Luận văn là trung thực.

Các ý kiến, quan điểm, khái niệm không thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp

của chính bản thân, đều được tác giả dẫn nguồn đầy đủ.

Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực và khách quan của các kết quả

nghiên cứu trong Luận văn.

Tác giả luận văn

Đặng Phƣớc Thông

iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Cụm từ cần viết tắt

1 BLDS Bộ luật Dân sự

2 LĐĐ Luật Đất đai

3 HTĐK Hệ thống đăng ký

4 ĐKBB Đăng ký bắt buộc

5 ĐKTYC Đăng ký theo yêu cầu

6 BĐS Bất động sản

7 QSH Quyền sở hữu

8 QSDĐ Quyền sử dụng đất

9 QBM Quyền bề mặt

10 QHD Quyền hưởng dụng

11 CSH Chủ sở hữu

12 GCN Giấy chứng nhận

iv

MỤC LỤC

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐĂNG KÝ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI

SẢN ...................................................................................................................................5

1.1. Khái quát về đăng ký quyền đối với tài sản ...............................................................5

1.1.1. Khái niệm về quyền đối với tài sản.......................................................................5

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm về đăng ký quyền đối với tài sản ....................................11

1.2. Sự cần thiết phải cải tiến pháp luật đăng ký quyền đối với tài sản..........................20

1.2.1. Động lực chính để thúc đẩy kinh tế - xã hội........................................................20

1.2.2. Gia tăng khả năng bảo vệ quyền dân sự về tài sản...............................................21

1.2.3. Mở rộng khả năng tiếp cận tín dụng ...................................................................22

1.2.4. Nền tảng cho giao dịch dân sự an toàn................................................................22

1.2.5. Minh bạch hóa tình trạng pháp lý của tài sản ......................................................23

1.3. Đối tƣợng, thời điểm và hệ quả của đăng ký quyền đối với tài sản .........................23

1.3.1. Đối tượng đăng ký quyền đối với tài sản.............................................................23

1.3.2. Thời điểm và hệ quả đăng ký quyền đối với tài sản.............................................34

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ..............................................................................................42

CHƢƠNG 2. BẤT CẬP VỀ ĐĂNG KÝ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN Ở VIỆT NAM

VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN...................................................................................43

2.1. Bất cập về đăng ký quyền sở hữu tài sản ở Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện.......43

2.1.1. Bất cập về đăng ký bắt buộc quyền sở hữu tài sản và kiến nghị hoàn thiện ..........44

2.1.2. Bất cập về đăng ký quyền sở hữu tài sản theo yêu cầu và kiến nghị hoàn

thiện...........................................................................................................................59

2.2. Bất cập về đăng ký quyền khác đối với tài sản ở Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện.61

2.2.1. Quyền đối với bất động sản liền kề.....................................................................62

2.2.2. Quyền hưởng dụng ............................................................................................67

2.2.3. Quyền bề mặt đất...............................................................................................70

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2...............................................................................................76

KẾT LUẬN CHUNG......................................................................................................77

PHỤ LỤC 1: Về các tài liệu liên quan đến bất động sản.............................................1

PHỤ LỤC 2: Về các tài liệu liên quan đến động sản....................................................1

1

LỜI MỞ ĐẦU

Tại Việt Nam trước 1954 ở phía Bắc và trước 1975 ở phía Nam, do tình thế chiến

tranh nên đất đai chưa thực sự đảm bảo sở hữu cho bất cứ người dân riêng lẻ nào, mà do

chính phủ cầm quyền kiểm soát. Từ năm 1954-1987 ở miền Bắc và từ năm 1975-1978 ở

miền Nam, chính phủ giải phóng Việt Nam giao đất ở khu vực nông thôn cho hợp tác xã

hoặc doanh nghiệp quản lý. Theo đó, thiết chế đăng ký đầu tiên áp dụng để nhận biết mảnh

đất được nhà nước giao. Như vậy, tư duy ban đầu của Việt Nam về đăng ký đất là phục vụ

mục tiêu quản lý hành chính, thiết lập mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa Nhà nước và chủ

thể nắm giữ đất. Thông qua đăng ký đất đai, cơ quan quản lý nhà nước nắm được tỉ lệ

chiếm hữu và sử dụng đất của các thành phần kinh tế và các ngành kinh tế, phát hiện những

việc sử dụng trái phép, kịp thời sửa chữa và phân phối đất đai cho phù hợp với yêu cầu phát

triển của nền kinh tế quốc dân.

Tuy nhiên, hệ thống đăng ký quyền đối với tài sản hiện đại trên thế giới không ủng hộ

hướng đi lỗi thời này, thay vào đó là ý tưởng khác, nghĩa là đăng ký nhằm thiết lập một giả

định của Nhà nước về mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa chủ thể với tài sản. Ý tưởng này mở

rộng khái niệm đăng ký không chỉ trong phạm vi là đất, mà cả tài sản trên đất và động sản.

Nó không chỉ hướng đến quyền sở hữu, mà còn quyền/ lợi ích trên tài sản của chủ thể khác.

Nhìn lại Việt Nam, dường như hệ thống đăng ký quyền đối với tài sản chậm cải tiến

hơn các quốc gia có cùng thời kỳ chuyển đổi nền kinh kế (Nga, Trung Quốc). Điều này là

dễ hiểu bởi, hành trình lập pháp Việt Nam từ năm 1949 đến nay không định hình rõ nền

tảng của học thuyết về đăng ký quyền đối với tài sản. Nguyên nhân là do các bản hiến pháp

Việt Nam thay đổi không ngừng, cùng với sự bùng nổ nhu cầu cải tiến sở hữu tư nhân trong

cuối thế kỷ XX, khiến cơ quan lập pháp thiếu sự chủ động. Do vậy, đăng ký quyền đối với

tài sản Việt Nam hiện nay, tồn tại cả mô hình đăng ký bắt buộc theo Đức, Úc và đăng ký

theo yêu cầu theo Pháp (Điều 95 của LĐĐ năm 2013). Tuy nhiên, cách định hình đối tượng,

thời điểm và hệ quả lại chưa thực sự rõ nét. Khiến tự nó trở nên lỗi thời, thiếu khả năng

tương thích khi mở rộng quyền khác đối với tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2015. Quan

trọng hơn, tầm nhìn khoản 1 Điều 106 Bộ luật Dân sự 2015, cho thấy, một nhu cầu lớn

trong việc xây dựng thiết chế độc lập về đăng ký quyền đối với tài sản, hướng đến đối

tượng đăng ký là “quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản”, nhằm bảo vệ các quyền năng

này bởi đăng ký, chứ không dừng ở đăng ký để quản lý hành chính như hiện nay.

Chính từ các nhu cầu đó, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu là “Đăng ký quyền đối

với tài sản trong pháp luật Việt Nam”.

1. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện nay, đã có một số công trình khoa học ở Việt Nam nghiên cứu về đăng ký quyền

đối với tài sản nói chung và đăng ký quyền đối với tài sản nói riêng như:

2

Hội thảo Hoàn thiện khuôn khổ thể chế về đăng ký tài sản tại Việt Nam, do Bộ Tư

pháp và NLD tổ chức tại Hà Nội (15/8/2017) và Lâm Đồng (22/9/2017); Hội thảo kinh

nghiệm quốc tế về đăng ký tài sản và đề xuất hoàn thiện chính sách cho Việt Nam, do Bộ

Tư pháp phối hợp với USAID tổ chức tại Hà Nội (30/3/2018). Những Hội thảo này cung

cấp góc nhìn thực trạng pháp luật hiện nay về đăng ký tài sản Việt Nam, đưa ra những quan

điểm về nhu cầu thực tiễn cần thiết lập rõ ràng về đạo luật đăng ký quyền đối với tài sản.

Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa làm rõ dưới góc độ lý luận về đăng ký, chưa đề cập

đầy đủ thực tiễn về đăng ký động sản, các giải pháp đề xuất mang tính riêng rẽ theo dạng tài

sản chứ chưa có điểm chung về nguyên tắc của hệ thống đăng ký quyền đối với tài sản.

Đặng Anh Quân (2011), Hệ thống đăng ký đất đai theo pháp LĐĐ Việt Nam và Thụy

Điển, Luận án tiến sĩ luật học Đại học Lund - Thụy Điển. Một nghiên cứu chuyên sâu về

đăng ký đất đai, đưa ra quan điểm về lý luận, thực tiễn và các giải pháp cải tiến đăng ký đất

đai. Tuy nhiên, bài viết còn hạn chế khi thực trạng mà tác giả đề cập còn sử dụng các văn

bản pháp luật cũ chỉ liên quan đến bất động sản, mà chưa phù hợp với sự mở rộng của thực

tiễn và khoa học về đăng ký động sản và đăng ký quyền khác đối với tài sản hiện nay.

Nguyễn Ngọc Điện (2015), “Cải cách hệ thống pháp luật tài sản thỏa mãn tiêu chí hội

nhập thông qua việc sửa đổi Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 3&4. Bài

viết đề cập thực trạng, các dạng hệ thống đăng ký trên thế giới, bất cập trong pháp luật về

đăng ký và đưa ra giải pháp cải cách đăng ký tài sản Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, bài

viết còn nhiều điểm hạn chế khi chưa lý giải nguyên nhân và bản chất hình thành đăng ký

quyền đối với tài sản trên thế giới, chưa phân biệt đăng ký khế ước và đăng ký quyền đối

với tài sản, các giải pháp đưa ra còn mang tính vĩ mô mà chưa đề cập một cách chuyên sâu.

Nguyễn Minh Tuấn (2011), Đăng ký bất động sản: Những vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb. Chính trị Quốc gia. Đây là nghiên cứu khá rộng về đăng ký bất động sản ở một số

nước trên thế giới, thực trạng quy định pháp luật tại Việt Nam. Tuy nhiên, bài viết còn

nhiều điểm hạn chế khi, chỉ dừng lại giới thiệu quy định ở các nước chứ chưa làm rõ các

đặc điểm giữa hệ thống đăng ký khế ước và đăng ký quyền đối với tài sản.

Đặng Phước Thông (2018), “Quyền đối với tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và

hoàn thiện pháp luật về đăng ký tài sản”, Tạp chí Luật học, số 8 (219). Bài viết đã phân tích

nguyên nhân hình thành quyền đối với tài sản Việt Nam và sự mở rộng nó trong Bộ luật dân

sự năm 2015. Đề cập thực trạng và nhu cầu cải tiến hệ thống đăng ký quyền đối với tài sản,

qua đó, đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện.

Công trình nghiên cứu đăng ký quyền đối với tài sản nước ở ngoài khá phong phú như:

Hanstad, Tim (1998), “Designing Land Registration Systems for Developing

Countries”, American University International Law Review 13, No. 3. Một nghiên cứu chỉ

ra một cách hệ thống, tồn tại hai hệ thống đăng ký trên thế giới là đăng ký khế ước và đăng

3

ký quyền đối với tài sản. Mô tả những ưu và khuyết điểm giữa hai hệ thống này và đưa ra

những khuyến nghị cho các nước đang phát triển để lựa chọn mô hình phù hợp. Tuy nhiên

nó còn hạn chế khi chưa đề cập sự phân biệt đối với hai hệ thống này. Đây sẽ là một công

trình tốt phục vụ cho việc tìm hiểu những lợi ích khi lựa chọn đăng ký quyền đối với tài sản.

Murray J Raff B Juris (1999), German Real Property Law And The Conclusive Land

Title Register, Luận văn Tiến sĩ, tại Đại học Melbourne. Nghiên cứu chuyên sâu và toàn

diện về hình thành hệ thống đăng ký quyền đối với tài sản, những đặc điểm nổi bật hệ thống

này nhằm phân biệt với hệ thống đăng ký khế ước. Đây là công trình phục vụ tốt cho việc

tìm hiểu cơ sở lý luận, nguồn gốc và đặc điểm pháp lý của đăng ký quyền đối với tài sản.

H. Patrick Glenn (1974), “The Local Law of Alsace-Lorraine: A Half Century of

Survival”, The International and Comparative Law Quarterly, Vol. 23, No. 4, Oct. Một

nghiên cứu chỉ ra cơ sở hình thành hệ thống đăng ký Alsace-Lorraine, một tỉnh thuộc nước

Pháp, đã thành công và chứng minh có hiệu quả. Đây là tài liệu tốt, cung cấp các dữ kiện

lịch sử cho việc tìm hiểu lịch sử hệ thống đăng ký tại Pháp

Stéphane Glock (2004), “Real property law project France”, European Private Law

Forum in cooperation with Deutsches Notarinstitut (DNotI) Wurzburg, European

University Institute (EUI) Florence. Bản báo cáo khá chi tiết dựa trên bảng câu hỏi định sẵn

các vấn đề của đăng ký quyền đối với tài sản ở Pháp, gồm cả sự so sánh ưu và khuyết điểm

giữa hệ thống đăng ký quyền đối với tài sản theo luật chung và luật địa phương. Đây là tài

liệu hữu ích để tác giả khai thác và tìm hiểu toàn vẹn mô hình đăng ký của Pháp.

Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy các công trình tại Việt Nam mới chỉ nghiên cứu

một cách khái quát và nêu vấn đề, chứ chưa làm rõ: khái niệm đặc điểm của đăng ký quyền

đối với tài sản; đối tượng, thời điểm và hệ quả đăng ký... Các công trình nước ngoài còn

nhiều điểm chưa tương quan với chế định sở hữu đất đai ở Việt Nam. Vì vậy, để tiếp tục

nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện vấn đề đăng ký quyền đối với tài sản, tác giả đã

chọn nghiên cứu đề tài “Đăng ký quyền đối với tài sản trong pháp luật Việt Nam”.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Trong nghiên cứu này, tác giả đặt những mục tiêu như sau: Thứ nhất, nghiên cứu

những vấn đề lý luận về đăng ký quyền đối với tài sản ở Việt Nam cũng như một số nước

trên thế giới; Thứ hai, nguyên cứu quy định hiện hành về đăng ký quyền đối với tài sản và

tham khảo quy định của một số nước trên thế giới hiện nay. Phân tích ưu điểm và nhược

điểm trong cách sắp xếp các dạng quyền trên tài sản trong hệ thống đăng ký; Thứ ba, đồng

thời xem xét thực tiễn xét xử liên quan đến các vấn đề pháp lý như: đối tượng, thời điểm và

hệ quả đăng ký quyền đối với tài sản; Thứ tư, trên cơ sở những vấn đề lý luận, hạn chế pháp

luật dân sự Việt Nam hiện hành, xét nhu cầu thực tiễn đặt ra, và tham khảo pháp luật trên

thế giới, tác giả sẽ: nghiên cứu hướng đến việc sắp xếp phù hợp các dạng quyền trên tài sản

4

vào trong hệ thống đăng ký; đề xuất một số giải pháp nhằm định hình sự vận hành hệ thống

đăng ký quyền đối với tài sản, phù hợp điều kiện và phong tục tập quán Việt Nam.

3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài

Tác giả nhận thấy, không thể nghiên cứu chuyên sâu và bao quát các vấn đề pháp lý

về đăng ký quyền đối với tài sản. Do vậy, đề tài chỉ hướng đến: Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở

lý luận và thực tiễn cho việc sắp xếp phù hợp các dạng quyền trên tài sản vào trong hệ thống

đăng ký Việt Nam; Thứ hai, nêu ra một số giải pháp nhằm định hình sự vận hành hệ thống

đăng ký quyền đối với tài sản, phù hợp với điều kiện và phong tục tập quán Việt Nam; Thứ

ba, đề tài không đi sâu vào các vấn đề pháp lý liên quan, như: đăng ký quyền sở hữu trí tuệ;

luật thủ tục về đăng ký quyền đối với tài sản; pháp luật về đăng ký giao dịch đối với tài sản.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Ở Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử, tổng hợp, thống kê các văn bản

luật thực định khi nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận. Cụ thể, luận văn phân tích

các khái niệm, đặc điểm, học thuyết, quan điểm pháp lý; tổng hợp các bài viết, công trình

nghiên cứu từ đó đánh giá dưới góc nhìn của tác giả về đăng ký quyền đối với tài sản.

Trong Chương 2, phương pháp thống kê, phân tích đánh giá, thực tiễn xét xử được sử

dụng chủ yếu. Cụ thể, thông qua việc thống kê thực tiễn xét xử, tác giả đánh giá những ưu

và nhược điểm, cũng như nhu cầu về xây dựng chế định đăng ký quyền đối với tài sản.

Phương pháp so sánh, chứng minh được tác giả sử dụng xuyên suốt luận văn. Cụ thể,

tác giả so sánh quy định hiện hành về đăng ký quyền đối với tài sản của Việt Nam so với

Đức, Úc, Pháp, Anh, Trung Quốc, Nga... Từ những phân tích, tổng hợp, so sánh và đánh giá

thực tiễn, tác giả chứng minh sự cần thiết phải sắp xếp và định hình rõ ràng dưới góc độ lý

luận và thực tiễn. Qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật.

5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Đề tài “Đăng ký quyền đối với tài sản trong pháp luật Việt Nam” nghiên cứu

sâu về đăng ký quyền đối với tài sản, một vấn đề chưa được pháp luật quan tâm đúng

mức, chưa được định hình kỹ lưỡng, rõ nét. Dự kiến khi hoàn thành, nó mang ý nghĩa

nghiên cứu chuyên sâu đăng ký quyền đối với tài sản Việt Nam, trở thành nguồn tham

khảo hữu ích cho nhà lập pháp, giới khoa học, hướng đến xây dựng luật chuyên ngành

về đăng ký quyền đối với tài sản nói riêng và kết nối đồng bộ thiết chế đăng ký tài sản

nói chung.

6. Bố cục của Luận văn

Luận văn được chia thành 2 chương như sau:

Chƣơng 1. Những vấn đề cơ bản về đăng ký quyền đối với tài sản

Chƣơng 2. Bất cập về đăng ký quyền đối với tài sản ở Việt Nam và kiến nghị

hoàn thiện

5

CHƢƠNG 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐĂNG KÝ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

1.1. Khái quát về đăng ký quyền đối với tài sản

1.1.1. Khái niệm về quyền đối với tài sản

Trong những thay đổi tích cực của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, Phần thứ hai về

Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản, có sự đột phá khi bổ sung nhiều điểm mới

mang tính tiên phong của đạo luật “mẹ”. Thực chất, Phần này chỉ còn là “quyền đối với tài

sản” vì tiêu đề cho thấy quyền sở hữu (QSH) cũng chỉ là môt dạng quyền đối với tài sản.1

Để thấy tổng thể nội hàm quyền này trong BLDS tác giả phân tích khía cạnh sau: (a) nguồn

gốc hình thành quyền đối với tài sản trong luật La Mã và BLDS Pháp, Đức, Nhật Bản; (b)

sự kế thừa và cải tiến của quyền đối với tài sản trong BLDS năm 2015 Việt Nam.

1.1.1.1. Nguồn gốc quyền đối với tài sản

(i) Quyền đối với tài sản trong Luật La Mã. Từ thời kì luật La Mã, mối quan hệ trực

tiếp giữa chủ thể với tài sản được gọi là quyền đối vật hay còn gọi là vật quyền. Ở thời kỳ

này quan niệm, vật quyền là một khái niệm dùng để chỉ quyền có thể thực hiện trực tiếp và

ngay tức khắc trên một vật mà không cần vai trò của người khác.2

Tiêu biểu của vật quyền

được điều chỉnh trong luật La Mã là QSH mang tính chất pháp định, vĩnh viễn, độc quyền

và tuyệt đối. Những nội dung cơ bản của QSH được quy định như sau:

QSH là quyền cao nhất mà một người có thể có với một vật,3

gồm các quyền:4 Quyền

chiếm hữu vật - ius possidenti; Quyền sử dụng vật - ius utendi (là quyền khai thác những lợi

ích kinh tế từ vật phù hợp với tính năng, tác dụng của vật đó); Quyền hưởng hoa lợi, lợi tức

từ vật, hay gọi là quyền thu nhận thành quả và lợi nhuận5

- jus fruendi; Quyền định đoạt vật

- ius abutendi. Tính tuyệt đối, độc quyền của QSH có thể bị hạn chế trong một số trường

hợp có xung đột giữa lợi ích của chủ sở hữu (CSH) và các lợi ích khác,6

cũng như các

trường hợp cần dung hòa giữa tính pháp lý và tính thực tế7

của quan hệ sở hữu.8

1 Đỗ Văn Đại (chủ biên, 2016), Bình luận khoa học: Những điểm mới của BLDS năm 2015, Nxb. Hồng Đức, tr.

210.

2 Trịnh Tuấn Anh (2015), “Hướng hoàn thiện khái niệm tài sản khi sửa đổi BLDS năm 2005”, Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp, số 10, tr. 32.

3 Trường đại học luật TP. Hồ Chí Minh (1999), Luật La Mã, (Lê Nết dịch nguyên bản giáo trình Luật La Mã của Đại

học tổng hợp Warszawa - Ba Lan), Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 124.

4 Trường đại học luật TP. Hồ Chí Minh (1999), tlđd, tr. 125.

5 Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật La Mã, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

6 Luật La Mã quy định: Ở thành phố, CSH một BĐS chỉ có thể phá dỡ công trình xây dựng một khi đã cam kết xây

dựng một công trình mới thay thế. CSH BĐS có trách nhiệm bảo vệ những người láng giềng khi có những nguy hiểm

có thể xảy ra do tình trạng xuống cấp hoặc từ việc xây dựng, sửa chữa, v.v... BĐS của mình.

7

Theo Luật La Mã thì việc mua bán BĐS với mục đích đầu cơ đều bị cấm (tính pháp lý); Ở nông thôn, CSH BĐS

phải tôn trọng quyền lối đi qua người láng giềng, quyền dẫn nước, thoát nước, có trách nhiệm khai thác BĐS bị bỏ hóa

(tính thực tế).

8 Đại học Luật Cần Thơ (1999) (Nguyễn Ngọc Điện, chủ biên), Giáo trình Luật La Mã, Nxb. Chính trị quốc gia, tr.

17-18.

6

Việc một người sử dụng quyền trên tài sản của người khác đồng nghĩa với việc làm

hạn chế quyền của CSH tài sản đó. Quyền đối với tài sản của người khác, gồm: Quyền dụng

ích đối vật (servitutes), là quyền gắn liền với bất động sản (BĐS) liền kề bất kể CSH là ai;9

Quyền dụng ích đối nhân - Quyền này không khác gì các quyền dụng ích liên quan đến đất

đai, chỉ khác là chúng gắn liền với những người nhất định và có thời hạn, nhiều nhất là suốt

cuộc đời người đó;10 Quyền cầm cố (Pignus) - thế chấp (hypotheca);11 Quyền của chủ BĐS

(Superfices);

12 Quyền sử dụng lâu dài (Emphyteusis).

13

(ii) Ảnh hưởng đến Châu Âu. Vào thế kỷ 16 trung tâm luật học châu Âu chuyển đến

Pháp và Hà Lan. Với tinh thần khoa học sáng suốt và ý thức quốc gia, giới luật học châu Âu

đã nỗ lực để xây dựng nền pháp luật quốc gia theo tinh thần luật La Mã cũ. Bộ luật

Napoléon - Pháp năm 1804, có thuật ngữ “droit réel”14 với cách dịch khác nhau: Quyền đối

vật là quyền được hành sử một vật và được hưởng các sự lợi ích kinh tế của sự vật ấy;15 Vật

quyền16 là quyền thực hiện trực tiếp trên vật và có tác dụng mang lại cho người có quyền

toàn bộ hoặc một phần tiện ích kinh tế của vật đó;17 Quyền về vật (như vật quyền);18 Quyền

tài sản là quyền trực tiếp đối với một vật nhất định, đối lập với quyền nhân thân.19 Dù dịch

khác nhau, nhưng nó có nội hàm được đa số giới luật gia Việt Nam chấp nhận là quyền đối

9 Còn gọi là quyền địa dịch, là một dạng quyền đối với tài sản (BĐS) của người khác xuất phát từ quyền tư hữu đối với

đất đai Quyền địa dịch trong Pháp luật La Mã được chia thành hai loại: (i) Địa dịch nông thôn bao gồm: Quyền địa

dịch đường đi (đi qua mảnh đất liền kề, chuyên chở tài sản qua, chăn dẫn gia súc đi qua...); Quyền cấp nước (được dẫn

nước qua đất hàng xóm, được múc nước từ nguồn nước của hàng xóm); Quyền chăn thả gia súc trên bãi cỏ của hàng

xóm; (ii) Địa dịch thành thị gồm: Quyền xây dựng sát tường nhà hàng xóm, được tựa rầm vào tường nhà hàng xóm,

được yêu cầu hàng xóm không che mất ánh sáng và phá vỡ nét xây dựng của nhà mình. Xem: Trường đại học luật TP.

Hồ Chí Minh (1999), tlđd, tr. 139.

10 Quyền dụng ích cá nhân được định nghĩa trong quyển Disesta: quyền sử dụng tài sản của người khác cũng như

quyền thu hoạch mọi lợi tức do tài sản đó mang lại nhưng với điều kiện phải bảo toàn tài sản nguyên vẹn. Quyền dụng

ích cá nhân là quyền sử dụng gắn liền với một cá nhân và không dịch chuyển được. Có 4 loại như sau: (i) Ususfructus:

Quyền được sử dụng và thu hoa lợi suốt đời, trong đó bao gồm cả quyền cho thuê và quyền bán hoa lợi đi; (ii) Usus:

Quyền hạn chế hơn, chỉ được sử dụng chứ không được hưởng hoa lợi (đôi khi chỉ trong phạm vi nhu cầu người sử

dụng); (iii) Habitatio: Quyền được sống trong ngôi nhà thuộc sở hữu của người khác; (iv) Operae servorum vel

animalium: Quyền được sử dụng nô lệ và gia súc của người khác. Xem thêm: Trường đại học luật TP. Hồ Chí Minh

(1999), tlđd, tr. 140, 141; Lê Thị Thiên Hương (2010), Quyền đối vật trong luật tư La Mã và ảnh hưởng đối với pháp

luật Việt Nam hiện hành, Luận văn thạc sĩ luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 41.

11 Được định nghĩa là quyền của người có quyền trên vật của người khác (của người có nghĩa vụ hoặc của người thứ

ba) nhằm mục đích bảo đảm công việc khi người có nghĩa vụ không thực hiện. Xem: Trường đại học luật TP. Hồ Chí

Minh (1999), tlđd, tr. 144.

12 Được định nghĩa như một quyền sử dụng từ nhà ở xây dựng trên đất của người khác và có thể chuyển nhượng được.

Xem: Trường đại học luật TP. Hồ Chí Minh (1999), tlđd, tr. 148.

13 Đây là quyền mạnh nhất trong các loại quyền đối với vật của người khác – nghĩa là quyền sử dụng cho đến khi nào

bên sử dụng vẫn còn trả tiền thuê. Quyền sử dụng lâu dài của người sử dụng đôi khi còn mạnh hơn cả CSH và còn

được coi như một QSH bị phân chia. Xem Trường đại học luật TP. Hồ Chí Minh (1999), tlđd, tr. 147.

14 Điều 543 BLDS Pháp năm 1804 và xem thêm điều luật tương tự tại Điều 584 BLDS Hà Lan năm 1838.

15 Vũ Văn Mẫu, Lê Đình Chân (1968), Danh từ & tài liệu: Dân luật và Hiến luật (soạn theo chương trình Luật khoa

cử nhân năm thứ nhất), Nxb. Tủ sách Đại học Sài Gòn, tr. 117.

16 Lê Khả Kế, Nguyễn Lân (2001), Từ điển Việt – Pháp, in lần thứ 5, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr. 1096.

17 Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, tr. 847.

18 Lê Khả Kế, Nguyễn Lân (2001), tlđd, tr. 1397.

19 Nhà pháp luật Việt - Pháp (2009), Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp – Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr.

298

7

vật, là quyền thực hiện trực tiếp trên vật và có tác dụng mang lại cho người có quyền toàn

bộ hoặc một phần tiện ích kinh tế của vật đó. Các “droit réel” trong BLDS Pháp năm 1804

quy định, gồm: QSH;

20 QSH bề mặt; Quyền cư dụng; Quyền địa dịch21; Quyền hưởng

dụng22, đồng thời thiết kế quy định về đăng ký các quyền này.23

Nước Đức cũng tiếp nhận di sản của Luật La Mã, thông qua định nghĩa về vật24 và đối

tượng sở hữu25. Phần II BLDS Đức năm 1900 đã khái niệm hóa quyền thực là quyền, mà

một người được hưởng về một điều (hoặc sự kiện pháp lý) mà không cần bận tâm đến một

số người nhất định, được gọi là quyền thực. Quyền phát sinh từ một điều nhằm chống lại

một số người có liên quan trực tiếp được quy định trong một luật, hoặc từ một hành động

ràng buộc, được gọi là QSH cá nhân (Điều 307), và quyền tư hữu là quyền thực về tài sản

gồm các quyền thực của CSH (hoặc quyền sở hữu), quyền sử dụng vật dụng của thuộc về

sở hữu của người khác, quyền thực từ các bảo đảm và các quyền phụ khác. ( Điều 308)

(iii) Lan truyền sang châu Á. Đến thời hiện đại (năm 1890), Nhật Bản giới thiệu

BLDS đầu tiên và đưa ra yêu cầu về các giới hạn về sự tồn tại của quyền phải được rõ

ràng.26 Theo đó, không có quyền trên BĐS nào có thể được tạo ra ngoài các quyền được

quy định trong BLDS hoặc luật khác, do đó các loại quyền trên BĐS bị hạn chế rất nhiều

trong BLDS Nhật Bản. Từ đó đưa ra một định nghĩa của “QSH BĐS là quyền tuyệt đối có

thể bị phản đối bởi sự đòi hỏi về quyền lợi của bất kỳ người thứ ba nào”27 và một vài ngoại

lệ với nguyên tắc này là onsenken và jouto tanpo.

28 Định nghĩa này rõ ràng hơn trong Điều

175 BLDS Nhật Bản hiện hành, đó là danh sách các quyền đối với BĐS,29 gồm các quyền

chính là quyền chiếm hữu, QSH, các quyền khác tạo nên quyền sử dụng đất (viết tắt là

20 Điều 544 BLDS Pháp năm 1804, quy định rằng: “Quyền sở hữu là quyền được hưởng lợi và có tài sản một cách

tuyệt đối nhất, với điều kiện người sở hữu không sử dụng theo cách bị luật và các quy định cấm”, http://www.

cjoint.com/doc/17_01/GAgisq6VBVM_codecivil2017.pdf, truy cập ngày 01/6/2018.

21 Điều 637 BLDS Pháp năm 1804 quy định: “Quyền đi qua là trách nhiệm (hoặc một khoản phí) đi kèm với một địa

ốc (ở đây là một BĐS), theo đó việc sử dụng địa ốc thuộc về một người CSH khác”.

22 Điều 578 BLDS Pháp năm 1804 quy định: “Quyền hưởng dụng là quyền hưởng lợi tài sản, giống như CSH, nhưng

đi kèm nghĩa vụ duy trì sự tồn tại của tài sản”

23 Khoản 1, Điều 2521 BLDS Pháp năm 1804.

24 Theo Điều 285BLDS Đức năm 1900 (phiên bản 09/06/2018), thì“Mọi thứ, mà nó khác biệt với con người và dùng

cho mục đích sử dụng hợp pháp của con người, được gọi là một đồ vật hợp pháp”. Xem: https://www.ris.bka.gv.at/

GeltendeFassung.wxe? Abfrage=Bundesnormen&Gesetzesnummer=10001622, truy cập ngày 09/6/2018.

25 Theo Điều 311, BLDS Đức 1900 thì “Tất cả mọi thứ vật chất và phi vật thể là đối tượng của thủ tục tố tụng pháp lý có thể

bị chiếm hữu.”

26 Điều 176 BLDS Nhật Bản năm 1890, http://www.moj.go.jp/content/000056024.pdf, truy cập ngày 01/6/2018.

27 Shusei Ono (2003), “A comparative study of the transfer of property rights in Japanese Civil Law”, Hitotsubashi

journal of law and politics,Vol. 31, tr. 2 - 3.

28 Onsen-ken là một phong tục ngay trong khu suối nước nóng và có giá trị lớn hơn tài sản trong một khu rừng. Jouto

tanpo là một quyền lệ thuộc về sự bảo đảm tương tự như thế chấp. Nó bảo đảm quyền của chủ nợ bằng QSH tài sản

trên tài sản của người nợ hoặc động sản trong thời gian bắt buộc. Xem: Shusei Ono (2003), tlđd, chú dẫn số 4

29 Danh sách như sau: “Quyền thực sự tác động trực tiếp trên mọi thứ và có thể áp dụng cho tất cả, nó gồm quyền

chính và/hoặc ngẫu nhiên (thứ cấp). Các quyền chính là:(1) Tài sản, đầy đủ hoặc chia cắt; (2) Quyền về hoa lợi, sử

dụng và cư trú; (3) Quyền thuê, cho thuê lâu dài và quyền bề mặt; (4) Quyền sở hữu. Các quyền thực thứ cấp trên tài

sản (tạo thành các khoản nợ bảo đảm) là: (1) Quyền về các công trình phụ; (2) Quyền lưu giữ (hoặc bảo lưu quyền);

(3) Cam kết (hoặc lời hứa); (4) Quyền phản đối; (5) Các đặc quyền; (6) Thế chấp”. Shusei Ono (2003), tlđd, tr. 2.

8

QSDĐ) của người khác; và các quyền BĐS thứ cấp được đảm bảo liên quan đến tín dụng.30

Sau đó, Nhật Bản quy định 09 loại quyền đối vật đăng ký là: quyền sở hữu, quyền trên mặt

đất - 2 quyền, quyền địa dịch, đặc quyền lấy trước, quyền cầm cố, quyền thế chấp, quyền

thuê/ mướn, quyền lấy đá đối với bất động sản.

1.1.1.2. Sự kế thừa và cải tiến quyền đối với tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2015

(i) Bối cảnh lịch sử. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và thực hiện thủ

đoạn “cấy ghép” quan hệ dân sự về tài sản vào xã hội Việt Nam, ở 03 xứ cai trị: Bắc Kỳ,

Trung Kỳ, Nam Kỳ. Tuy nhiên, BLDS Bắc kỳ được cho là phản ánh một phần phong tục

tập quán người Việt, còn lại là một sự sao chép máy móc từ Bộ luật Napoleon.31 Điều này

tác động đến việc nhận thức rõ nét hơn học thuyết “vật quyền” (là các quyền trên tài sản) và

phân loại chúng trong quan hệ sở hữu tài sản tương đồng với xã hội Pháp trên nền tảng luật

La Mã. Phải thừa nhận rằng, một phần của sự “cấy ghép” đó đã được thích nghi với xã hội

Việt Nam và giúp trình độ lập pháp chúng ta dễ tiếp cận với các nước phương Tây.

(ii) Sự bùng nổ nhu cầu cải cách sở hữu tư nhân đối với tài sản đầu thế kỷ XX.

Năm 1945, cách mạng Việt Nam thắng lợi, xóa bỏ QSH đối với các tư liệu sản xuất quan

trọng của thực dân Pháp và các thế lực thù địch. Thực hiện khẩu hiệu “người cày có

ruộng”, trên nguyên tắc “quyền tư hữu của công dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều 12

Hiến pháp năm 1946), định vị tinh thần lập pháp mới “Người ta chỉ được hưởng dụng và sử

dụng các vật thuộc QSH của mình một cách hợp pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi

của nhân dân” (Điều 12, Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch Chính phủ Việt

Nam dân chủ cộng hoà về việc sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật). Điều này

cho thấy, nhận thức lập pháp ban đầu là điều chỉnh quan hệ sở hữu tư đối với tài sản hữu

hình - “các vật”, đồng thời thừa nhận chủ thể nắm QSH các vật có hai quyền năng chính là

quyền “hưởng dụng và sử dụng”. Tiếp theo, Hiến pháp 1959 thay thế Hiến pháp năm 1949,

khẳng định quan hệ sở hữu tư theo nguyên tắc “Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ

quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân” (Điều 14 Hiến pháp

năm 1959). Nhưng trong Hiến pháp 1980, nguyên tắc này bị xóa bỏ “quyền sở hữu về

ruộng đất” và thay vào đó là “tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử

dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật” (Điều 20 Hiến

pháp năm 1980), nguyên nhân là do áp dụng máy móc nền tảng lý luận thuyết Mác – Lenin,

bởi bản chất sở hữu là quan hệ giữa người với người về việc chiếm hữu tài sản, lấy tiêu

chuẩn “chiếm hữu” là trọng tâm giải quyết quan hệ sở hữu. Tách QSH duy nhất thuộc về

một thực thể pháp lý có quyền lực cao nhất để chiếm hữu, sau đó quyền sử dụng sẽ được

30 Phân chia này dựa trên Điều 543 BLDS Pháp 1804 và Điều 584 BLDS Hà Lan 1838 về sự khác biệt giữa quyền chính và

phụ trên tài sản.

31 Nguyễn Huy Anh (1998), Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về sở hữu ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia,

tr. 57 – 73.

9

chia cho những “nhân công” để lao động tập trung và phân phối thành quả lao động một

cách công bằng. Đó là cách thức xóa bỏ kinh tế tư nhân và nhường chỗ kinh tế nhà nước

làm chỉ huy. Hệ lụy là nền kinh tế kế hoạch hóa - “bao cấp” kéo dài, làm giảm sút mọi mặt

đời sống nhân dân. Đến năm 1986, sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng

cộng sản Việt Nam “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời

kỳ quá độ”, tạo nên sự bùng nổ mạnh mẽ về nhu cầu sở hữu tư nhân đối với tài sản và nhu

cầu cơ cấu pháp lý một cách có hệ thống về sở hữu tư nhân, đặc biệt là đất đai. Sau sự kiện

tuyên bố bình thường hóa quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc (11/1991), tạo nên

một hướng đi có tầm ảnh hưởng theo Trung Quốc về sở hữu đất đai.Nó thể hiện trong Điều

17 Hiến pháp 1992 Việt Nam, khi xác định QSH đất thuộc về sở hữu tập thể (toàn dân) và

QSDĐ thuộc về tư nhân (hộ gia đình, cá nhân) dưới hình thức Nhà nước “giao đất” (Điều

18 Hiến pháp 1992), tương đồng Hiến pháp Trung Quốc 1988. Cách định hình này, dựng

nên “nguyên tắc đảm bảo sự kết hợp QSH và quyền sử dụng” khi xây dựng chế định điều

chỉnh quan hệ về đất32 và mở ra quan hệ QSDĐ thừa nhận là một quyền tài sản có giá trị, có

thể chuyển giao như một dạng hàng hóa.33 Ban đầu, QSDĐ được cấu thành bởi 05 quyền

năng là: “quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng

đất” (khoản 2, Điều 3 LĐĐ 1993; từ Điều 690 đến Điều 774 BLDS 1995).

(iii) Cải tiến lập pháp về quyền đối với tài sản cuối thế kỷ XX và đầu thể kỷ XXI.

Khi được sự hợp tác chuyên gia Nhật Bản trong nỗ lực truyền đạt kinh nghiệm sang Việt

Nam,34 BLDS năm 1995 thông qua với ảnh hưởng mạnh hơn từ học thuyết “vật quyền”

mang yếu tố hiện đại trong cách tiếp cận của Nhật Bản và được tiếp tục cải tiến trong BLDS

năm 2005. Đến năm 2015, trong quá trình soạn thảo các nội dung để tiếp tục cải tiến BLDS,

các nhà khoa học pháp lý thừa nhận học thuyết về tài sản mà chúng ta theo đuổi được kế

thừa từ thuyết vật quyền của luật La Mã. Bởi, pháp luật dân sự Việt Nam “mang đầy đủ các

yếu tố đặc trưng của vật quyền được thừa nhận trong luật của Đức, Pháp,...”35, thậm chí có

32 Nguyên tắc này được định hình theo hướng “trách nhiệm và quyền lợi của người sử dụng phải được công nhận và

được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật và mọi đối tượng sử dụng đều phải là người chủ đích thực sự của nó”.

Xem Lê Đình Thắng (chủ biên, 2000), Giáo trình quản lý nhà nước về đất đai và nhà ở, Trường ĐH Kinh tế Quốc

dân, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 30 – 34.

33 Thương mại hóa QSDĐ lần đầu tiên áp dụng TP. Thâm Quyến – Trung Quốc ngày 9/9/1987. Được pháp điển hóa tại

Điều 10 Hiến pháp Trung Quốc 1988: “QSDĐ có thể được chuyển giao theo luật” và Điều 2 Luật Quản lý đất đai Trung

Quốc 1987: “QSDĐ thuộc sở hữu nhà nước hoặc thuộc sở hữu chung có thể được chuyển giao theo luật”. Xem Lei

Chen (2010), "Private Property with Chinese Characteristics: A Critical Analysis of the Chinese Law on Property of

2007", European Review of Private Law, No. 18(5), tr. 6 – 7.

34 Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2000), chuyên đề: “Kết quả khảo sát thực địa, điều tra xã hội học

về hộ gia đình và quyền sử dụng đất tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh”, Thông tin khoa học pháp lý, số 2, tr. 5.

35 Nguyễn Ngọc Điện (2015), “Cải cách hệ thống pháp luật tài sản thỏa mãn tiêu chí hội nhập thông qua việc sửa đổi

Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Viện nghiên cứu lập pháp, số 3&4, tr. 78.

10

học giả đã nêu rằng “lần đầu tiên sau hàng chục năm, thuật ngữ “vật quyền” xuất hiện một

cách đàng hoàng trước công chúng, thông qua Dự thảo”36 sửa đổi BLDS năm 2005.

Tuy nhiên các nhà phê bình cho rằng, sử dụng thuật ngữ “vật quyền” là khó hiểu và

không còn phù hợp khoa học pháp lý hiện đại, do đó đề xuất“không nên đưa các thuật ngữ

này vào trong quy định; ... cần “dân sự hóa” các nội hàm đó bằng những ngôn từ đơn giản,

dễ hiểu đối với người dân để những người không làm luật cũng có thể hiểu và làm theo quy

định của pháp luật”.

37 Một quan điểm khác cho rằng, tư duy về vật quyền là không có gì

mới, bởi nó đã được thừa nhận bao đời nay và lý giải nội hàm của “vật quyền là quyền của

một chủ thể chi phối trực tiếp đối với tài sản mà không phải thông qua hành vi của chủ thể

khác”, do đó“đề xuất thay từ “vật quyền” thành từ “quyền đối với tài sản” hay “quyền

trên tài sản”.38 Thậm chí, có nhóm các tác giả dẫn chứng để chứng minh “khoa học pháp lý

hiện đại ở các quốc gia trên thế giới, khái niệm vật quyền không còn được sử dụng ...”.39

Đúng như thế, thuở sơ khai, “vật quyền” là nền móng đầu tiên cho sự phát triển về

quyền đối với tài sản, khiến chúng ta dễ nhận biết sự tồn tại của quyền vô hình có thực, mà

CSH có thể nắm giữ như cách nắm giữ tài sản vật lý thông thường. Đó là sự biểu hiện mối

quan hệ giữa chủ thể và tài sản. Tuy nhiên, sử dụng định nghĩa về vật quyền vào thời kỳ La

Mã để diễn đạt trong bối cảnh hiện đại là không còn phù hợp. Bởi, khoa học hiện đại và kỷ

nguyên công nghệ thông tin đã có những bước tiến mạnh mẽ, vốn từ ngữ tại các quốc gia

cũng có nhiều phát triển và nhiều loại từ mới ra đời diễn đạt những hiện tượng phát triển

của đời sống vật chất và đời sống xã hội. Nếu thời kỳ La Mã, chủ thể nắm vật quyền là tiểu

thương, nhóm người nhỏ, thì giờ đây chủ thể nắm giữ quyền đã phát triển, không chỉ cá

nhân, pháp nhân, chủ thể trong lãnh thổ quốc gia và ngoài lãnh thổ quốc gia, cả chủ thể là

kiều bào, thậm chí chủ thể là toàn bộ dân chúng của một quốc gia cũng có thể nắm QSH.

Do vậy, việc sử dụng thuật ngữ “quyền đối với tài sản” là tất yếu trong khoa học pháp

lý hiện đại và mang lại nhiều ý nghĩa cho chế định về tài sản của Việt Nam ở các góc độ

sau: (1) Giải quyết sự hạn chế của thuyết vật quyền khi chỉ giới hạn ở dạng tài sản là vật, mà

mở rộng đối với các dạng tài sản khác (như: tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản) chứ không

chỉ riêng vật; (2) Thể hiện tính kế thừa học thuyết pháp luật tự nhiên và di sản của lập pháp

về thuyết vật quyền tồn tại ở nước ta; (3) Biểu hiện của sự giao thoa giữa trường phái pháp

luật tự nhiên - vừa mang tính thừa nhận các quyền tự nhiên của con người và trường phái

36 Ngô Huy Cương (2015), “Những sai lầm khi xây dựng chế định tài sản trong Dự thảo BLDS (sửa đổi)”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp - Viện nghiên cứu lập pháp, số 7, tr. 14.

37 Mai Hồng Quỳ (2013), “Một số suy nghĩ về “tuổi thọ”của Bộ luật Dân sự”, Báo cáo số 152/BC-BTP ngày

15/7/2013 của Bộ Tư pháp về sự cần thiết, mục tiêu, quan điểm và một số định hướng cơ bản sửa đổi BLDS năm

2005, tr. 23.

38 Đỗ Văn Đại, Nguyễn Nhật Thanh (2015), “Bàn thêm về quy định liên quan đến tài sản trong Dự thảo sửa đổi Bộ

luật Dân sự năm 2005”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp của Viện nghiên cứu lập pháp, số 20, tr. 18.

39 Trương Hồng Quang, Nguyễn Bích Loan, Vũ Hữu Trường Điền (2017), BLDS năm 2005 và 2015: Phân tích – đối

chiếu, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 139.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!