Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

đảng bộ tỉnh hải dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa,
PREMIUM
Số trang
131
Kích thước
767.6 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1908

đảng bộ tỉnh hải dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa,

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng

Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng

trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Từ đó đến nay

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn không ngừng bổ sung, phát triển và từng bước

hoàn thiện đường lối đổi mới. Công cuộc đổi mới là một cuộc cách mạng mới

mẻ, mỗi bước đi là một sự tìm kiếm và khám phá, đổi mới là phù hợp với xu

thế của thời đại và yêu cầu tất yếu của đất nước, đáp ứng đúng nguyện vọng của

nhân dân.

Trong bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ (KH￾CN), kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến

mọi dân tộc, quốc gia. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo đất

nước thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Trong đó khẳng định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Coi công nghiệp

hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ hàng

đầu, và chỉ rõ trọng điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng

CNH, HĐH là vấn đề cốt lõi, là quy luật phát triển của nền kinh tế nước ta

trong thời kỳ đổi mới, nhằm tiến kịp các nước tiên tiến trong khu vực và thế

giới.

Nền nông nghiệp Việt Nam trong những năm đổi mới từ năm 1986

đến nay đã từng bước chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo

ra bước phát triển có tính đột phá trên lĩnh vực sản xuất hàng hóa, tác động

mạnh đến phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ, các lĩnh vực chính trị -

xã hội khác. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đúng hướng đã góp

phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề bước sang thời kỳ đẩy

1

mạnh CNH, HĐH là yêu cầu không thể thiếu, tạo ra sự ổn định trong đời sống

chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước.

Hải Dương là một tỉnh có tiềm năng to lớn về tài nguyên thiên nhiên,

đất đai và du lịch. Đồng thời, đây còn là mảnh đất "Địa linh nhân kiệt", có

nhiều di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng như: Côn Sơn - Kiếp Bạc, làng nghề

truyền thống với những đặc sản nổi tiếng như bánh đậu xanh ở thành phố Hải

Dương, vải thiều Thanh Hà, gốm Cậy - Bình Giang, gốm Chu Đậu - Nam

sách,... Hải Dương còn nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc và tam

giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt từ khi tái lập tỉnh (tháng 1/1997)

đến nay, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã có những quan điểm mới đúng đắn, với

tư duy kinh tế năng động, nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh và truyền

thống vẻ vang của quê hương, thu hút mạnh nguồn vốn từ trong và ngoài

nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng

CNH, HĐH. Hải Dương đang được biết đến như một vùng kinh tế khởi sắc và

hứa hẹn phát triển mạnh mẽ trong tương lai không xa.

Tuy nhiên, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là kinh

tế nông nghiệp vẫn chưa phát huy hết tiềm năng to lớn mà vẫn đang còn

những khó khăn, hạn chế, phải đối mặt với nhiều vấn đề mới nảy sinh, chưa

đáp ứng đầy đủ yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh.

Nhằm đánh giá đúng thực trạng và tìm ra những nguyên nhân của mặt

mạnh, mặt tồn tại để từ đó đưa ra những giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH ở một địa phương, vì vậy tác giả đã

chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004"

làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt

Nam.

2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu

về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Tiêu biểu là một số công trình sau:

GS. Đỗ Đình Giao: "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa

nền kinh tế quốc dân", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; GS.TS Trần

Ngọc Hiên: "Mối quan hệ công - nông nghiệp - dịch vụ trong sự hình thành

nền kinh tế thị trường ở nước ta", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,

1997; TS. Đặng Văn Thắng, TS. Phạm Ngọc Dũng: "Chuyển dịch cơ cấu kinh

tế công, nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng thực trạng và triển vọng", Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Nguyễn Sinh Cúc: "Nông nghiệp, nông

thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới", Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003; PGS.TS Vũ

Năng Dũng (Chủ biên): "Nông nghiệp Việt Nam 61 tỉnh và thành phố", Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, 2001; Chu Hữu Quý, Nguyễn Kế Tuấn (đồng Chủ

biên): "Con đường công nghiệp hóa, hiện hóa nông nghiệp và nông thôn",

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

Ngoài ra, còn khá nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập đến

vấn đề này: Luận án tiến sĩ Lịch sử của Lê Văn Thai: "Quá trình hình thành

và phát triển đường lối đổi mới trong nông nghiệp của Đảng (1975 - 1996)",

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1997; Luận án tiến sĩ Lịch sử của

Nguyễn Việt Hùng: "Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo nông dân

ngoại thành phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn (1986

-1996)", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001; Luận án tiến sĩ

Kinh tế của Phạm Ngọc Dũng: "Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công -

nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Hồng - thực trạng và giải pháp", Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002; Luận văn thạc sĩ Lịch sử của

Phạm Công Thỉnh: "Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo phong trào hợp tác hóa

nông nghiệp theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và Nghị quyết 10 của Bộ Chính

3

trị", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; Luận văn thạc sĩ Lịch

sử của Nguyễn Ngọc Thanh: "Đảng bộ huyện Gia Lâm (Hà Nội) lãnh đạo

thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 - 2000)", Học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh, 2004...

Những công trình khoa học, sách, báo, tạp chí nêu trên đã khẳng định

tầm quan trọng của xây dựng phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

trong đó có kinh tế nông nghiệp, nêu bật được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao

của Đảng, được thể hiện bằng các đường lối, chính sách phát triển kinh tế và

sự vận dụng đường lối, chính sách đó vào các địa phương cụ thể.

Tuy nhiên, đây là vấn đề rất lớn và phong phú, vẫn còn nhiều nội dung

cụ thể mà các nhà nghiên cứu chưa đề cập tới, nhất là chưa có công trình khoa

học nào đi sâu nghiên cứu quá trình lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp của Đảng bộ tỉnh Hải Dương theo hướng CNH, HĐH trên địa bàn

tỉnh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích

+ Góp phần làm rõ đường lối, quan điểm của Đảng về chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH và quá trình Đảng bộ tỉnh

Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.

+ Khẳng định những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và

những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện. Từ đó, rút ra một số

kinh nghiệm, nhằm phát huy tốt hơn nữa việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp của tỉnh Hải Dương trong sự nghiệp CNH, HĐH.

+ Cung cấp thêm căn cứ khoa học làm cơ sở cho việc đẩy mạnh

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh.

- Nhiệm vụ

4

+ Trình bày hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương vận dụng

quan điểm, đường lối của Đảng lãnh đạo thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp từ 1997 đến 2004 theo hướng CNH, HĐH.

+ Làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, kết quả của quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1997 đến 2004 theo hướng

CNH, HĐH ở địa phương Hải Dương.

+ Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm, đề xuất một số kiến nghị, giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong

việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo đường lối của Đảng trong

những năm tiếp theo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc thực

hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh từ 1997 đến 2004.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận nghiên cứu

Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời

có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được công

bố liên quan đến đề tài.

- Phương pháp nghiên cứu

+ Dựa trên cơ sở phương pháp luận sử học mácxít. Luận văn sử dụng

phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, phương pháp phân tích và tổng hợp.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, điều tra

xã hội học... để trình bày làm rõ nội dung.

+ Nguồn tư liệu, luận văn chủ yếu dựa vào các văn kiện, nghị quyết

của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải

5

Dương và các báo cáo hằng quý, hằng năm của các sở, ban, ngành, đặc biệt là

của Sở Nông nghiệp và Cục Thống kê tỉnh Hải Dương.

6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài

- Trình bày một cách tương đối hệ thống và toàn diện quá trình Đảng

bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH từ 1997 đến 2004.

- Chỉ rõ thành tựu, hạn chế của quá trình đó, bước đầu rút ra một số

kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho

các ngành có liên quan, góp phần tổng kết thực tiễn gần 20 năm thực hiện đường

lối đổi mới của Đảng trên một địa bàn cụ thể, trong một lĩnh vực nhất định.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.

6

Chương 1

ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHUYỂN DỊCH

CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU

THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1997 - 2000)

1.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ THỰC TRẠNG CƠ CẤU KINH TẾ

NÔNG NGHIỆP TỈNH HẢI DƯƠNG TRƯỚC NĂM 1997

1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội

1.1.1.1. Vị trí địa lý - kinh tế của tỉnh

Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Từ ngàn xưa

nơi đây đã là lá chắn cửa ngõ phía Đông của kinh thành Thăng Long. Trải qua

bao biến thiên của lịch sử, đất và người Hải Dương luôn kiên cường trong đấu

tranh, cần cù và sáng tạo trong lao động, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam.

Hải Dương tiếp giáp với 6 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh,

Thái Bình, Hưng Yên và Hải Phòng. Trên địa bàn, nhiều trục giao thông quốc

gia quan trọng chạy qua, với chất lượng tốt như: đường 5, đường 18, đường

183... thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi với bên ngoài. Thành phố Hải

Dương - trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của tỉnh -

nằm trên trục quốc lộ số 5, cách Hải Phòng 45 km về phía Đông và cách Thủ

đô Hà Nội 57 km về phía Tây. Phía Bắc của tỉnh có hơn 20 km quốc lộ số 18

chạy qua nối sân bay quốc tế Nội Bài ra biển qua cảng Cái Lân (Quảng Ninh).

Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, Kép - Bãi Cháy đi qua Hải Dương là cầu nối

giữa Thủ đô và các tỉnh phía Bắc ra các cảng biển.

Là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị

trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng, Hải Dương có vai trò quan

7

trọng làm cầu nối Thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng, thành phố

du lịch Hạ Long; cung cấp sản phẩm hàng hóa quan trọng và là địa bàn tham

gia quá trình trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển và các thành

phố, các tỉnh trong vùng và cả nước; do vậy, vừa có cơ hội đóng vai trò là một

trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các thách thức trong

cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi thế. Trong triển

vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công

nghiệp, dịch vụ, thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành

phố lớn và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng.

Theo kết quả điều tra của Vụ Kinh tế địa phương, Bộ Kế hoạch và

Đầu tư về một số chỉ tiêu năm 2004 (Phụ lục 1), với 2,1% dân số, tổng GDP

của Hải Dương mới chỉ đạt 1,76% của cả nước, do vậy GDP bình quân đầu

người của tỉnh thấp hơn mức trung bình của cả nước. Hải Dương hiện đứng

thứ tư trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cả về tổng GDP và

GDP bình quân đầu người. Điều này thể hiện vị thế hiện tại của tỉnh chưa

tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển đối với một tỉnh đang ở vị trí

cầu nối đối với các cực phát triển của cả nước (Phụ lục 2).

1.1.1.2. Tiềm năng và khả năng khai thác các nguồn lực tự nhiên

và tài nguyên thiên nhiên vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

Địa hình: Do cấu trúc địa hình nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống

Đông Nam. Phía Đông của tỉnh có một số vùng trũng, thường bị ảnh hưởng

của thủy triều và bị úng ngập vào mùa mưa.

Toàn tỉnh Hải Dương được chia ra làm hai vùng chính: vùng đồi núi

chiếm khoảng 11% diện tích đất tự nhiên, gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và

18 xã của huyện Kinh Môn, chủ yếu là đồi, núi thấp phù hợp với xây dựng

các cơ sở công nghiệp, du lịch và trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và các loại cây

công nghiệp. Vùng đồng bằng gồm các huyện, xã còn lại, có độ cao trung

bình 3-4 m, đất đai bằng phẳng màu mỡ phù hợp với việc trồng cây lương

8

thực, cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Với địa hình này, Hải

Dương có khả năng phát triển mạnh và đa dạng các ngành sản xuất, nhất là

sản phẩm nông, lâm nghiệp.

Khí hậu: Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng

ẩm, được chia thành 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 23oC,

thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng. Lượng mưa trung bình hằng năm 1.500-

1.700 mm, phân bố không đều, tập trung vào tháng 6, 7, 8, dễ gây úng lụt, ảnh

hưởng không tốt đến sản xuất và dân sinh. Độ ẩm không khí trung bình cao từ

78-87%, tháng 3- 4 với độ ẩm trung bình từ 90-92%.

Nhìn chung, điều kiện khí hậu của tỉnh thuận lợi cho sự phát triển hệ

sinh thái động thực vật cũng như các hoạt động sản xuất, dịch vụ và du lịch.

Đặc biệt, điều kiện khí hậu vào mùa đông rất thuận lợi cho việc phát triển cây

rau, màu, thực phẩm, nhất là khả năng trồng rau xuất khẩu.

Tài nguyên đất: Năm 2004, diện tích tự nhiên của tỉnh là 164.837 ha,

trong đó đất nông nghiệp chiếm 63,3%; đất lâm nghiệp chiếm 6,08%, đất

canh tác 46,2%; đất ở 6,87%; đất chưa sử dụng 7,47%.

Đất đồng bằng chiếm khoảng 89% diện tích đất tự nhiên, chủ yếu là

đất phù sa sông Thái Bình, thuận tiện cho việc thâm canh và sản xuất nhiều

loại cây trồng cho năng suất cao. Trên một số diện tích đất canh tác thuộc các

huyện Tứ Kỳ, Gia Lộc, Nam Sách, Kinh Môn, Kim Thành... đã trồng luân

canh được 3 - 4 vụ trong một năm, do vậy, nâng hệ số quay vòng đất của tỉnh

từ 2 - 4 lần hiện nay lên 2,7 - 2,8 lần trong các năm tới là hướng khai thác có

hiệu quả nguồn đất đang sử dụng.

Đồi núi chiếm khoảng 11% diện tích tự nhiên, nằm gọn ở phía Đông

Bắc thuộc hai huyện Chí Linh và Kinh Môn. Nhóm đất này nghèo dinh

dưỡng, tầng mặt mỏng, nghèo mùn, độ phì thấp, chủ yếu phù hợp trồng các

loại cây lấy gỗ, cây ăn quả như vải thiều, dứa, cây công nghiệp như lạc, chè...

9

Tài nguyên nước: Hệ thống sông ngòi khá dầy đặc, bao gồm hệ thống

sông Thái Bình, sông Luộc, các sông trục Bắc Hưng Hải và An Kim Hải, có

khả năng bồi đắp phù sa đồng ruộng, cung cấp nguồn nước cho nhu cầu sản

xuất của các ngành, đồng thời cũng là những tuyến giao thông thủy, tạo điều

kiện cho việc giao lưu hàng hóa trong tỉnh, cũng như giữa Hải Dương với các

tỉnh khác trong vùng. Tuy nhiên, sông ngòi nhiều thường gây nên úng lụt, rất

khó khăn trong việc phòng chống lụt và ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất,

đời sống dân sinh.

Cùng với nguồn nước mặt khá phong phú trong hệ thống các sông

ngòi lớn, nhỏ, hồ, đầm và kênh, mương phân bố khắp trên địa bàn, trữ lượng

nước ngầm của Hải Dương khá dồi dào. Lượng nước ngầm tại các giếng

khoan đạt từ 30 - 50m3

/ngày đêm. Nguồn nước này nằm chủ yếu trong tầng

chứa nước lỗ hổng Pleitôxen, hàm lượng CL<200mg/1. Tầng khai thác phổ

biến ở độ sâu trung bình từ 40 - 120 m, ở phía bắc tỉnh, có thể khai thác tốt

cho nhu cầu nước sinh hoạt. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh cũng đã phát hiện một

số tầng nước ngầm có độ sâu từ 250 - 350 m, nhiều nơi có chất lượng nước

tốt, trữ lượng lớn, là tiềm năng cung cấp nước ổn định phục vụ sản xuất và

sinh hoạt của nhân dân.

Tài nguyên khoáng sản: Không nhiều, nhưng một số loại có trữ

lượng lớn, chất lượng tốt, giá trị kinh tế cao, là nguồn nguyên liệu để phát

triển công nghiệp như đá vôi (trữ lượng khoảng 200 triệu tấn, đủ để sản xuất

4-5 triệu tấn xi măng/1 năm); cao lanh (40 vạn tấn); sét chịu lửa (khoảng 8

triệu tấn)... Ngoài ra, tỉnh còn có tiềm năng về than đá, than bùn, đất sét, bô

xít, thủy ngân và nguồn nguyên liệu dồi dào cho sản xuất vật liệu xây dựng.

Nhìn chung, tài nguyên không giàu, điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, nhưng

hiệu quả quản lý khai thác chưa tốt, nhất là than, cát và đá.

Tài nguyên phục vụ du lịch trên địa bàn khá phong phú, nhất là trên

hai huyện miền núi phía Đông Bắc tỉnh là Chí Linh và Kinh Môn.

10

Chí Linh núi đồi trùng điệp, có độ cao trung bình không quá 400 m,

rừng cây xanh tốt, cảnh quan đẹp, nhiều hồ nước tự nhiên, nhiều di tích, di chỉ

văn hóa: Khu danh thắng Phượng Hoàng - Kỳ Lân là địa danh thích hợp cho

du lịch dã ngoại, vãn cảnh, leo núi, tham quan di tích lịch sử; Khu du lịch

danh thắng Côn Sơn là nơi cảnh đẹp thiên nhiên - tâm linh gắn liền với cuộc

đời của anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi và nhiều

danh nhân đất Việt khác như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang, đồng thời là một

trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm (Côn Sơn - Yên Tử - Trúc Lâm).

Kinh Môn thuộc vùng núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú. Nơi đây

còn lưu lại di tích của loài người thời đại đồ đá mới: Núi An Phụ với đền thờ

An Sinh Vương Trần Liễu (thân phụ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo) và

tượng đài người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo; hang động Kính Chủ và

vùng núi đá vôi Dương Nham gắn liền với những trang sử hào hùng chống

quân Nguyên của nhân dân ta.

Các huyện thuộc vùng đồng bằng cũng có tiềm năng du lịch phong

phú nhờ có cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, làng quê trù phú, mang đậm nét

đặc trưng của văn hóa Bắc Bộ: khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà nổi tiếng

với cây vải tổ; làng Cò, Chi Lăng Nam - huyện Thanh Miện, Văn miếu Mao

Điền - huyện Cẩm Giàng, gốm Chu Đậu - huyện Nam Sách...

Trên địa bàn tỉnh có nhiều di tích lịch sử văn hóa cách mạng, các làng

nghề, các lễ hội truyền thống, ẩm thực, các giá trị truyền thống và hiện đại khác

làm phong phú thêm nguồn tài nguyên du lịch của Hải Dương, tạo tiền đề

phát triển ngành du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong

tương lai.

1.1.1.3. Đặc điểm về dân số, dân cư, nguồn nhân lực và các vấn đề

xã hội

11

Dân số toàn tỉnh năm 2004 là 1.698.262 người; tỷ lệ tăng bình quân là

0,53%, mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 1.029 người/km2

. Cơ cấu dân số

Hải Dương thể hiện dân số trẻ, năm 2004 dân số trong độ tuổi lao động (chiếm

55,23% tổng dân số).

Cùng với phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, dân số thành thị tăng

nhanh: năm 2004 dân số thành thị gần gấp đôi so với năm 1996. Tỷ trọng dân

số đô thị trong tổng số dân số cao hơn các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng

(trừ Hà Nội, Hải Phòng). Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển, khả năng đô thị

hóa, tạo việc làm và tổ chức các hoạt động phi nông nghiệp còn rất chậm.

Đặc điểm dân cư và phân bố dân cư: Dân số nông thôn chiếm tỷ trọng

cao (86% tổng dân số), chủ yếu làm nông nghiệp, giàu truyền thống yêu nước,

có bề dày văn hóa, khéo tay. Ngoài canh tác lúa nước, dân cư Hải Dương còn

nổi tiếng với các nghề truyền thống như kim hoàn, chạm khắc gỗ, chế biến bánh

kẹo...

Trong bối cảnh phát triển mới, cư dân trong tỉnh vừa cố gắng gìn giữ

phát triển các ngành nghề truyền thống, vừa tiếp thu KH-CN hiện đại. Với óc

sáng tạo, năng lực cải tiến, đã hình thành thêm những ngành nghề mới, tạo ra

cục diện mới trong phân công và sắp xếp lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế,

tăng thu nhập cho chính mình và toàn cộng đồng.

Nguồn lao động dồi dào nhưng phần lớn là lao động phổ thông, tỷ lệ lao

động đào tạo thấp (23%), năng suất lao động chưa cao: năm 2004 giá trị bình quân

GDP thực tế /một lao động chung toàn nền kinh tế là 12.934.000 đồng/lao động,

(cả nước khoảng 14.300.000 đồng), trong đó nông nghiệp đạt 4.102.000

đồng/lao động, công nghiệp 39.039.000 đồng/lao động và dịch vụ đạt 32.320.000

đồng/ lao động. Như vậy năng suất lao động chung theo sơ bộ tính toán là tương

đối thấp so với cả nước. Trong các khối năng suất lao động, ngành nông - lâm -

thủy sản chỉ đạt 38% so với mức trung bình của tỉnh, công nghiệp - xây dựng

gấp 3,7 lần và ngành dịch vụ gấp 3 lần.

12

Thời gian sử dụng lao động trong nông nghiệp chiếm 78% (năm

2004). Cơ hội kiếm việc làm có thu nhập cao và điều kiện nâng cao trình độ,

kỹ năng làm việc còn nhiều bất cập. Chất lượng lao động nhìn chung còn

chưa đáp ứng yêu cầu phát triển: tỷ lệ được đào tạo thấp, thể lực, trí lực, tính

kỷ luật, tác phong còn ảnh hưởng của nền sản xuất nhỏ.

Lao động có việc làm và đang làm việc ở các ngành trong nền kinh tế

quốc dân tăng khá, song cơ cấu còn bất hợp lý. Số lao động làm việc tại các

ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ lệ thấp, trong khi số lao động khu vực

nông - lâm - thủy sản chiếm tỷ trọng lớn. Sở dĩ có sự bất hợp lý này là do:

- Khả năng thu hút lao động nông nghiệp sang các ngành nghề phi

nông nghiệp còn nhiều khó khăn, lao động có tay nghề có kỹ năng, được đào

tạo trong các lĩnh vực còn quá thấp, đặc biệt là khu vực nông thôn, khiến

người lao động không hoặc khó có cơ hội chuyển nghề, tìm việc làm mới

hoặc chuyển nghề và phải chấp nhận các công việc lao động giản đơn, truyền

thống dựa hẳn vào đồng ruộng theo kiểu cha truyền con nối. Theo điều tra

năm 2003, lao động có trình độ từ sơ cấp đến công nhân kỹ thuật có bằng trở

lên chiếm 24,5%.

Số lao động hằng năm tăng lên nhanh trung bình khoảng 6.000 người/năm.

Nếu cộng cả số lao động còn dôi dư và thiếu việc làm, thì vấn đề giải quyết

việc làm đặt ra là một bài toán rất khó khăn của địa phương. Trong khi đó các

ngành công nghiệp thiên về các công nghệ hiện đại sử dụng nhiều vốn.

Việc cải thiện bất hợp lý trong chuyển dịch cơ cấu lao động là rất khó

khăn vì trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra cạnh tranh gay gắt. Mặt

khác, trong tiến trình CNH, HĐH, nhu cầu nâng cao năng suất lao động dẫn

đến việc đào thải lực lượng lao động không có kỹ năng và chất lượng thấp,

tạo ra thất nghiệp, trong khi khả năng đào tạo và đào tạo lại kỹ năng cho hàng

loạt lao động hiện tại đang còn gặp nhiều khó khăn (Phụ lục 3).

13

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!