Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đại sử: Từ vụ nổ lớn đến hiện tại
PREMIUM
Số trang
352
Kích thước
4.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
894

Đại sử: Từ vụ nổ lớn đến hiện tại

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

© 2007 by Cynthia Stokes Brown

All rights reserved.

No part of this book may be reproduced, in any form,

without written permission from the publisher.

Published in the United States by The New Press, New York, 2007

Distributed by W. W. Norton & Company, Inc., New York

LIBRARY OF CONGRESS CATALOGING-IN-PUBLICATION DATA

Brown, Cynthia Stokes.

A big history: from the Big Bang to the present / Cynthia Stokes Brown.

p. cm.

ISBN978-1-59558-196-9 (hc.)

1. World history. 2. Human ecology. 1. Title.

D20.B.77 2007

909 – dc22aaaaaaaaa 2007006741

The New Press was established in 1990 as a not-for-profit alternative to the large, commercial

publishing houses currently dominating the book publishing industry. The New Press operates

in the public interest rather than for private gain, and is committed to publishing, in innovative

ways, works of educational, cultural, and community value that are often deemed insufficiently

profitable.

Unless indicated otherwise, illustrations were created by Rob Carmichael

Composition by dix!

This book was set in Kepler

Nhà xuất bản Trẻ độc quyền xuất bản ấn bản tiếng Việt tại Việt Nam

theo thỏa thuận với The New Press, 38 Greene Street, 4th floor, NY10013, USA

thông qua Tuttle-Mori Agency Co., Ltd.

Bản quyền tiếng Việt © Nhà xuất bản Trẻ 2009

BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN ĐƯỢC THỰC HIỆN BỞI THƯ VIỆN KHTH TP.HCM

Brown, Cynthia Stokes

Đại sử : từ vụ nổ lớn cho đến hiện tại / Cynthia Stokes Brown ; Phan Triều Anh d. - T.P.

Hồ Chí Minh : Trẻ, 2009.

350tr. ; 15,5x23cm.

Nguyên bản : Big history : from the Big Bang to the present.

1. Lịch sử thế giới. 2. Sinh thái học người. I. Phan Triều Anh d. II. Ts: Big history :

from the Big Bang to the present.

909 — dc 22

B877

Người dịch: Phan Triều Anh

Ảnh bìa: Trận chiến ở Issus. 1529. Albrecht Altdorfer

158,4x120,3 cm. Sơn dầu trên panel.

Bảo tàng Alte Pinakothek, Munich, Đức

Nhận thức được tình thế tiến thoái lưỡng nan của cộng đồng quốc tế [tác động

về môi trường của sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc từ năm 1945], các nhà sử học

thế giới cần nhìn xa hơn là chỉ tạo dựng một nguyên tắc để mô tả có hệ thống

các sự kiện lịch sử. Tiến trình tiến hóa về mặt sinh thái phải được coi là chủ đề

chính trong việc thuật lại lịch sử thế giới. Các sự kiện trong lịch sử loài người

phải được mô tả trong đúng bối cảnh mà chúng diễn ra - đó là hệ sinh thái của

Trái đất. Câu chuyện về lịch sử thế giới, nếu muốn cân bằng và chuẩn xác, sẽ

không thể tránh khỏi việc đánh giá môi trường tự nhiên và vô vàn tác động qua

lại với hoạt động của loài người.

— J. Donald Hughes

Bề mặt Trái đất: Môi trường và Lịch sử thế giới.

6 đại sử

Lời nói đầu aa7

Lời nói đầu

Đại sử kể lại câu chuyện hình thành Trái đất, từ vụ nổ lớn cho tới

thế giới ngày nay, một cách khoa học, cô đọng và dễ hiểu. Trong

quyển sách này, tôi sẽ tổng hợp nhiều nhánh kiến thức của loài

người vào trong một câu chuyện liền mạch duy nhất.

Nếu theo nguyên tắc truyền thống, lịch sử thế giới sẽ bắt đầu bằng

những sự kiện được ghi lại xảy ra cách đây khoảng 5.500 năm. Ở

đây, tôi mở rộng khái niệm “lịch sử” đến tận cùng giới hạn những

hiểu biết hiện nay của con người bằng các phương pháp khoa học,

sử dụng tất cả mọi dữ liệu và bằng chứng hiện có, không chỉ giới

hạn trong các tài liệu dưới dạng văn bản. Nghiên cứu lịch sử là một

phần của nghiên cứu khoa học và không có lý do gì để phân chia

những câu chuyện chưa được khám phá thành hai loại, một là “khoa

học” và một là “lịch sử”.

Chúng ta cần mở rộng lịch sử xa hơn về quá khứ, bởi những sự

kiện được ghi chép lại trong năm ngàn năm gần nhất chỉ là một

phần triệu của câu chuyện Trái đất. Để hiểu rõ Trái đất nơi ta sống

và bản chất loài người, chúng ta phải nhìn xa hơn những sự kiện

đã được ghi chép.

Tôi cũng không tin rằng có một cơ sở nào đó để phân biệt giữa

“tín ngưỡng” và “khoa học”. Trong vòng năm mươi năm qua, giới

khoa học đã đưa ra cách giải thích có thể kiểm chứng được về nguồn

gốc của vũ trụ, và phần lớn chúng đã được kiểm chứng – chúng ta

từ đâu tới, chúng ta tới đây thế nào, và chúng ta sẽ đi đến đâu. Đây

là sáng thế ký của thời đại chúng ta, về một thế giới được xây dựng

8 đại sử

trên những khám phá của khoa học hiện đại, một thế giới di chuyển

bằng máy bay phản lực, làm phẫu thuật ghép tim, và tận hưởng kết

nối Internet. Thế giới này sẽ chẳng thể tồn tại mãi mãi, nhưng cho

đến khi nó còn tồn tại, thì đây là câu chuyện của chúng ta.

Hiện tại chúng ta có thể đặt giả thiết khoa học rằng mình đang

ở vào giai đoạn nào của lịch sử vũ trụ – giai đoạn đầu, giữa, hay

cuối – và từ đó, theo tư duy hiện nay chúng ta có thể đặt lịch sử của

hành tinh này trong bối cảnh rộng hơn. Nhiều người vẫn còn tự ti về

sức mạnh của tư duy và trí tưởng tượng của con người trong tương

quan với vũ trụ. Đối với số khác, trong đó có tôi, chúng ta với tư

cách con người càng quan trọng hơn trong tương quan với vũ trụ.

Tôi cố gắng thuật lại những sự kiện, như chúng đang được biết hiện

nay, mà không cố gắng bình luận hay kết luận về những phản ứng

trái ngược của loài người đối với chúng, vì nhận thức rằng những

sự kiện này còn luôn thay đổi [dưới ánh sáng của những phát hiện

mới của loài người].

Bạn có thể thắc mắc tôi sẽ kể câu chuyện này bằng cách nào?

Một câu chuyện phải được kể dựa trên một cốt truyện, một chủ đề

nào đó. Mỗi một tác giả viết về lịch sử thế giới đều có điểm nhấn

riêng, giọng điệu riêng.

Tôi cố gắng bám vào những thông tin và lý thuyết đã được chấp

nhận rộng rãi trong cộng đồng khoa học, giữ cho mình khách quan

nhất trong khả năng của một con người. Tôi sẽ kể một câu chuyện

chứ không phải tranh luận. Là một người nghiên cứu lịch sử, tôi

nghiêng về lịch sử loài người nhiều hơn một nhà địa chất hay sinh

vật học cùng viết về đề tài này. Tôi cố giữ cho câu chuyện thật đơn

giản, không xâm phạm quá nhiều đến tính phức tạp cũng như mâu

thuẫn bất tận của lịch sử. Tôi đưa vào thật nhiều những điều tôi coi

là căn bản: khí hậu, thực phẩm, tình dục, thương mại, tôn giáo, các

ý tưởng khác, và các đế chế, các nền văn hoá.

Tất nhiên, sẽ có vài điểm nhấn phảng phất để làm cho bất cứ

một câu chuyện nào khỏi lẫn vào hằng hà sa số những câu chuyện

khác. Trong quyển sách này, cái nền chung đó là ảnh hưởng của

Lời nói đầu aa9

hoạt động của con người đối với quả đất, cũng như ảnh hưởng của

hành tinh này đối với con người. Khi tôi kết hợp câu chuyện của

Trái đất và con người sống trên đó, tôi thấy rằng những hành động

mà con người thực hiện để các thế hệ về sau sinh sôi nảy nở đã đẩy

môi trường Trái đất và những dạng sống trên đó vào mối đe dọa

nặng nề. Có thể nói vắn tắt, quyển sách này mô tả sự tăng trưởng

về mặt số lượng chứ không phải sự tiến hóa của loài người.

Chủ đề này xuất hiện khi tôi viết nó như thể một câu chuyện thay

vì theo cách khác. Rõ ràng, tâm trí tôi tập trung vào kể chuyện nên

có thể nói chính xác hơn rằng tôi nhận thấy chủ đề này lặp đi lặp

lại trong khi tôi cố gắng thuật lại toàn bộ câu chuyện của loài người

một cách gọn gàng nhất mà không phải cắt ngắn nó để bắt đầu từ

lúc con người biết trồng trọt. Chỉ với khung cảnh thời gian rộng hơn

mới cho thấy loài người đã làm những gì; tôi chỉ biết một phần chứ

không phải toàn bộ cho đến khi kể câu chuyện này.

Người khuyến khích tôi kể lại toàn bộ câu chuyện nhiều nhất

là David Christian, hiện là giáo sư lịch sử của trường Đại học San

Diego, California. Từ 1975 đến 2000, Christian dạy tiếng Nga và lịch

sử châu Âu tại Đại học Macquarie ở Sydney, Australia. Năm 1989,

ông mở một môn mới ở trường đó và gọi đùa là “đại sử”, theo như

cách mà ông muốn đồng nghiệp hiểu quan niệm của mình về môn

lịch sử đại cương. Môn học kéo dài một học kỳ này bắt đầu từ đầu –

tức là từ khởi điểm của vũ trụ. Christian khởi đầu với các bài giảng

về thời gian và những huyền thoại về tạo hoá, rồi giảng viên từ các

khoa khác được mời tiếp nối bằng các bài giảng chuyên ngành của

họ. Trong một bài báo trên tờ Journal of World History, Christian

đã mô tả lại kinh nghiệm của ông với môn học này. Bài báo đó đã

chuyển hướng tư duy của tôi. “Đại sử” đã trở thành một khái niệm

hiện đại cho hướng đi này, và vào năm 2004 Christian xuất bản tác

phẩm quan trọng Bản đồ thời gian: Giới thiệu về Đại sử nêu lên

tổng quan và các vấn đề chuyên môn của đại sử. Tôi đã nhất quyết

không đọc quyển sách đó cho đến khi hoàn thành bản thảo đầu

tiên của quyển sách này.

10 đại sử

Một người tiên phong đối với đại sử, trước cả khi khái niệm này ra

đời, là Clive Ponting ở trường Đại học Swansea, Wales, Vương quốc

Anh. Ông đã diễn giải về đại sử trong tác phẩm Lịch sử xanh của thế

giới: Môi trường và sự sụp đổ của các nền văn minh, là quyển sách

mà tôi yêu thích. Ponting không khởi đầu với vụ nổ lớn mà dành

một chương với tên gọi “Nền tảng của Lịch sử” trong đó ông mô tả

ảnh hưởng của những lực trong lòng đất và giữa các hành tinh qua

những thời kỳ dài.

Tôi đã bắt tay vào cuốn sách này rất vui vẻ nên tôi phải tri ân hai

tác giả khác trong thời kỳ đầu của đại sử: Larry Gonick, tác giả Lịch

sử vũ trụ bằng truyện tranh: từ vụ nổ lớn đến Alexander Đại đế, và

Eric Schulman, với cuốn Lược sử thời gian tóm tắt: từ Big Bang đến

Big Mac.

Đại sử, được định nghĩa như là lịch sử từ vụ nổ lớn cho tới ngày

nay, vẫn chỉ là một phân nhánh tí hon của một chuyên ngành thuộc

về lịch sử thế giới, mà môn lịch sử thế giới cũng chỉ bắt đầu hành

trình của riêng mình kể từ mùa xuân 1990. Đại sử vẫn chưa có lối

đi riêng và cũng mới có một số ít nhà nghiên cứu trên toàn thế giới

chính thức dạy đại sử trong các trường đại học. Những giáo sư khác

có lẽ còn đang nghiền ngẫm lịch sử vũ trụ và các hành tinh như

một phần giới thiệu về lịch sử thế giới hoặc các tín ngưỡng trên thế

giới. Thế thì tôi, một trong những người nghiên cứu tiên phong về

đại sử, làm cách nào có thể vượt qua những trở ngại và giáo điều

học thuật để giảng về nó và viết quyển sách này?

Để trả lời câu hỏi đó, tôi phải bắt đầu từ mẹ mình, Louise Bast

Stokes, người hướng tôi vào con đường nghiên cứu của mình bằng

những mối quan tâm đa dạng của bà: từ thiên văn học đến địa chất,

và từ sinh vật học đến những tín ngưỡng của thế giới. Là một giáo

viên trung học dạy môn sinh vật từ những năm đầu thập kỷ 30 của

thế kỷ trước, bà đã chấp nhận tiến hoá như là nguyên tắc căn bản

của cuộc sống và chỉ cho tôi thấy thế giới xung quanh qua lăng kính

đó. Do đó, “đại sử” đối với tôi là một cách thức tư duy tự nhiên,

một món quà từ mẹ tôi.

Lời nói đầu aa11

Lớn lên tại một thị trấn nhỏ ở phía tây Kentucky, tôi đã có cơ hội

trải nghiệm hai nền văn hoá song song ngay trong lòng nước Mỹ. Cha

mẹ tôi lớn lên phía nam Wisconsin, nhưng sau khi kết hôn vào năm

1935, họ đã về sống ở phía đông Kentucky, nơi cha tôi làm những

con đường xuyên qua núi. Khi tôi sắp ra đời (năm 1938), cha mẹ tôi

đã định cư ở phía tây Kentucky, thị trấn Madisonville, nơi cha tôi

và các cộng sự của ông mua lại và khai thác một mỏ than lộ thiên

nhỏ. Cha mẹ tôi là di dân, đến một nơi có nền văn hoá phương

Nam xa lạ, và cha tôi đã hòa nhập một cách trọn vẹn nhất có thể

trong khi mẹ tôi vẫn trung thành với những giá trị và phong tục của

Wisconsin, nơi bà sinh ra. Do đó, cách nhìn đa chiều đã hình thành

trong tôi, cùng với tình yêu đối với nghệ thuật kể chuyện, một món

quà từ cha tôi.

Đồng cảm với người mẹ của mình, tôi chưa bao giờ cảm thấy là

một phần của miền Nam, nhưng tôi vẫn ở đó suốt các năm học đại

học tại trường Duke ở Durham, Nam Carolina. Tôi nhận bằng thạc

sĩ về giáo dục tại Đại học John Hopkins và bắt đầu giảng lịch sử thế

giới cho học sinh trung học ở Baltimore, bang Maryland. Nhờ sự

khuyến khích của các giáo sư Đại học John Hopkins, và học bổng

của quỹ Woodrow Wilson và Hiệp hội Phụ nữ trong các trường đại

học Hoa Kỳ, tôi hoàn tất bậc tiến sĩ ngành lịch sử giáo dục tại trường

Hopkins năm 1964 với luận văn về bốn người Mỹ đầu tiên theo học

tại một trường đại học của Đức vào đầu thế kỷ 19.

Con trai đầu lòng của tôi ra đời ba tháng sau khi tôi lấy bằng tiến

sĩ và tôi sinh con trai thứ hai của mình hai năm sau đó tại thành

phố Fortaleza, Brazil, nơi người chồng đầu tiên của tôi làm bác sĩ

cho Tổ chức Hòa bình Mỹ. Thời gian hai năm sống ở Brazil đã làm

tiêu tan những giả định về văn hoá của tôi và mở mắt cho tôi về lịch

sử thế giới. Tác phẩm đầu tiên được xuất bản của tôi là về Paulo

Freire, nhà giáo dục vĩ đại của Brazil, người đã đi khỏi Recife năm

1964, chỉ một năm trước khi chúng tôi bắt đầu sống ở đó.

Sau Brazil, tôi sống ở Baltimore với các con, và vào năm 1969

chúng tôi chuyển đến Berkeley để bắt đầu một cuộc sống mới trong

12 đại sử

một nền văn hoá mở hơn bất kỳ nơi nào trước đó – nền văn hóa

hướng về Thái Bình Dương lẫn New York và châu Âu. Thời gian đó,

những chuyển đổi quan trọng đang diễn ra – thuyết đa văn hoá,

dự án Whole Earth Catalog do Stuart Brand khởi xướng năm 1968,

và cùng năm đó những bức ảnh quý giá chụp Trái đất mong manh

của chúng ta đang trôi trong không gian.

Khi tôi đã sẵn sàng cho một công việc nghiêm chỉnh có tính học

thuật (năm 1981), tôi vào trường sư phạm thuộc Đại học Dominican

bang California, lúc đó còn là Dominican College, chỉ đạo một

chương trình đào tạo chỉ có độc một môn. Tôi đặt số đầu và toàn

bộ các số sau đó của tạp chí Journal of World History và hỗ trợ thiết

lập một chương trình tại chức dành cho giáo viên với tên gọi Global

Education Marin, giúp họ phổ biến giáo trình của họ ra toàn cầu.

Chương trình đó sau này trở thành một phần trong sáng kiến toàn

tiểu bang mang tên Chương trình học tập quốc tế nhờ nỗ lực của

Đại học Stanford. Theo cách này, tôi cập nhật thông tin về những

phát triển của lịch sử thế giới và tìm thấy bài báo của Christian.

Với định hướng mới nghiên cứu về đại sử, tôi tìm cách bộc lộ ý

tưởng của mình. Mùa xuân năm 1992, tôi dạy một khóa với chủ đề

“Columbus và thế giới quanh ông” cho khoa Sử, và năm 1993 tôi

dạy một lớp sử thế giới cho những giáo viên tiểu học tương lai. Tôi

khởi đầu lớp này với cách giải thích của riêng mình về vụ nổ lớn

và quá trình tiến hóa của sự sống, dùng sách của Ponting làm giáo

trình và đề nghị sinh viên xây dựng niên biểu từ vụ nổ lớn cho tới

ngày nay. Sinh viên đã tiếp thu một cách vô cùng hứng thú; nếu có

lúc nào đó họ nản thì là tại tôi chứ không phải tại môn học.

Tôi trở về trường sư phạm với công việc chính thức, và khi có cơ

hội nghỉ một thời gian để làm nghiên cứu, tôi đã đề xuất viết lịch

sử thế giới. Một nửa hội đồng xét duyệt cho rằng đó là một ý tưởng

tuyệt vời trong khi nửa còn lại cười ngả nghiêng. Do đó, để vẫn được

nghiên cứu, tôi tạm thời bỏ qua ý tưởng về sử thế giới và thay vào

đó thì viết đề tài Chống phân biệt chủng tộc: Liên minh da trắng và

cuộc đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da den.

Lời nói đầu aa13

Sau khi nghỉ dạy chính thức, tôi đã nghỉ ngơi một thời gian ngắn,

rồi tất cả những gì tôi muốn làm là viết quyển sách này. Tôi bắt đầu

viết từ cuối tháng 9 năm 2002, sau cái chết của mẹ tôi, và hoàn thành

bản thảo đầu tiên vào tháng 12 năm 2004. Tôi sử dụng các bài báo

từ tạp chí New York Review of Books mà tôi đã lưu trữ trong suốt hai

mươi năm; xin cảm ơn Bob Silvers và Barbara Epstein. Tôi đã đọc

những tác phẩm tuyệt vời của những học giả đương đại, xin cảm

ơn Timothy Ferris, Lyn Margulis, Stephen Pinker, Jared Diamond,

J.R. and William H. McNeill, và David Christian.

Để thử những ý tưởng của mình với sinh viên, tôi quay lại giảng

dạy bán thời gian cho khoa Sử. Tôi tiếp tục giảng bài cho các giáo

viên tiểu học tương lai, và biên soạn một chương trình ba môn với

sự đóng góp của nhiều khoa khác nhau về một chủ đề liên kết đa

ngành, mà chúng tôi gọi là “Câu chuyện về vũ trụ”. Tôi rất biết ơn

truyền thống của trường Dominican luôn giới thiệu các môn liên

ngành như vậy. Chương trình của chúng tôi bao gồm môn của tôi,

“Tổng sử Trái đất”; môn của Jim Cunningham từ khoa Khoa học tự

nhiên với tên gọi “Sự sống trên Trái đất”; và môn của Phil Novak

từ khoa Triết/Tôn giáo, “Tín ngưỡng của thế giới”. Một lần nữa,

sinh viên có phản ứng rất nhiệt tình, hầu như không nhận ra rằng

chúng tôi đã làm điều gì đó bất thường. Tôi hết sức tri ân lòng can

đảm và tự tin của những đồng nghiệp đó khi tham gia vào chương

trình này, họ đã không ngần ngại vượt qua mọi biên giới học thuật.

Đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã đóng góp cho quyển sách

này nhiều hơn khi so sánh với bất kỳ tác phẩm nào trước đây của

tôi. Lãnh đạo trường Sư phạm, Barry Kaufman, và các đồng nghiệp

ở khoa Sử, đặc biệt là xơ Patricia Dougherty, dòng Đa minh, và

Martin Anderson, đã thường xuyên giúp đỡ tôi. Đồng nghiệp của tôi

ở chương trình Global Education Marin – Nancy van Ravenswaay,

Alice Bartholomew, và Ron Herring – đã chỉ lối cho tôi trong nhiều

năm qua. Chị tôi, Susan Hill, và con trai Ian Hill đã háo hức đòi tôi

từng chương mới của quyển sách như thể họ vô cùng nôn nóng chờ

quyển sách ra đời. Con riêng của chồng tôi, Deborah Robbins, giảng

14 đại sử

dạy Lịch sử thế giới tại Đại học High, Los Angeles đã thảo luận với

tôi từng vấn đề một và dẫn tôi đến với những ý tưởng mới. Con trai

Ivor của tôi chỉ dẫn cho tôi về sách và tạp chí trong khi con trai Erik

chăm sóc tôi suốt thời gian đó với nhiều món ăn ngon. Cô Jean của

tôi và chồng là chú Jorge Bustamante ở El Salvador luôn là nguồn

cảm hứng cho tôi. Các bạn tôi trên khắp thế giới đều đã góp phần

làm giàu cho hiểu biết của tôi.

Tôi biết ơn rất nhiều độc giả ban đầu của quyển sách này. Amit

Sengupta, giáo sư toán lý của trường Dominican, đã giúp kiểm tra

lại chương đầu, và Jim Cunningham, giáo sư Sinh vật, đọc lại giúp

tôi chương thứ hai. Đồng nghiệp dạy sử, Martin Anderson, giúp tôi

tránh được rất nhiều lỗi. Đồng nghiệp dạy triết/tôn giáo, Phil Novak,

nhìn tổng thể vấn đề của tôi rất nhanh và giúp tôi tự tin dù cho tác

phẩm dựa vào những giả thuyết duy vật. Những nhà sử học thế giới

John Mears và Kevin Reilly đưa ra những lời khuyên rất bổ ích. David

Christian đã giúp tôi rất nhiều. Những độc giả đã có đóng góp quan

trọng: Jim Ream, Chester Bowles, Margo Galt, Katie Berry, Marlene

Griffith, Joan Lindop, Philip Robbins, Susan Rounds, và Bill Varner.

Chồng tôi, Jack Robbins, đọc từng bản thảo một, tình yêu và sự hỗ

trợ của ông đã giúp cho quyển sách ra đời.

Tôi hết sức biết ơn đội ngũ nhân viên của Nhà xuất bản New Press,

đặc biệt là Marc Favreau, Melissa Richards, và Maury Botton, vì đã

thực hiện dự án này với lòng nhiệt thành và tính chuyên nghiệp

tuyệt vời.

Những sai sót còn lại trong quyển sách thuộc trách nhiệm của

riêng tôi.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!