Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đặc trưng ngữ nghĩa nhóm tính từ chỉ kích thước (trên ngữ liệu tiếng Nga và tiếng Việt)
PREMIUM
Số trang
207
Kích thước
1.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
805

Đặc trưng ngữ nghĩa nhóm tính từ chỉ kích thước (trên ngữ liệu tiếng Nga và tiếng Việt)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o

tr-êng ®¹i häc vinh

nguyÔn xu©n b×nh

®Æc tr-ng ng÷ nghÜa

cña nhãm tÝnh tõ chØ kÝch th-íc

(trªn Ng÷ liÖu tiÕng nga – tiÕng viÖt)

luËn ¸n tiÕn sÜ ng÷ v¨n

Vinh – 2009

3

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Những lí do khiến chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài “Đặc trưng ngữ nghĩa

của nhóm tính từ chỉ kích thước” (trên ngữ liệu tiếng Nga- tiếng Việt) là:

1.1. Tính từ chỉ kích thước là một trong những nhóm từ cơ bản của vốn từ

vựng của tiếng Nga và tiếng Việt. Chúng là loại tính từ tính chất đặc biệt, biểu

thị những thuộc tính của sự vật được con người phân chia trong quá trình tri

nhận. Đi sâu nghiên cứu nhóm tính từ này sẽ làm sáng tỏ cách thức, cơ chế mà

người Nga, người Việt tri nhận và ý niệm hoá các thực thể không gian, cách

định vị, xác định kích thước, kiểu loại, sự phân cắt sự vật thế giới khách quan.

Hướng nghiên cứu của đề tài phù hợp với những yêu cầu, hướng tiếp cận

của ngôn ngữ học tri nhận – một trường phái mới của ngôn ngữ học trên phạm

vi thế giới và ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung vào địa hạt

lí luận cũng như ứng dụng của ngôn ngữ học.

1.2. Thế giới hiện thực như một bức tranh được con người nhận thức, tái

tạo lại thông qua ngôn ngữ và bằng ngôn ngữ. Tư duy, văn hóa của các dân tộc

nói những thứ tiếng khác nhau được ánh xạ vào ngôn ngữ: có những chỗ tương

đồng và có những chỗ khác biệt.

Bức tranh ngôn ngữ về thế giới, khác với thế giới thực, do những đặc thù

về tri nhận và văn hóa, được phản ánh, được biểu hiện ra không hoàn toàn

giống nhau giữa các ngôn ngữ. Trong mỗi ngôn ngữ đều tồn tại một “sự quy

ước hóa” giữa những người bản ngữ để diễn đạt tư tưởng, tình cảm theo một

cách thức nhất định. Nói theo ngôn ngữ học tri nhận, trong các cấu trúc và quá

trình tri nhận, bên cạnh cái phổ quát, cái đồng nhất còn có cái tương đối, cái

đặc thù phản ánh một cách thức “phân cắt” riêng của cộng đồng bản ngữ về

các sự vật và sự tình của thế giới hiện thực, phản ánh những giới hạn và ràng

buộc của văn hóa đối với cách thức tri nhận.

4

Qua khảo sát, đối chiếu nhóm tính từ chỉ kích thước trên ngữ liệu tiếng

Nga và tiếng Việt, luận án hướng tới việc tìm ra những sự tương đồng và khác

biệt trong tri nhận không gian nói chung và cách thức cấu trúc hóa các quan hệ

và thuộc tính không gian nói riêng.

1.3. Tiếng Nga là ngôn ngữ biến hình, gây cho người học không ít khó

khăn ở bình diện ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng. Với người bản ngữ, việc nắm

bắt, lĩnh hội hình thái, ngữ nghĩa từ nói chung, ngữ nghĩa của tính từ chỉ kích

thước không gian nói riêng là không dễ dàng. Với người Việt, khi thụ đắc tiếng

Nga, trong đó có nhóm tính từ chỉ kích thước, lại càng gặp nhiều khó khăn

hơn.

Ngày nay yêu cầu dạy – học ngoại ngữ mang tính chuyên sâu, nên việc

dạy ngoại ngữ đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu và cặn kẽ các trường từ

vựng, trong đó có tiểu trường chỉ kích thước không gian. Các kết quả nghiên

cứu của luận án có thể giúp rút ra những kết luận về lí luận ngôn ngữ và ứng

dụng dạy - học, đưa ra những giải pháp nhằm góp phần giúp người dạy, người

học tiếng Nga và ngược lại người Nga học tiếng Việt có hiệu quả hơn.

2. Lịch sử nghiên cứu

Ngôn ngữ học tri nhận là một trào lưu mới mẻ, còn rất non trẻ và đang rất

thịnh hành của ngôn ngữ học hiện đại trên phạm vi toàn thế giới.

Trước năm 1989 - năm được coi là thời điểm ra đời của ngôn ngữ học tri

nhận, đã có những công trình được coi là “kinh điển” trong việc áp dụng quan

điểm tri nhận luận vào nghiên cứu các hiện tượng ngôn ngữ, như ngữ pháp tri

nhận của Langacker [152], ngữ nghĩa học khung của Fillmore, ngữ nghĩa học

tạo sinh của Lakoff [151], ngữ nghĩa học ý niệm của Jackendoff [149] và các

nghiên cứu của Talmy [160], Kay, Johnson - Laird, lí thuyết ngữ nghĩa của

Wierzbicka, lí luận không gian tinh thần của Fauconnier [144].

Trong gần 20 năm qua, ngôn ngữ học tri nhận dần dần đã xác định được

đối tượng và phạm vi nghiên cứu của mình, đã xác định được các luận điểm tư

tưởng, các khái niệm cơ bản, các nguyên lí và các phương pháp nghiên cứu

5

chủ đạo, và đã trở thành một trường phái mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến

hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm, sự tri giác của con

người về thế giới khách quan cũng như những cách thức mà con người tri giác,

ý niệm hóa và phạm trù hóa các sự vật và sự tình của thế giới khách quan đó.

Trong thời gian này hàng loạt các công trình của các nhà nghiên cứu như

Haiman (1985), Rudzka-Ostyn (1988), Geeraerts (1990), Goldberg (1996),

Ungerer và Schmid (1996), Langacker (1999), Dirven (2003), Croft và Cruse

(2004), Evans và Green (2006)… đã đưa ra một số quan điểm và nguyên lí cơ

bản của ngôn ngữ học tri nhận như sau:

a. Ngôn ngữ không phải là một khả năng tri nhận tự trị, có nghĩa rằng khả

năng ngôn ngữ không hoàn toàn độc lập với khả năng tri nhận, cơ chế ngôn

ngữ chỉ là một phần của cơ chế tri nhận phổ quát. Từ nguyên lí này có hai hệ

luận quan trọng: tri thức ngôn ngữ cơ bản là cấu trúc ý niệm và biểu hiện ngữ

nghĩa cơ bản là biểu hiện ý niệm. Quá trình tri nhận, chi phối sự sử dụng ngôn

ngữ là giống như các khả năng tri nhận khác.

b. Ngữ nghĩa và ngữ pháp là sự ý niệm hóa. Nguyên lí này nói lên cách tiếp

cận của ngôn ngữ học tri nhận tới các phương diện của cấu trúc ý niệm như cấu

trúc phạm trù, tổ chức của các tri thức, vai trò của các biến tố và kết cấu ngữ

pháp cũng như quá trình ý niệm hóa ở các hiện tượng ngữ nghĩa từ vựng, như

đa nghĩa, ẩn dụ và một số quan hệ từ vựng - ngữ nghĩa khác.

c. Tri thức ngôn ngữ nảy sinh ra từ sự sử dụng ngôn ngữ. Trên cơ sở

nguyên lí này, các nhà nghiên cứu khái quát rằng: Ngôn ngữ học tri nhận là

một mô hình đầy đủ định hướng vào sự sử dụng và người sử dụng ngôn ngữ,

bao quát các bình diện chức năng, dụng học, tương tác và xã hội - văn hóa của

ngôn ngữ trong sử dụng. Các phạm trù và cấu trúc trong ngữ nghĩa, ngữ pháp,

từ pháp và âm vị học đều được xây dựng trên cơ sở tri nhận của con người về

các phát ngôn riêng biệt trong khi sử dụng chúng.

David W. Carroll trong công trình “ Tâm lý học ngôn ngữ ” [142, 2004] đã

nghiên cứu và đề cập tới những luận điểm mang tính chất cơ sở về mặt phương

6

diện sinh học của ngôn ngữ. Ông đã đi sâu phân tích vùng chức năng não

Broca (tên nhà phẫu thuật nổi tiếng người Pháp) liên quan tới quá trình tư duy,

suy luận, điều chỉnh và sáng tạo của con người; vùng não Wernicke liên quan

tới chức năng nghe, nói. Carroll đã đưa ra mô hình xử lí ngôn ngữ Geschwind.

Theo mô hình này, đầu tiên hình ảnh được thu nhận qua cơ quan thị giác và gửi

tới vùng xử lí thị giác của bộ não (gọi là vùng hồi nếp cong), thông tin từ đây

được chuyển tới khu vực chức năng nghe, nói Wernicke và sau đó tạo thành

một chuỗi các đơn vị ngôn ngữ có nghĩa. Các chuỗi đơn vị ngôn ngữ này qua

các dây âm giữa hai vùng não đến vùng Broca. Tại đây, thông tin được giải mã

cùng những yêu cầu khởi động và gửi tới các cơ lời nói, cuối cùng là phát âm

thành lời nói.

Qua thực nghiệm này, Carroll chỉ ra rằng cấu trúc não của những người

bình thường cùng có chức năng như nhau trong quá trình tri nhận thế giới

khách quan. Các kĩ năng ngôn ngữ khác nhau liên quan tới các phần khác nhau

của bộ não. Các cá nhân bị tổn thương não thì quá trình tri nhận bị ảnh hưởng

và dẫn tới sự “ thâm thủng ” ở phương diện nào đó về mặt ngôn ngữ.

Vùng Broca

Vùng khởi

động

Vùng thu nhận

hình ảnh

ban

đầu

Vùng hồi nếp

Vùng cong

Wernicka

7

Ông cũng trình bày và phân tích mối quan hệ, tác động giữa ngôn ngữ,

văn hoá và tri nhận. Dựa trên giả thuyết của Benjamin Lee Whorf, ông khẳng

định rằng cấu trúc ngôn ngữ là cái xác định cách nhìn đối với thế giới khách

quan của người nói. Những ngôn ngữ khác nhau dẫn tới những cách nhìn thế

giới khác nhau. Ông cho rằng, sự khác nhau về từ vựng, ngữ pháp giữa các

ngôn ngữ ảnh hưởng tới quá trình tri nhận và các cá nhân có trình độ ngôn ngữ

và văn hoá khác nhau sẽ tư duy khác nhau.

Sau đây là một ví dụ thực nghiệm tâm lý [85] được tiến hành tại Đại học

Michigan (Mỹ) năm 2005:

27 sinh viên du học người Trung Quốc (14 nam, 13 nữ) và 25 sinh viên

người Mỹ và Tây Âu (10 nam, 15 nữ) được mời tham gia thí nghiệm: họ được

mời vào một căn phòng, ngồi cách một màn hình (52,8cm), mắt nhìn thẳng

(không nhìn sang hai bên), đầu cũng giữ thẳng và được đội một chiếc mũ đặc

biệt có gắn camera để theo dõi chuyển động của nhãn cầu. Họ được chiếu cho

xem lần lượt 36 bức ảnh, có hình một con vật hay đồ vật (cái thuyền, máy bay)

trên một phông nền nào đó, cứ 03 giây một bức. Sau khi xem xong, họ được

mời sang một phòng khác, nghỉ 10 phút nhưng không phải để ăn uống, mà để

quên đi những bức ảnh vừa xem bằng cách là: họ được yêu cầu làm tính nhẩm

với phép tính trừ đi 7 là phép trừ nhẩm khó nhất, bắt đầu từ 100 cho đến hết, để

buộc bộ não của họ phải hoạt động rất tích cực. Sau 10 phút đó, họ lại được

đưa đi xem tiếp các bức ảnh, với một cách thức có khác đi như sau: người ta

vừa chiếu lại các bức ảnh cũ 100%, vừa xen vào chiếu 36 bức ảnh không còn

hoàn toàn giống như cũ mà có chỗ “mới” là thay đổi con vật (hay đồ vật) mới

trên phông nền cũ hoặc ngược lại thay đổi phông nền mới trong khi con vật

(hay đồ vật) vẫn như cũ. Nhiệm vụ của các sinh viên-thử nghiệm viên là phải

trả lời thật nhanh xem họ đã nhìn thấy bức ảnh đó ở lần chiếu trước hay chưa?

Kết quả rất thú vị, hóa ra là người phương Đông và người phương Tây có

“cách nhìn thế giới” khác nhau; cụ thể là: lúc ban đầu họ đều giống nhau là

nhìn vào phông (nền) của bức ảnh (mất khoảng 4/10 giây), nhưng sau đó thì

8

khác - nếu sinh viên Mỹ nhìn vào đối tượng trung tâm của bức ảnh, thí dụ là

một con hổ, và họ bắt đầu nhận dạng nó rất to, mình vằn vện, tai tròn; thì sinh

viên Trung Quốc lại chỉ nhìn qua con hổ, còn sau đó họ để ý đến các phần khác

của phông nền bức ảnh như có vũng nước dưới chân con hổ, sau nó là một cây

to. Do đó, khi được xem các bức ảnh lần thứ hai, sinh viên Trung Quốc không

nhận ra là bức ảnh cũ nếu ta thay đổi phông nền của bức tranh (thí dụ, thay vì

máy bay đang bay trên trời, ta lại cho nó đang chạy trên đường băng). Sinh

viên người Mỹ và Tây Âu thì ngược lại, họ dễ dàng nhớ là đã thấy bức ảnh có

máy bay này, nhưng lại khó nói rõ là nó đang bay trên trời hay đang đậu ở sân

bay. Một trong những tác giả của thí nghiệm này, R. Nisbett, cho rằng: “Dường

như sự khác nhau trong cách tiếp nhận thông tin từ môi trường xung quanh là

hệ quả của những nền văn hóa khác nhau mà con người được giáo dục trong

đó”.

Như vậy, có thể nói rằng cấu trúc tư duy tri nhận trong não người của con

người là không có sự khác biệt lớn, nhưng khi tri nhận kích thước, hình dáng

vật thể không gian được biểu thị bằng ngôn ngữ thì chịu sự tác động và qui

định của thói quen, đặc thù văn hoá dân tộc.

Tại Việt Nam, ngôn ngữ học tri nhận với tư cách là một xu hướng ngôn

ngữ học mới, xuất hiện và phát triển mạnh trong những năm 90. Nhiều công

trình nghiên cứu không gian theo hướng tri nhận có quan điểm vượt ra ngoài

phạm vi cấu trúc luận trong ngôn ngữ học truyền thống, như Nguyễn Lai

(1990) với luận án tiến sĩ khoa học và chuyên luận về “Nhóm từ chỉ hướng vận

động trong tiếng Việt”; Dư Ngọc Ngân (1996) với luận án tiến sĩ “Từ chỉ

không gian – thời gian khái quát trong tiếng Việt (từ thế kỉ 17 đến nay)” và

chuyên luận “Đặc điểm định vị không gian trong tiếng Việt”; Nguyễn Đức Dân

(1992) với “Triết lí tiếng Việt - không gian - điểm nhìn và sự chuyển nghĩa của

từ”; Trần Quang Hải (2001) với luận án tiến sĩ “Nghiên cứu giới từ định vị

theo hướng ngữ dụng” (trên tư liệu tiếng Anh và tiếng Việt).

9

Lý Toàn Thắng [84] với những công trình nghiên cứu về tri nhận không

gian như luận án tiến sĩ khoa học “Mô hình không gian của thế giới: sự tri

nhận, văn hóa và tâm lí học tộc người” bảo vệ năm 1993 tại Viện ngôn ngữ

học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga, chuyên luận “Ngôn ngữ và sự tri nhận

không gian” (1994) và cuốn sách “Ngôn ngữ học tri nhận, từ lí thuyết đại

cương đến thực tiễn tiếng Việt”… đã có đóng góp rất nhiều cho hướng nghiên

cứu này. Ông đã nêu ra một số luận điểm quan trọng của ngôn ngữ học tri

nhận như sau:

- Ngôn ngữ học tri nhận có mục đích nghiên cứu một cách bao quát và toàn

diện chức năng tri nhận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ vừa là sản phẩm của hoạt

động tri nhận vừa là công cụ của hoạt động tri nhận của con người. Cấu trúc và

chức năng của ngôn ngữ được coi là kết quả và sự phản ánh của hoạt động tri

nhận của con người.

- Ngôn ngữ học tri nhận là cánh cửa để đi vào thế giới tinh thần, trí tuệ của

con người, là phương tiện để đạt tới những bí mật của quá trình tư duy. Trọng

tâm nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận được chuyển từ tư duy sang ý thức,

quan tâm đến các quá trình ý niệm hóa và phạm trù hóa thế giới khách quan.

- Sự hình thành cấu trúc ý niệm có quan hệ chặt chẽ với kinh nghiệm và

các chiến lược tri nhận của con người.

- Ý nghĩa của ngôn ngữ không hạn chế trong nội bộ hệ thống ngôn ngữ mà

có nguồn gốc từ kinh nghiệm được hình thành trong quá trình con người và thế

giới tương tác, từ tri thức và hệ thống niềm tin của con người. Ngữ nghĩa là

một bộ phận của hệ thống ý niệm tổng thể, không mang tính tự trị, độc lập.

Lý Toàn Thắng cũng nêu ra ba xu hướng tiếp cận nghiên cứu chính trong

ngôn ngữ tri nhận.

Thứ nhất là tính kinh nghiệm, có nghĩa rằng trong quá trình tạo sinh các

từ và câu, điều gì sẽ xảy ra trong trí não người nói và các thuộc tính của sự vật,

những liên tưởng và ấn tượng của người nói được miêu tả như thế nào. Cách

tiếp cận này giúp các nhà ngôn ngữ học tri nhận khảo sát những vấn đề như các

10

phạm trù tri nhận, sơ đồ hình ảnh, mô hình điển dạng, nội dung và cấu trúc tri

nhận của các ẩn dụ.

Thứ hai là mức độ “nổi trội” của các cấu trúc ngôn ngữ. Cách tiếp cận

này liên quan chặt chẽ với quá trình tri nhận không gian của con người, tiếp

nối nguyên lí tách biệt “hình” và “nền” của trường phái tâm lí học Gestalt :

yếu tố “nổi trội”, hấp dẫn nhất của sự tình được tách riêng, ý niệm hóa như

một “hình” nổi bật hơn về phương diện tri giác so với sự vật được ý niệm hóa

là “nền”.

Thứ ba là mức độ “thu hút sự chú ý” của các yếu tố và bình diện khác

nhau của một sự tình. Đây là cách tiếp cận hướng tới tính phổ quát và sự khác

biệt trong biểu đạt của một ngôn ngữ và các ngôn ngữ trước một sự tình, sự

vật.

Về lĩnh vực tri nhận không gian có rất nhiều vấn đề đáng bàn và nghiên

cứu. Trong các từ loại có ẩn chứa nét nghĩa không gian, trên thế giới và ở Việt

Nam, theo ghi nhận của chúng tôi, giới từ định vị không gian được nhiều học

giả, nhà nghiên cứu quan tâm hơn cả. Tuy nhiên, riêng mảng tính từ không

gian (ùðợủũðàớủũõồớớợồ ùðốởàóàũồởỹớợồ), đặc biệt là tính từ chỉ kích thước

(ùðợủũðàớủũõồớớợồ ùðốởàóàũồởỹớợồ ðàỗỡồðà), trong nhiều ngôn ngữ, trong

đó có tiếng Việt, chưa được quan tâm nhiều và ít có những chuyên luận bàn

sâu về chúng. Trường hợp duy nhất có lẽ là luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Dự

(bảo vệ năm 2004) về “Ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của nhóm tính từ chỉ không

gian (trên ngữ liệu Anh- Việt)” [27] . Luận án này chủ yếu phân tích, miêu tả

các tính từ như: high-low, tall-short, deep-shallow, thick-thin, long-short,

wide/broad-narrow. Vấn đề ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ kích thước tiếng

Nga và tiếng Việt dưới góc độ tri nhận không gian đang còn là vấn đề mới,

chưa được ai bàn đến. Trong khi đó, đây là một vấn đề có tính lí luận và thực

tiễn rất đáng được quan tâm và nghiên cứu. Việc tìm hiểu, khảo sát về vấn đề

này sẽ giúp ta hiểu rõ hơn tầm quan trọng của khái niệm không gian trong hệ

thống ngôn ngữ cũng như các đặc điểm ngữ nghĩa các tính từ chỉ kích thước

11

trong tiếng Nga và tiếng Việt, và góp phần phát hiện những nét đặc trưng tư

duy và văn hóa của người Nga và người Việt được phản ánh qua nhóm từ này.

3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và nguồn tƣ liệu

Đối tượng nghiên cứu là nhóm tính từ chỉ kích thước trong tiếng Nga:

õỷủợờốộ – ớốỗờốộ, óởúỏợờốộ – ỡồởờốộ , ũợởủũỷộ – ũợớờốộ, ọởốớớỷộ –

ờợðợũờốộ, ứốðợờốộ – úỗờốộ, ỏợởỹứợộ – ỡàởồớỹờốộ trong sự đối sánh với

nhóm tính từ tương đương trong tiếng Việt: cao – thấp, sâu –nông, dày –

mỏng, dài – ngắn, rộng – hẹp, to – nhỏ. Đây là những tính từ có vai trò biểu thị

các ý nghĩa về kích thước của các vật thể trong không gian.

Luận án sẽ tập trung vào những vấn đề ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ

kích thước, các cơ chế định vị kích thước, cơ chế tri nhận kích thước và cách

dùng của các tính từ trên.

Luận án do đó sẽ không đề cập đến các tính từ biểu đạt các thuộc tính

không gian khác chỉ hình dáng “vuông, tròn, méo” hay chỉ tư thế “ngang,

nghiêng, chéo, chênh vênh”.

Nguồn tư liệu được sử dụng trong luận án là ngữ liệu được rút ra từ các từ

điển đối chiếu Nga – Việt, Việt – Nga hoặc các từ điển tường giải tiếng Nga và

tiếng Việt. Nguồn tư liệu còn được lấy từ các giáo trình, sách giáo khoa, các

công trình nghiên cứu, luận án tiến sĩ, luận án thạc sỹ, các tác phẩm văn học

nghệ thuật,…

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án hướng đến những mục đích chính sau:

a. Góp phần làm rõ ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ kích thước trong tiếng

Nga và tiếng Việt, đặc biệt là phát hiện những nghĩa, nét nghĩa chưa có trong

từ điển, hoặc nếu có thì chưa được làm sáng tỏ, hoặc đang còn mang tính khái

quát cần được miêu tả cụ thể hơn của nhóm tính từ chỉ kích thước trong tiếng

Nga và tiếng Việt.

12

b. Góp phần làm rõ cơ chế tri nhận không gian nói chung và kích thước nói

riêng của người Nga và người Việt.

c. Ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn dạy và học tiếng Nga ở

Việt Nam, đưa ra những giải pháp để khắc phục lỗi mà người học tiếng Nga

thường mắc phải về các tính từ chỉ kích thước.

4.2. Nhiệm vụ của đề tài

Đề tài thực hiện các nhiệm vụ chính sau:

a. Phân tích, miêu tả ngữ nghĩa của các tính từ chỉ kích thước trong tiếng

Nga và tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu trong từ điển, làm rõ mối quan hệ có tính

hệ thống giữa từ và ngữ nghĩa của chúng.

b. Đối chiếu nghĩa và cách thức biểu đạt các thuộc tính không gian của

nhóm tính từ chỉ kích thước trong tiếng Nga và tiếng Việt qua kết hợp của

chúng với các thực thể không gian, nhằm chỉ ra những nét giống và khác nhau

về cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm tính từ trên.

c. Phát hiện những điểm giống nhau và khác nhau trong cơ chế, cách thức

tri nhận không gian của người Nga và người Việt qua mối quan hệ giữa tư duy,

văn hóa và ngôn ngữ.

d. Chỉ ra những khu vực giao thoa ngôn ngữ và văn hóa, nguyên nhân gây

ra lỗi đối với người học tiếng Nga và đề xuất những giải pháp để hạn chế lỗi và

cách sửa lỗi trong quá trình dạy, học tiếng Nga.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ bản sau:

5.1. Phương pháp miêu tả, phân tích, tổng hợp

Trên cơ sở thống kê phân loại, khảo sát, so sánh đối chiếu, chúng tôi tiến

hành miêu tả, phân tích các ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa khái quát của nhóm tính

từ chỉ kích thước, sự hành chức trong sự kết hợp với các thực thể không gian

và cách biểu đạt các thuộc tính không gian của chúng.

5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu

13

Phương pháp này được sử dụng trong những nghiên cứu xuyên ngôn ngữ.

Các nghĩa, nét nghĩa, các hiện tượng giữa hai ngôn ngữ được so sánh với nhau.

Trong luận án, công việc này được tiến hành xung quanh một nhóm tính từ và

tiếng Nga được lấy làm chuẩn so sánh và tiếng Việt là đối tượng so sánh.

5.3. Phương pháp thống kê phân loại

Phương pháp này được sử dụng để thống kê phân loại các tính từ chỉ kích

thước, các nghĩa, nét nghĩa trong từ điển và trong cách sử dụng của các tính từ

chỉ kích thước.

5.4. Phương pháp khảo sát, thực nghiệm

Chúng tôi lựa chọn những văn bản, soạn thảo những câu dịch tiếng Nga

và tiếng Việt có sử dụng các tính từ chỉ kích thước để tiến hành khảo sát thực

nghiệm với các đối tượng học sinh, sinh viên chuyên và không chuyên tiếng

Nga ở các trường trung học phổ thông và đại học.

Kết quả khảo sát được tổng hợp, phân tích là cơ sở để đưa ra những giải

pháp cụ thể trong ứng dụng nghiên cứu của đề tài.

6. Đóng góp của luận án

Luận án của chúng tôi có những đóng góp chính như sau:

- Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu tính từ chỉ kích thước trong tiếng Nga

và tiếng Việt theo mô thức có tính song ngữ và liên văn hóa. Đồng thời, nhóm

tính từ này được nghiên cứu theo hướng tri nhận không gian đặt trong mối

quan hệ bộ ba: tư duy, ngôn ngữ, văn hóa.

- Luận án có giá trị thực tiễn, không những giúp hiểu biết sâu hơn, có cái

nhìn sâu sắc hơn về đặc trưng tri nhận không gian của hai dân tộc Nga và Việt,

mà còn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Nga, công tác dịch

thuật từ tiếng Nga sang tiếng Việt và ngược lại.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án bao gồm bốn chương như sau:

Chương 1: Những khái niệm, tiền đề cơ bản liên quan đến luận án

14

Chương này trình bày một số vấn đề lí luận cơ bản liên quan đến luận án:

lịch sử nghiên cứu, đối chiếu ngôn ngữ dưới góc độ ngôn ngữ, tư duy và văn

hóa, nghĩa của từ và trường từ vựng – ngữ nghĩa, đặc điểm của tính từ-tính từ

chỉ kích thước, không gian ngôn ngữ.

Chương 2: Đặc trưng ngữ nghĩa của các tính từ chỉ kích thước theo

phương thẳng đứng

Chương này tập trung miêu tả, đối chiếu ngữ nghĩa, cách sử dụng của các

tính từ chỉ kích thước theo phương thẳng đứng, chỉ ra sự tương đồng và khác

biệt trong tri nhận không gian của người Nga và người Việt.

Chương 3: Đặc trưng ngữ nghĩa của các tính từ chỉ kích thước theo

phương nằm ngang

Chương này tập trung miêu tả, đối chiếu ngữ nghĩa, cách sử dụng của các

tính từ chỉ kích thước theo phương nằm ngang, chỉ ra sự tương đồng và khác

biệt trong tri nhận không gian của người Nga và người Việt.

Chương 4: Ứng dụng kết quả nghiên cứu của nhóm tính từ chỉ kích thước

dưới góc độ tri nhận không gian vào dạy và học tiếng Nga, tiếng Việt.

Trong chương này, luận án chỉ rõ những sự giống nhau và khác nhau cơ

bản về tri nhận không gian của người Nga và người Việt; khảo sát và thực

nghiệm kết quả nghiên cứu qua các văn bản dịch trên các đối tượng học sinh,

sinh viên; các khu vực giao thoa ngôn ngữ và văn hóa, nguyên nhân gây lỗi;

những giải pháp, khuyến nghị đối với chương trình, tài liệu học tập, người dạy

và người học dưới góc độ tri nhận không gian.

15

CHƢƠNG 1

NHỮNG KHÁI NIỆM, TIỀN ĐỀ CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1. Đối chiếu ngôn ngữ nhìn từ góc độ ngôn ngữ, tƣ duy và văn hoá

Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Ngôn ngữ là phương tiện,

công cụ diễn đạt tư duy, tư tưởng. Với công cụ này ngôn ngữ đã hoàn tất

nhiệm vụ quan trọng trong tất cả các phương diện khác nhau như những thông

tin mang tính xã hội, phản ánh tâm tư, tình cảm của từng cá nhân. Thế giới

khách quan là một chuỗi liên tục, nhưng khi thế giới khách quan đó được phản

ánh trong tư duy, trong ý thức thì ở từng ngôn ngữ cụ thể của mỗi dân tộc,

thông qua và bằng ngôn ngữ đó, cái thế giới ấy lại mang những nét đặc thù

16

riêng. Tìm hiểu kĩ nét đặc trưng này chúng tôi sẽ rút ra được các thông số rất

quan trọng về mối quan hệ giữa ngôn ngữ, tư duy và văn hoá làm tiền đề về

mặt lý thuyết, trên cơ sở đó, chúng tôi dựa vào để tiến hành nghiên cứu các

phần tiếp theo.

Thuật ngữ “văn hoá” hiện nay được sử dụng rộng rãi, phổ biến. Tuy nhiên,

để hiểu một cách chính xác nội dung thuật ngữ này là một vấn đề không đơn

giản. Cho đến nay đã có khoảng 400 định nghĩa khác nhau về “văn hoá”. Tuy

nhiên, có một thực tế là: mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hoá riêng, vì bất kì cái

gì ta hình dung cũng có mặt văn hoá, dù đó là cây cối, khí trời đến phong tục,

cách tổ chức xã hội, các hoạt động tổ chức vật chất và tinh thần, các sản phẩm

của các hoạt động ấy, do vậy khó có thể tìm một định nghĩa thao tác luận cho

văn hoá nếu dựa vào xã hội học, kinh tế học, chính trị học…Cũng không thể

tìm được cái gì chung, vì không thể liệt kê hết các mặt khác nhau giữa chúng.

Chỉ còn cách tìm ngay ở bản thân con người, căn cứ vào sự khác biệt giữa con

người và các động vật khác [62, tr.144 ].

Theo giáo sư Phan Ngọc, xét theo nghĩa gốc, văn hoá gắn liền với giáo

dục, đào tạo con người, một tập thể người để cho họ có được những phẩm chất

tốt đẹp, cần thiết cho toàn thể cộng đồng. Theo ông, khi thuật ngữ “văn hoá”

vào phương Đông, qua tiếng Hán, nghĩa gốc của “văn” là cái đẹp do màu sắc

tạo ra, có nghĩa là hình thức biểu hiện trong lễ, nhạc, cách cai trị và đặc biệt là

trong ngôn ngữ, cách cư xử lịch sự. Nó biểu hiện một hệ thống quy tắc ứng xử

được xem là đẹp đẽ. Do đó, “văn” trở thành một yếu tố then chốt của chính trị

và lý luận, thu hút những người dị tộc theo người Hán bằng chính cái Văn của

nó.

Năm 1938 Đào Duy Anh đã viết: “Người ta thường cho rằng văn hoá là

chỉ những học thuật tư tưởng của loài người, nhân thế mà xem văn hoá có vốn

tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy, học thuật tư tưởng

cố nhiên là ở phạm vi văn hoá, nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về chính

trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục tập quán thường lại không phải ở

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!