Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết đoàn minh phượng
PREMIUM
Số trang
138
Kích thước
1.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1428

Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết đoàn minh phượng

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

LƯU THỊ TUYẾT

ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT

TRONG TIỂU THUYẾT ĐOÀN MINH PHƯỢNG

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số : 60.22.34

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng - Năm 2012

Công trình được hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HỒ THẾ HÀ

Phản biện 1: PGS. TS. Nguyễn Phong Nam

Phản biện 2: TS. Lê Thị Hường

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn

thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học Đà Nẵng

vào ngày 01 tháng 12 năm 2012.

* Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng

- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong quá trình phát triển theo xu hướng hội nhập với tiến trình

văn học thế giới, văn học Việt Nam nói chung, tiểu thuyết nói riêng

đã xuất hiện một lực lượng sáng tác hùng hậu không chỉ ở trong nước

mà cả ở hải ngoại. Những cây bút tiểu thuyết như Hồ Anh Thái, Tạ

Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Danh

Lam, Nguyễn Việt Hà,..với những thể nghiệm mới trong cách tân thể

loại đã góp phần đưa tiểu thuyết Việt Nam hòa nhập sâu rộng hơn với

tiểu thuyết hiện đại của thế giới. Như một phần không thể thiếu trong

đời sống văn học dân tộc, sự góp mặt các tác phẩm văn học của tác

giả hải ngoại những năm gần đây như: Sông Côn mùa lũ (Nguyễn

Mộng Giác), Tìm trong nỗi nhớ, Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai),

Chinatown, Pari 11 tháng 8, T mất tích (Thuận), Gió từ thời khuất

mặt (Lê Minh Hà), Và khi tro bụi, Mưa ở kiếp sau (Đoàn Minh

Phượng),… đã chứng tỏ một diện mạo mới của nền văn học dân tộc.

Với hai cuốn tiểu thuyết Và khi tro bụi và Mưa ở kiếp sau, Đoàn

Minh Phượng đã được ghi nhận và đánh giá cao của Hội Nhà văn

Việt Nam qua giải thưởng văn xuôi duy nhất trao tặng vào năm 2007

cho tiểu thuyết Và khi tro bụi.

Sở hữu một gia tài tiểu thuyết khá khiêm tốn nhưng hai cuốn tiểu

thuyết của Đoàn Minh Phượng lại thể hiện khá toàn diện những yêu

cầu cách tân của văn học hiện đại. Tác giả đã thể hiện trong tiểu

thuyết một cách cảm nhận đời sống mang tính đặc thù: Sự đổ vỡ của

trật tự xã hội, sự xáo trộn các giá trị của cuộc sống, con người rơi vào

sự hoài nghi, mất niềm tin, cô đơn, lạc loài,…và những đổi mới về

cấu trúc, về ngôn ngữ, giọng điệu, nghệ thuật trần thuật.

Từ những lí do trên, với đề tài Đặc điểm nhân vật trong tiểu

thuyết Đoàn Minh Phượng, chúng tôi mong muốn đi vào khám phá

những đặc sắc của tác phẩm trong việc xây dựng hình tượng nhân vật

qua sự soi chiếu bằng cái nhìn hiện sinh. Chúng tôi cũng hy vọng đề

tài sẽ góp phần vào việc thẩm định toàn diện hơn tài năng của một tác

giả văn học xa xứ trong dòng chung của văn học nước nhà.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Sau sự chào đời của truyện ngắn Tội lỗi hồn nhiên và tiếp đến là

hoàn thành bộ phim truyện Hạt mưa rơi bao lâu (2004), tiểu thuyết

đầu tay Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng ra mắt năm 2006, tiếp

đến là tiểu thuyết Mưa ở kiếp sau (2007), chị đã nhanh chóng khẳng

định vị trí của mình trên văn đàn khi được Hội nhà văn trao giải

thưởng văn xuôi duy nhất cho tác phẩm Và khi tro bụi vào năm 2007.

Tuy vậy, đời sống phê bình hướng đến chị chưa nhiều, chỉ xuất hiện

thưa thớt trên một số trang báo mạng và chưa có những công trình

mang tầm khái quát, mặc dù tác phẩm đã được đón nhận và in dấu

vết của mình trong dòng chảy văn học suốt những năm qua.

Trong bài giới thiệu tiểu thuyết Và khi tro bụi của tác giả

Trần Nhã Thụy (Báo Sào Gòn giải phóng, số ngày 9/5/2006); Dương

Bình Nguyên trong bài viết “Và khi tro bụi bay về” (Báo Công an

nhân dân, ngày 07/9/2007; Tiểu Quyên trong bài viết “Dòng chảy

trầm của văn học xa xứ” ),v.v.. các tác giả đã khẳng định giá trị của

tính nhân văn trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng.

Bên cạnh đó, còn có rất nhiều những bài viết về Đoàn Minh

Phượng và hai cuốn tiểu thuyết của tác giả, nhưng bằng hình thức

phỏng vấn của các tác giả: Lưu Hà với bài phỏng vấn “Đoàn Minh

Phượng – Tôi viết khá lạnh” [43], Thúy Nga với “Đoàn Minh

Phượng và tác phẩm mới nhất – Tôi bắt đầu từ sự trở về” [45], Ngô

Đồng với “Đoàn Minh Phượng và Và khi tro bụi” [42], Kim Ửng với

“Nhà văn – đạo diễn Đoàn Minh Phượng: Cách kể chuyện của tôi rất

xưa” [49], Anh Vân với “Đoàn Minh Phượng – phân vân giữa văn

chương và điện ảnh” [50], Cát Khuê với “khiêm nhường ở lại” [44],

v.v.. Tất cả đều nhìn nhận ở chị một bút lực đầy triển vọng với giọng

văn đằm thắm, sâu sắc, thiên về cảm xúc hơn miêu tả và xuyên suốt

một nỗi ám ảnh ngân dài trong mỗi tác phẩm.

Thời gian gần đây xuất hiện một số những bài nghiên cứu

khoa học lấy tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng làm đối tượng. Đáng

chú ý trong đó là các bài viết “Những cái tôi kể chuyện trong tiểu

thuyết Đoàn Minh Phượng” của Thái Phan Vàng Anh, đăng trên Tạp

chí khoa học, Đại học Huế (số 62A, 2010); “Bi kịch hóa trần thuật –

Một phương thức tự sự” của Nguyễn Thanh Tú, đăng trên Tạp chí

nghiên cứu Văn học số 5, 2008, đã có những khảo sát tập trung hơn

dành cho tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng, nhưng hầu như vẫn chủ yếu

hướng vào đặc trưng thi pháp.

Tuy nhiên, vẫn còn những ý kiến tỏ ra chưa thực sự bị chinh

phục bởi tác phẩm. Những bài viết “Văn học Việt Nam 2007 – Một

năm phẳng lặng” của Nguyễn Văn Quí [29], bài phỏng vấn của tác

giả Hồng Minh “Nên xác định trách nhiệm Hội tới đâu” (Trả lời của

Võ Thị Xuân Hà, Báo Nhân dân, 2012) đều có những nhận xét hoài

nghi về giá trị của tác phẩm.

Có thể nói, qua những ý kiến dẫu còn hạn chế, phiến diện và

chưa đồng nhất trong đánh giá nhưng đã hé mở những khám phá có

giá trị về tác phẩm. Điều đó hứa hẹn một sức hấp dẫn tiềm tàng vẫn

còn chưa được phát hiện, khai vỡ.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là hai cuốn tiểu thuyết

của tác giả Đoàn Minh Phượng: Và khi tro bụi” (Nxb Trẻ 2006) và

Mưa ở kiếp sau (Nxb Văn học, 2007). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng

sẽ đề cập đến một số tác phẩm của nhà văn Đoàn Ánh Thuận để có

cái nhìn liên hệ, so sánh, đối chiếu.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trên cơ sở hai cuốn tiểu thuyết của nhà văn Đoàn Minh

Phượng, chúng tôi sẽ tập trung hơn vào vai trò của tâm thức hiện sinh

trong việc xây dựng hình tượng trung tâm qua hai bình diện nội dung

và hình thức của tác phẩm.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp phân tích, tổng hợp.

- Phương pháp thống kê, phân loại.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ vận dụng lí thuyết thi pháp

học và lý thuyết chủ nghĩa hiện sinh phương Tây vào quá trình

nghiên cứu.

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Trên cơ sở lý thuyết hiện tượng luận hiện sinh và chủ nghĩa

hiện sinh phương Tây, luận văn sẽ đi vào khám phá những đặc sắc

của tác phẩm qua việc xây dựng hình tượng nhân vật để thấy rõ hơn

bút pháp hiện đại của Đoàn Minh Phượng trong tiểu thuyết.

- Khẳng định đóng góp của Đoàn Minh Phượng trong dòng

chảy văn học Việt Nam đương đại thế kỷ XXI.

6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn

được triển khai trong ba chương:

Chương 1. Đoàn Minh Phượng và cảm quan hiện sinh

trong tiểu thuyết

Chương 2. Hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết Đoàn

Minh Phượng

Chương 3. Phương thức thể hiện hình tượng nhân vật

trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng

Chương 1. ĐOÀN MINH PHƯỢNG VÀ CẢM QUAN

HIỆN SINH TRONG TIỂU THUYẾT

1.1. Đoàn Minh Phượng – Hành trình cuộc sống và văn chương

1.1.1. Vài nét về tác giả

Đoàn Minh Phượng sinh năm 1956 tại Sài Gòn, cha mẹ gốc

miền Trung. Rời quê hương sang Đức định cư năm 1977 lúc chưa

tròn 20 tuổi theo diện đoàn tụ gia đình. Vượt qua những rào cản về

văn hóa, chị trở thành phóng viên cho các Đài Truyền hình lớn ở Đức

và trở thành nhà báo, nhà sản xuất phim và sau này là nhà văn.

Nhưng chính những ngày tháng lăn lộn với công việc truyền

hình, chị đã bắt được những tín hiệu của quê hương để rồi trở thành

động lực thôi thúc chị quay về, gắn nối tâm hồn lưu lạc nơi chị lần

tìm về lại với cội nguồn. Chị nhận ra mình là một người lưu lạc. Chị

quyết định trở về quê hương.

Hiện nay, chị sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh

với tư cách là nhà văn, nhà sản xuất phim, đồng thời là nhà kinh

doanh đồ gốm và dệt may.

1.1.2. Cuộc hạnh ngộ văn chương

Văn học hiện đại Việt Nam đón nhận không ít những gương

mặt nhà văn nữ hải ngoại tiêu biểu. Song ai đã từng diện kiến với bộ

phận văn học này, hẳn sẽ không thể quên ấn tượng về tác giả Đoàn

Minh Phượng với hai cuốn tiểu thuyết Và khi tro bụi và Mưa ở kiếp

sau. Đọc văn chị, ta luôn nhận ra nỗi cô đơn, lạc loài của con người

luôn dằn vặt trước câu hỏi: Mình là ai? Mình từ đầu đến? Ý nghĩa sự

tồn tại của mình.

Trở về quê hương sau cuộc hành trình dài của một con người

tha hương để tìm lại mình sau những năm tháng lạc loài nơi đất

khách, giữa guồng quay khốc liệt của xã hội hiện đại Tây Âu, quê

hương gặp lại đứa con lưu lạc trong bóng dáng quen thương ở giọng

văn sâu lắng, trầm buồn với nhiều những hoang mang, ray rứt về thân

phận.

Có thể nói, cuộc hạnh ngộ của Đoàn Minh Phượng với văn

chương không phải là một tình huống mà nó khởi phát âm ỉ từ rất lâu

trong nỗi niềm của người con xa xứ. Và chị đã tìm đến với văn

chương, viết ra những thứ như chính những gì chị đang trải qua, đang

đối diện và đang kiếm tìm.

1.2. Cảm thức hiện sinh nhìn từ chủ nghĩa hiện sinh

1.2.1. Đôi nét về chủ nghĩa hiện sinh

Chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu triết học và văn học ra

đời từ thế kỉ XX ở phương Tây, trong bối cảnh đời sống xã hội có

những biến động dữ dội: Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ

thuật, những tàn khốc của chiến tranh từ hai cuộc chiến tranh thế giới

dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng trong đời sống tinh thần con

người; sự đối lập, xung khắc giữa hiện thực đời sống và ước vọng

của con người ngày càng quyết liệt và sâu sắc. Chủ nghĩa hiện sinh

xuất hiện như một tất yếu trong việc xoa dịu mâu thuẫn và mở ra

chân trời mới cho tư tưởng con người. Với bản chất ưu việt đó, sự ra

đời của chủ nghĩa hiện sinh đã soi rọi vào văn chương, tạo nên một

tiếng nói nhân bản hơn bao giờ hết.

1.2.2. Từ triết lí hiện sinh đến cảm thức hiện sinh trong văn học

hiện đại

Trào lưu văn học hiện sinh xuất hiện đầu tiên ở châu Âu,

trước hết là ở Pháp vào những năm trước và sau thế chiến II, mà đại

diện là những nhà văn đồng thời là những nhà triết học như: G.

Marcel, J. P. Sartre, A. Camus, và từ đó lan rộng sang các nước khác

trên thế giới. Sự cộng hưởng tốt đẹp giữa triết học và văn chương này

là bởi giữa chúng có một đối tượng chung để hướng tới, đó là con

người.

Từ Pháp, trào lưu văn học hiện sinh đã nhanh chóng lan rộng

sang các nước khác trên thế giới. Khủng hoảng và biến động của đời

sống xã hội thế kỷ XX là thảm họa cho đời sống tinh thần con người,

nhưng lại tạo nên mối lương duyên cho văn chương hiện sinh

Trong văn học Việt Nam, trào lưu hiện sinh chủ nghĩa đã ảnh

hưởng rộng rãi từ những năm 60 của thế kỷ XIX, hình thành nên một

phong trào nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh. Từ thế kỷ XX trở đi,

cảm thức hiện sinh thể hiện khá rõ nét, với những kiểu nhân vật luôn

mang tâm trạng bất ổn, trăn trở, băn khoăn kiếm tìm tự do, bản thể để

rồi họ phải sống trong những chuỗi ngày cô đơn trước xã hội xa lạ

trên hành trình kiếm tìm bản thể. Trong đó có sự góp mặt đáng kể

của các tác giả hải ngoại.

1.3. Tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng trong dòng chảy tiểu thuyết

hiện đại

1.3.1. Đoàn Minh Phượng trong dòng chung của văn học xa xứ

Văn học Việt Nam từ sau đổi mới đã cho thấy sự hòa nhập

sâu rộng từ quan niệm về văn chương, tư duy nghệ thuật đến nhà văn

và cái nhìn hiện thức về con người. Trong dòng chảy đầy năng động

ấy, đóng góp của những cây bút hải ngoại là không thể phủ nhận.

Bên cạnh cái nhìn cuộc sống già dặn, tính triết lý và sự khao

khát những giá trị nhân bản trong cuộc đời nhiều biến động, chúng ta

đều dễ nhận thấy ở tác phẩm của họ một điểm chung với những cảm

thức, hoài niệm về đất nước, về thân phận của những người xa xứ và

những cú sốc về văn hóa.

Bị tách ra khỏi nền văn hóa nguồn cội, các nhà văn luôn đau

đáu nỗi niềm quê hương. Bên cạnh những cây bút nữ hải ngoại đã rất

quen thuộc với độc giả, Đoàn Minh Phượng như là mảnh ghép không

thể thiếu để tạo nên một gương mặt hoàn chỉnh cho văn học Việt

Nam đương đại.

Nhân vật trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng đi qua nhiều

biến cố để tìm lại chính mình, từ sự vô minh đến sự minh triết. Và

chị, qua nhân vật, chị cũng làm một cuộc hành hương như thế. Với

hai cuốn sách không dày nhưng chị đã dồn chứa trong đó tất cả

những dâu bể của cuộc đời qua lối văn đẹp nhưng buồn và giàu tính

triết lý. Đó chính là dấu ấn riêng trong bức tranh của những cuộc đời

lưu lạc.

1.3.2. Tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng – cảm thức về thân phận

con người trong xã hội hiện đại

Ra đời trong thời kỳ mà văn học đã xuất hiện hàng loạt

những tên tuổi các cây bút trẻ giàu sinh lực trong sáng tác, Đoàn

Minh Phượng đã tạo được cho mình một gương mặt riêng, một giọng

nói riêng, một cá tính sáng tạo riêng. Ta bắt gặp trong văn chương

của chị một thế giới phi lí, xa lạ, ám ảnh bởi sự đổ vỡ, hỗn loạn.

Tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng tập trung vào khai thác

những khốc liệt bên trong nội tâm của cuộc sống con người. Đôi khi

với nhiều người, nó chỉ là những câu chuyện bị lãng quên trong cuộc

sống, nhưng với chị, nó được neo giữ cẩn thận và đầy độ lượng, để

rồi qua văn chương nó được hiện lên với nỗi buồn u uẩn, đầy hoang

mang, khắc khoải.

Chương 2. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT

TRONG TIỂU THUYẾT ĐOÀN MINH PHƯỢNG

2.1. Hình tượng nhân vật mang cảm thức lạc loài

2.1.1. Hình tượng con người tha hương

Đến với tác phẩm văn học của các tác giả hải ngoại, bao giờ

ta cũng bắt gặp nhân vật mang bóng dáng của những con người luôn

thường trực một nỗi ám ảnh về thân phận lạc loài, vô định. Cuộc

sống tha hương, lưu vong trên đất khách luôn hiện hữu như một nhu

cầu không thể thiếu. Vì vậy trong tác phẩm của mình, họ vẽ nên chân

dung, giọng nói và nỗi thổn thức của mình, để tìm ra cho mình ý

nghĩa của sự tồn tại.

Chỉ với hai tác phẩm Và khi tro bụi và Mưa ở kiếp sau, Đoàn

Minh Phượng đã dẫn dắt người đọc dấn thân vào thế giới nội tâm sâu

thẳm của kiếp người tha hương, sầu xứ. Tác phẩm luôn thổn thức

thường trực một nỗi nghi vấn: Tôi là ai? Tôi đã sống như thế nào?

Quá khứ của tôi là gì?

Đi tìm nguồn cội là cuộc hành trình đầy dằn vặt, đau đớn

nhưng chưa bao giờ hết thôi thúc ở các nhân vật trong tiểu thuyết

Đoàn Minh Phượng. Mỗi trang viết là một cuộc kiếm tìm gốc rễ, cội

nguồn. Mỗi cuộc tìm kiếm ấy càng đi sâu hơn, tiến gần đến đích hơn

thì bi kịch của con người càng hiện rõ hơn, tạo nên nỗi xót xa ngân

dài không chỉ của nhân vật mà cho cả bất kỳ ai đã từng đọc và thổn

thức cùng trang viết.

2.1.2. Hình tượng con người đi tìm nguồn cội

Một khi con người mang trong mình nỗi ám ảnh về sự lạc

loài, tha hương thì cũng chính là lúc khát khao nguồn cội réo gọi

mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nhân vật trong tiểu thuyết Đoàn Minh

Phượng dù ở trong hoàn cảnh nào, là ai thì họ vẫn luôn thường trực

một ám ảnh, một khao khát và thôi thúc tìm về nguồn cội. Đó có thể

là hành trình tìm lại quê hương hay tìm lại quá khứ và danh thế của

mình.

Đi tìm nguồn cội là cuộc hành trình đầy dằn vặt, đau đớn

nhưng chưa bao giờ hết thôi thúc ở các nhân vật trong tiểu thuyết

Đoàn Minh Phượng. Mỗi trang viết là một cuộc kiếm tìm gốc rễ, cội

nguồn. Mỗi cuộc tìm kiếm ấy càng đi sâu hơn, tiến gần đến đích hơn

thì bi kịch của con người càng hiện rõ hơn, tạo nên nỗi xót xa ngân

dài không chỉ của nhân vật mà cho cả bất kỳ ai đã từng đọc và thổn

thức cùng trang viết.

Những câu hỏi đầy tính triết lý về nỗi khát khao nguồn cội cứ

xoáy lên trong tác phẩm của Đoàn Minh Phượng, tạo sức ám ảnh lớn

cho ngòi bút của chị qua hai cuốn tiểu thuyết. Như chính Đoàn Minh

Phượng đã thổ lộ “Chúng ta chỉ có một cuộc đời, cuộc đời của mình.

Những chuyến đi, những khung cảnh sống khác lạ, chỉ cung cấp

những cái khung khác nhau cho câu chuyện duy nhất của cuộc đời

duy nhất của mỗi người. Thế giới xa vắng cũng ở trong lòng và quê

hương thân thuộc cũng ở trong lòng” [49]. Có thể nói, tác phẩm của

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!