Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đặc điểm liên kết văn bản bài bình luận trên báo in báo đà nẵng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐOÀN SƠN TRUNG
ĐẶC ĐIỂM LIÊN KẾT VĂN BẢN BÀI BÌNH LUẬN
TRÊN BÁO IN BÁO ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 822 90 20
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ HỌC
Đà Nẵng- Năm 2019
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS LÊ ĐỨC LUẬN
Phản biện 1:
PGS.TS. DƯƠNG QUỐC CƯỜNG
Phản biện 2:
PGS.TS. TRƯƠNG THỊ NHÀN
Luận văn được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ Ngôn ngữ học họp tại trường Đại học sư phạm
vào ngày 06 tháng 01 năm 2019
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện trường Đại học sư phạm- ĐHĐN
Khoa Ngữ Văn trường Đại học sư phạm- ĐHĐN
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Với việc nghiên cứu đặc điểm liên kết văn bản bài báo bình
luận trên chuyên mục “Thời sự và bàn luận” của Báo Đà Nẵng, tác
giả luận văn muốn cung cấp một cái nhìn toàn diện về cách thức tổ
chức một văn bản bình luận và đặc điểm của thể loại văn bản này trên
báo Đà Nẵng những năm gần đây. Qua việc nghiên cứu này, tác giả
luận văn đặt mục tiêu phục vụ tốt hơn cho công tác lựa chọn vấn đề,
khía cạnh, góc nhìn của sự kiện để cải thiện kỹ thuật viết, biên tập,
các trình bày vấn đề bình luận một cách rõ ràng, mạch lạc, nâng cao
tính lập luận, phân tích sắc sảo, có tính thuyết phục cao trên các bài
bình luận báo chí. Thêm vào đó, luận văn cũng cho thấy được phần
nào sự phát triển của tiếng Việt (mà cụ thể là hệ thống liên kết trong
tiếng Việt) trên báo Đà Nẵng nói riêng và loại hình báo chí hiện đại
nói chung.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nhằm phục vụ cho việc hệ thống hóa đặc điểm liên
kết, kết cấu, nội dung của văn bản bài báo bình luận để có cái nhìn
tổng thể, đầy đủ hơn về văn bản bài báo bình luận nói chung và văn
bản bài báo bình luận trên chuyên mục “Thời sự và bàn luận” của
Báo Đà Nẵng.
Qua khảo sát, phân tích, đánh giá, luận văn sẽ rút ra những
nhận xét về đặc điểm liên kết văn bản bài báo bình luận qua việc
khảo sát các văn bản bài báo bình luận đang lưu giữ tại Báo Đà Nẵng
(từ năm 2015 đến hết năm 2017) để từ đó góp phần chuẩn hóa về kỹ
thuật viết, biên tập, nâng cao chất lượng các bài báo bình luận trên
chuyên mục “Thời sự và bàn luận” phục vụ cho công tác tuyên
truyền, định hướng dư luận của Báo Đà Nẵng.
2
2.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu về các đặc điểm của văn bản bài báo bình luận
- Các phương thức liên kết văn bản bài báo bình luận;
- Các cấp độ liên kết và kết cấu của văn bản bài báo bình luận
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
244 văn bản bài báo bình luận trên chuyên mục “Thời sự và
bàn luận” của báo Đà Nẵng đăng tải từ năm 2015 đến năm 2017.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đặc điểm liên kết văn bản bài báo bình luận trên chuyên mục
“Thời sự và bàn luận” (khảo sát các bài báo bình luận trên chuyên
mục “Thời sự và bàn luận” Báo Đà Nẵng đã đăng từ năm 2015 đến
năm 2017.
4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ những năm 70 đến nay ngôn ngữ học văn bản đã trở thành
một lĩnh vực nghiên cứu độc lập. Người ta đã xây dựng và hoàn thiện
được hệ thống khái niệm cơ bản, khẳng định văn bản là đơn vị lớn
nhất của ngôn ngữ.
Ở Việt Nam, nhờ có sự tiếp cận với lí thuyết mới, các nhà Việt
ngữ học đã bắt nhịp được với xu hướng nghiên cứu ngữ pháp văn bản
trên thế giới. Đầu tiên phải kể đến cuốn sách “Hệ thống liên kết văn
bản tiếng Việt” của GS.TSKH.VS Trần Ngọc Thêm (xuất bản đầu
tiên năm 1985, tái bản lần 7 vào năm 2013) là một công trình đầu tiên
ở Việt Nam nghiên cứu về văn bản. Tác giả đã có những kiến giải sâu
sắc về hệ thống liên kết trong văn bản tiếng Việt. Sự thành công của
cuốn sách này không chỉ ở thời điểm nó ra đời, mà cho đến nay,
những kết quả trình bày trong đó vẫn còn nguyên giá trị lý luận và
thực tiễn.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí tại
3
Việt Nam. Xét trên bình diện ngôn ngữ, báo chí đã được quan tâm
trên mọi phương diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ
dụng. Có thể nói, bức tranh tổng thể nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí
rất phong phú, đa dạng. Trên cơ sở kế thừa lý thuyết và các kết quả
nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí, tác giả luận văn sẽ khảo sát đặc
điểm liên kết văn bản bài báo bình luận sử dụng trên chuyên mục
“Thời sự và bàn luận” của Báo Đà Nẵng. Từ đó phân tích, làm rõ đặc
điểm liên kết văn bản và giá trị biểu đạt của nó trong văn bản bài báo
bình luận trên báo in tại chuyên mục “Thời sự và bàn luận” của Báo
Đà Nẵng.
5. Nguồn ngữ liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn ngữ liệu nghiên cứu
Nguồn tư liệu nghiên cứu là 244 văn bản bài báo bình luận
đăng trên chuyên mục “Thời sự và bàn luận” của báo in Báo Đà
Nẵng đã xuất bản trong 3 năm 2015-2017.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Miêu tả các đặc điểm liên kết của văn bản bài báo bình luận,
phân tích các phương thức liên kết văn bản bài báo bình luận bao
gồm phương thức liên kết nội dung và phương thức liên kết hình
thức. Phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ các cấp độ liên kết và kết
cấu văn bản bài báo bình luận, cách sử dụng câu, từ ngữ, từ khóa
trong văn bản bài báo bình luận.
Ngoài ra, luận văn sử dụng thủ pháp thống kê số lần sử dụng
các phép liên kết, các đơn vị ngôn ngữ, kiểu loại câu trên ngữ liệu
nghiên cứu.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội
dung luận văn gồm 03 chương:
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN BẢN,
THỂ LOẠI BÁO CHÍ VÀ THỂ LOẠI BÌNH LUẬN
1.1. Khái quát về văn bản
1.1.1. Khái niệm văn bản
“Văn bản là sản phẩm của quá trình sáng tạo lời, mang tính
cách hoàn chỉnh, được khách quan hóa dưới dạng tài liệu viết, được
trau chuốt văn chương theo loại hình tài liệu ấy, là tác phẩm gồm tên
gọi (đầu đề) và một loạt đơn vị riêng, hợp nhất lại bằng những liên
hệ khác nhau về từ vựng, ngữ pháp, logic, tu từ, có một hướng đích
nhất định và một mục tiêu thực dụng”.
1.1.2. Đặc trưng văn bản
a. Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp dưới dạng văn tự
Vì tồn tại dưới dạng văn tự nên văn bản thường được trau
chuốt văn chương theo đặc điểm của một thể loại nhất định. Hầu hết
các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học văn bản đều nhất trí văn bản là sản
phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, nhưng nhiều người còn
cho rằng văn bản có thể tồn tại cả dưới dạng viết lẫn dạng nói, nghĩa
là văn bản gồm văn bản nói và văn bản viết. Các tác phẩm dân gian
tồn tại dưới dạng nói, khi chúng được sưu tầm và in viết ra thì gọi là
văn bản. Trần Ngọc Thêm cho rằng “Văn bản - cái nằm ở cấp độ trên
cùng của cấp hệ ngôn ngữ - là đơn vị duy nhất trực tiếp tham gia vào
giao tiếp, có tính độc lập giao tiếp. Tất cả những đơn vị dưới nó
muốn tham gia vào giao tiếp thì trước hết phải trở thành một bộ phận
của văn bản hoặc, nếu đủ điều kiện, trở thành chính văn bản. Văn
bản, và chỉ có văn bản, mới vừa là phương tiện giao tiếp vừa là chính
đơn vị của giao tiếp…Nếu sản phẩm ngôn ngữ được thể hiện dưới
dạng lời nói thì ta sẽ có hành vi giao tiếp lời nói, gọi tắt là hành vi
5
lời nói. Còn nếu sản phẩm ngôn ngữ thể hiện dưới dạng văn bản thì
ta sẽ có hành vi giao tiếp văn bản, gọi tắt là hành vi văn bản.”[37].
b. Văn bản luôn có tính hoàn chỉnh về nội dung và hình thức
Văn bản là một thể thống nhất hoàn chỉnh về nội dung và hình
thức.
- Về mặt nội dung: Tính hoàn chỉnh của văn bản làm cho văn
bản có tên gọi (tựa đề) nhất định. Một văn bản hoàn chỉnh về nội
dung thường là văn bản diễn đạt một thông tin trọn vẹn gồm thông tin
hiển ngôn và thông tin hàm ngôn.
c. Văn bản luôn có tính liên kết
Toàn bộ các mối liên hệ, quan hệ giữa văn bản với cuộc sống
khách quan và giữa các thành tố của văn bản với nhau tạo nên tính
liên kết của văn bản. Cả hai phạm vi liên kết bên trong và bên ngoài
ấy của văn bản đều quan trọng.
d. Văn bản luôn có mục tiêu thực dụng
Mục tiêu thực dụng là đích người ta muốn đạt tới khi hành
động. Mọi văn bản được tạo ra đều nhằm một mục tiêu cụ thể. Việc
tạo văn bản không những là một hành động viết mà còn là một hành
động xã hội bằng ngôn ngữ. Viết cái gì, viết cho ai, viết để làm gì?
Ðó là những câu hỏi luôn được đặt ra trước mỗi bài viết. Mục tiêu
thực dụng ấy của văn bản quy định cách viết văn bản, quy định việc
lựa chọn thể loại văn bản và các phương tiện ngôn từ quen dùng cho
thể loại ấy. Đây là mục tiêu ngữ dụng của văn bản.
1.1.3. Các loại văn bản
a. Dựa vào phong cách chức năng
Thói quen sử dụng các phương tiện ngôn ngữ trong các hoàn
cảnh giao tiếp điển hình tạo nên những phong cách ngôn ngữ nhất
định. Như vậy, văn bản được tạo ra sẽ thuộc một trong các phong
cách sau đây: Sinh hoạt, hành chính, khoa học, chính luận, nghệ
6
thuật, báo chí.
b. Dựa vào quy mô văn bản
- Văn bản tối giản (văn bản một câu): tục ngữ
- Văn bản nhỏ (gồm tương đương một đoạn văn)
- Văn bản thông thường (gồm tương đương vài đoạn văn)
- Văn bản lớn (dạng tập sách)
- Văn bản đồ sộ (dạng bộ sách nhiều tập)
c. Dựa vào tính chất của văn bản
- Văn bản miêu tả: Nêu đặc điểm của người, cảnh, sự vật để
người đọc hình dung ra chúng.
- Văn bản giải trí: Nói mọi chuyện đời để người đọc bớt căng
thẳng đầu óc.
- Văn bản nghị luận: Dùng lí lẽ, chứng cớ, bàn bạc, đánh giá để
tìm ra cách lí giải đúng về những vấn đề tự nhiên, xã hội.
- Văn bản khoa học: Nêu những định lí, quy tắc để người đọc
nhận thức đúng đắn bản chất của tự nhiên và xã hội.
- Văn bản hành chính.
d. Dựa vào đặc trưng nội dung và cách thức đề cập
-Văn bản tự sự: nội dung là sự việc có cốt truyện; cách kể: có
nhiều yếu tố khách quan.
-Văn bản trữ tình: nội dung là tình cảm người viết với thế giới
khách quan; cách kể có nhiều yếu tố chủ quan.
-Văn bản kịch: nội dung là sự việc, cốt truyện với những xung
đột căng thẳng về các mặt của đời sống; cách kể theo sự việc, tư
tưởng bộc lộ qua hoạt động và ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật.
- Văn bản nghị luận.
- Văn bản trình bày, báo cáo.
e. Dựa vào kiểu cấu tạo
- Văn bản cố định theo khuôn mẫu: đơn từ, tờ khai, hợp
7
đồng…
- Văn bản thông dụng theo cấu trúc chuyên môn khoa học: tiểu
luận, luận văn, khóa luận, luận án, sách giáo khoa…
- Văn bản có cấu tạo tự do: tác phẩm văn học, sách khoa học
thường thức…
f. Dựa vào cách sử dụng ngôn ngữ
- Văn bản văn vần: chú ý sử dụng vần, điệu, nhịp và sự hài hòa
âm thanh.
- Văn bản văn xuôi: Ít hoặc không có sự tham gia của các yếu
tố văn vần.
1.1.4. Cơ chế diễn ngôn văn bản
Theo GS. Đỗ Hữu Châu, “Chuỗi các yếu tố ngôn ngữ mà
người giao tiếp tạo nên để truyền đạt nội dung giao tiếp được gọi là
ngôn bản”. Nội dung ngôn bản có 2 bình diện: chủ đề và lôgic. Chủ
đề có 2 thành phần: sự vật và liên cá nhân. Các thành phần nội dung
được sắp xếp hợp lí, tạo cho ngôn bản thành một khối thống nhất thì
đó là mặt lôgic của nó. Về mặt hình thức, ngôn bản là một chuỗi các
yếu tố ngôn ngữ được dính kết với nhau chặt chẽ bằng những phương
tiện ngôn ngữ thích hợp.
Ngôn bản liên tục dạng nói và viết thì đồng nhất ngôn bản với
văn bản. Tuy nhiên, cần nhìn nhận văn bản trên cơ sở những nhận
thức về quá trình sản sinh ra nó: quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ,
gọi tắt là quá trình ngôn giao. Có thể thấy những nét chính về cơ chế
ngôn giao như sau:
Cơ chế ngôn giao gồm: cơ chế diễn đạt và cơ chế hội thoại. Cơ
chế diễn đạt gồm cơ chế phát ngôn (gọi tắt là phát), cơ chế thụ ngôn
(gọi tắt là nhận). Còn cơ chế hội thoại là sự luân phiên hai cơ chế
phát - nhận ấy.
Cơ chế diễn đạt gồm: người phát ngôn - ngôn phẩm - người
8
thụ ngôn. Cơ chế phát ngôn gồm: kích thích vào người phát ngôn -
hành vi phát ngôn - ngôn phẩm. Cơ chế thụ ngôn gồm: ngôn phẩm -
đối tượng - hành vi thụ ngôn - kết quả giải mã - thụ ngôn. Ngôn
phẩm là yếu tố trung tâm, có tính quyết định hiện tượng ngôn giao, là
yếu tố duy nhất để phân biệt hiện tượng ngôn giao với những hiện
tượng giao tiếp khác. Những kích thích vào người phát ngôn và quá
trình giải mã của người thụ ngôn bao gồm nhiều nhân tố phức tạp
như mục đích, nội dung, cách thức, hoàn cảnh giao tiếp.
Cơ chế hội thoại gồm: cơ chế phát ngôn 1> cơ chế thụ ngôn 1;
cơ chế thụ ngôn 2 >cơ chế phát ngôn 2.
1.2. Hệ thống liên kết văn bản
1.2.1. Khái niệm liên kết và vai trò liên kết văn bản
a. Khái niệm liên kết
“Liên kết văn bản là mạng lưới các mối quan hệ nội dung, hình
thức giữa các đơn vị, kết cấu trong nội bộ văn bản và các mối quan
hệ giữa văn bản với các yếu tố ngoài văn bản”.
b. Mạch lạc và liên kết trong văn bản
một văn bản có mạch lạc hay không thông quan sự thể hiện
của nó ở các phương diện như:
- Mạch lạc thể hiện trong tính thống nhất đề tài chủ đề
- Mạch lạc thể hiện trong tính hợp logic của sự triển khai mệnh
đề.
- Mạch lạc thể hiện trong trình tự logic giữa các câu.
- Mạch lạc thể thiện trong khả năng dung hợp nhau giữa các
hành động ngôn ngữ. [4]
Mạch lạc giữa các câu giữ vai trò quyết định để tạo ra một văn
bản đích thực và chuỗi câu không có mạch lạc không phải là một văn
bản. Nếu chỉ có liên kết không thì chưa chắc một chuỗi câu đã trở
thành văn bản, thế nhưng như ví dụ trích dẫn của tác giả Trần Ngọc
9
Thêm đó chỉ là liên kết hình thức. Thiết nghĩ một chuỗi câu có đầy
đủ cả liên kết nội dung và liên kết hình thức thì chuỗi câu đó sẽ là
một văn bản có mạch lạc.
c. Vai trò của liên kết trong văn bản
Các đơn vị văn bản thực sự có ý nghĩa khi nằm trong hệ thống
liên kết của văn bản. Mạng liên kết có giá trị xác nhận vai trò của
từng đơn vị ngôn ngữ văn bản. Có trường hợp, sức nặng ngữ nghĩa
của văn bản chỉ dồn vào một câu, nếu thiếu câu ấy, văn bản trở nên
khó hiểu hoặc hiểu sai lệch. Liên kết có khả năng biến những câu mà
ngữ pháp truyền thống cho là què cụt thành câu có nghĩa.
1.2.2. Các mặt liên kết văn bản
1.2.2.1. Liên kết hình thức
a. Khái niệm: Liên kết hình thức là “hệ thống các phương tiện
liên kết hình thức” và những cái được liên kết với nhau trong văn bản
là các câu (phát ngôn) [4, 121].
b. Các phép liên kết hình thức
+ Phép lặp: Phép lặp là cách dùng đi dùng lại một yếu tố ngôn
ngữ, ở những bộ phận khác nhau (trước hết ở đây là những câu khác
nhau) của văn bản nhằm liên kết chúng lại với nhau. Các phương tiện
dùng trong phép lặp; các yếu tố ngữ âm (vần, nhịp), gọi là lặp ngữ
âm; các từ ngữ, gọi là lặp từ ngữ; các cấu tạo cú pháp, gọi là lặp cú
pháp.
Ví dụ: Lặp cả cấu trúc và từ ngữ pháp: “Nếu không có nhân
dân thì không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì không ai dẫn
đường” (Hồ Chí Minh).
+ Phép thế: Phép thế là cách thay những từ ngữ nhất định bằng
những từ ngữ có ý nghĩa tương đương (cùng chỉ sự vật ban đầu, còn
gọi là có tính chất đồng chiếu) nhằm tạo tính liên kết giữa các phần
văn bản chứa chúng. Có 2 loại phương tiện dùng trong phép thế là
10
thay thế bằng từ ngữ đồng nghĩa và thế bằng đại từ. Phép này có 2
loại: thế đồng nghĩa và thế đại từ.
+ Phép liên tưởng: Phép liên tưởng là cách sử dụng những từ
ngữ chỉ những sự vật có thể nghĩ đến theo một định hướng nào đó,
xuất phát từ những từ ngữ ban đầu, nhằm tạo ra mối liên kết giữa các
phần chứa chúng trong văn bản. Phép liên tưởng khác phép thế ở chỗ
trong phép thế thì dùng những từ khác nhau để chỉ cùng một sự vật;
trong phép liên tưởng, đó là những từ ngữ chỉ những sự vật khác
nhau có liên quan đến nhau theo lối từ cái này mà nghĩ đến cái kia
(liên tưởng). Sự liên tưởng có thể diễn ra giữa những sự vật cùng chất
cũng như giữa những sự vật khác chất.
Phép này có 2 loại: Liên tưởng cùng chất và liên tưởng khác
chất.
+ Phép nghịch đối: Phép nghịch đối sử dụng những từ ngữ trái
nghĩa vào những bộ phận khác nhau có liên quan trong văn bản, có
tác dụng liên kết các bộ phận ấy lại với nhau. Những phương tiện liên
kết thường gặp dùng trong phép nghịch đối là: Từ trái nghĩa, từ ngữ
phủ định (đi với từ ngữ không bị phủ định), từ ngữ miêu tả (có hình
ảnh và ý nghĩa nghịch đối).
+ Phép nối: Phép nối là cách dùng những từ ngữ sẵn mang ý
nghĩa chỉ quan hệ (kể cả những từ ngữ chỉ quan hệ cú pháp bên trong
câu), và chỉ các quan hệ cú pháp khác trong câu, vào mục đích liên
kết các phần trong văn bản (từ câu trở lên) lại với nhau. Phép nối có
thể dùng các phương tiện sau đây: kết từ, kết ngữ, trợ từ, phụ từ, tính
từ, quan hệ về chức năng cú pháp (tức quan hệ thành phần câu hiểu
rộng; có sách xếp phương tiện này riêng ra thành phép tỉnh lược).
Phép này có 4 phương thức: Nối bằng kết từ; nối bằng trợ từ,
phụ từ, tính từ; nối bằng kết ngữ; nối theo quan hệ chức năng cú
pháp.
11
+ Phép tuyến tính: Tính hình tuyến là một điểm đặc thù của hệ
thống tín hiệu ngôn ngữ khi chúng hành chức. Ðặc điểm này đòi hỏi
các đơn vị ngôn ngữ phải xuất hiện theo trật tự trước sau trong câu
nói. Nó cũng đòi hỏi các đơn vị, kết cấu văn bản phải xuất hiện theo
trật tự trước sau trong văn bản. Ðó là các phương tiện tuyến tính biểu
thị quan hệ thời gian, không gian và phương tiện liên kết tuyến tính
biểu thị quan hệ logic.
+ Phép tỉnh lược: Phép tỉnh lược là sự khái quát hóa các
phương tiện liên kết thể hiện ở việc lược bỏ trong kết ngôn những
yếu tố có mặt trong chủ ngôn. Việc này làm phát ngôn trở nên không
hoàn chỉnh về ngữ pháp, ngữ nghĩa. Nếu sự lược bớt ít, kết ngôn tuy
không tự nghĩa nhưng vẫn đảm bảo đủ cấu trúc câu, nghĩa là vẫn là
câu hợp nghĩa, thì đó là tỉnh lược yếu. Ngược lại, nếu sự lược bớt làm
kết ngôn không hoàn chỉnh cả cấu trúc ngữ pháp lẫn ngữ nghĩa thì đó
là tỉnh lược mạnh. Tỉnh lược yếu là phương tiện liên kết các câu hợp
nghĩa. Tỉnh lược mạnh là phương tiện liên kết các câu với câu không
hợp nghĩa hay câu dưới bậc.
1.2.2.2. Liên kết nội dung
a. Khái niệm: Liên kết nội dung là sự gắn kết ý nghĩa giữa các
bộ phận trong văn bản nhằm thể hiện ý nghĩa chung của văn bản.
Liên kết nội dung gồm hai tuyến: liên kết chủ đề và liên kết lôgic.
Các phương diện liên kết nội dung:
+ Liên kết đề tài và chủ đề:
Liên kết đề tài và chủ đề là loại liên kết ngữ nghĩa thể hiện sự
thống nhất nội dung giữa các ý, các câu, các đoạn văn trong văn bản.
Liên kết chủ đề có sự thống nhất về đối tượng hoặc chỉ nói về một
đối tượng.
Liên kết chủ đề là liên kết các câu theo một chủ đề thống nhất.
Tất cả các câu trong đoạn văn dù viết cụ thể hay khái quát đều cùng
12
hướng đến một chủ đề nhất định. Trong một văn bản, các đoạn văn
có cách triển khai khác nhau nhưng vẫn thống nhất trong một chủ đề.
Văn bản có thể có nhiều chủ đề bộ phận. Liên kết chủ đề là sự
hợp lại các chủ đề bộ phận qui tụ về một chủ đề lớn. Tất cả các chủ
đề bộ phận đều tập trung thể hiện chủ đề văn bản. Từ liên kết chủ đề
văn bản có thể hướng đến liên kết chủ đề liên văn bản khi các văn
bản cùng thể hiện một chủ đề, đề tài.
+ Liên kết lôgic:
Liên kết lôgic làm nên tính hợp lí trong mối liên hệ giữa đối
tượng với đặc trưng chủ đề và giữa các đặc trưng chủ đề với nhau.
Nếu liên kết chủ đề là liên kết ý thì liên kết lôgic là liên kết mối quan
hệ giữa các ý đó.
Liên kết lôgic trong văn bản xét từ mối quan hệ giữa bản thân các
sự vật hiện tượng, tính chất, vấn đề được trình bày trong sự vận động
lôgic của tư duy nhận thức. Liên kết lôgic thể hiện ở bố cục, kết cấu văn
bản vì thế nó liên quan đến lí thuyết lập luận. Các câu, các đoạn kết hợp
với nhau phải có lôgic lập luận theo trình tự tư duy biện chứng.
1.2.3. Các cấp độ liên kết văn bản
1.2.3.1. Liên kết liên câu và liên kết liên đoạn
Trong phạm vi nội bộ văn bản, có hai cấp độ liên kết. Cấp độ
câu, đó là mối liên kết liên câu. Sự liên kết liên câu có đặc điểm là đa
dạng hơn sự liên kết giữa các bộ phận trong câu và các phương tiện
liên kết liên câu cũng dùng được và đủ dùng cho sự liên kết giữa các
đơn vị trên câu.
Cấp độ đơn vị trên câu, đó là mối liên kết giữa các cụm câu,
các đoạn văn, các mục, tiết, chương, phần. Đây cũng có thể là liên
kết liên đoạn.
1.2.3.2. Liên kết tổng thể
Liên kết tổng thể là liên kết chiều sâu, được thể hiện bằng cách
13
sắp xếp các ý theo những tầng bậc cao, thấp khác nhau tùy theo mức
độ khái quát và tầm quan trọng của chúng. Nhờ vậy, người đọc có thể
nhận ra chủ đề chung của văn bản xuất phát từ các chủ đề bộ phận,
các ý tưởng thuộc cùng một bậc khái quát hay cùng một mức độ quan
trọng. Nó làm nên mạch lập luận, mạch tư duy xuyên suốt kết cấu
văn bản.
Liên kết tổng thể có tác dụng quan trọng đối với việc tổ chức
văn bản. Với việc tạo lập văn bản, nắm mối liên kết tổng thể là rất
cần thiết để có dàn ý tốt. Với việc tiếp nhận văn bản, nắm được liên
kết tổng thể sẽ dễ tìm ra dàn bài của văn bản với các tầng bậc ý tưởng
khác nhau.
Liên tưởng bao hàm có mặt thường xuyên và phổ biến trong liên
kết tổng thể. Nhờ liên tưởng, các ý tưởng cùng bậc khái quát, cùng tầm
quan trọng dù được trình bày cách xa nhau vẫn được liên kết lại trên
cùng một bình diện. Nhờ bao hàm, các ý thuộc cùng một bậc khái quát,
cùng một tầm quan trọng sẽ được trình bày theo những hình thức
tương thích làm cho văn bản có tính liên kết rõ ràng, chặt chẽ.
1.2.4. Các quan hệ liên kết
1.2.4.1. Quan hệ tôn ti
Theo quan hệ tôn ti, đơn vị văn bản ở cấp độ dưới dùng để cấu
tạo nên đơn vị văn bản ở cấp độ cao hơn và đơn vị ở cấp độ cao hơn
là các kết cấu văn bản, bao giờ cũng gồm ít nhất một đơn vị văn bản
ở cấp độ thấp hơn. Quan hệ ấy được tóm tắt như sau: Câu > Cụm câu
> Ðoạn văn > Mục > Chương > Phần >Văn bản.
1.2.4.2. Quan hệ ngữ đoạn
Ðể tạo lập văn bản, chỉ các đơn vị và kết cấu văn bản cùng cấp
độ mới có thể kết hợp với nhau. Nghĩa là trong văn bản, câu kết hợp
với câu, cụm câu kết hợp với cụm câu, đoạn văn kết hợp với đoạn
văn, mục kết hợp với mục, chương kết hợp với chương, phần kết hợp