Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Cục diện châu á thái bình dương trọng tâm là đông bắc á và đông nam á trong hai thập niên đầu thế kỷ XX!
PREMIUM
Số trang
373
Kích thước
4.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1956

Cục diện châu á thái bình dương trọng tâm là đông bắc á và đông nam á trong hai thập niên đầu thế kỷ XX!

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ViÖn khoa häc x∙ héi viÖt nam

B¸o c¸o tæng kÕt

®Ò tµi ®éc lËp cÊp nhµ n−íc

Côc diÖn ch©u ¸-th¸i b×nh d−¬ng

(träng t©m lµ ®«ng b¾c ¸ vµ ®«ng nam ¸)

trong hai thËp niªn ®Çu thÕ kû XXI

M· sè: §T§L – 2004/20

Chñ nhiÖm ®Ò tµi: ts . vò v¨n hµ

6450

07/8/2007

Hµ Néi- 2006

i

MỤC LỤC

Lời nói đầu ..................... 1

Phần I: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUAN HỆ TRUNG QUỐC￾ASEAN- NHẬT BẢN 3

Chương 1. Bối cảnh quốc tế mới và tác động của nó đến quan hệ Trung Quốc

ASEAN-Nhật Bản 3

I. Những biểu hiện của bối cảnh quốc tế mới 3

II.Tác động của bối cảnh quốc tế mới đến quan hệ Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản 45

Chương 2. Chủ nghĩa khu vực Đông Á và ảnh hưởng của nó đến quan hệ

Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản

55

I. Cơ sở của chủ nghĩa khu vực Đông Á 56

II. Ảnh hưởng của chủ nghĩa khu vực Đông Á 75

Phần II:QUAN HỆ SONG PHƯƠNG GIỮA TRUNG QUỐC-ASEAN-NHẬT

BẢN 78

Chương 3. Quan hệ ASEAN-Trung Quốc 78

I. Các cơ chế quan hệ hợp tác ASEAN-Trung Quốc 78

II. Quan hệ ASEAN-Trung Quốc trên lĩnh vực chính trị, an ninh 80

III. Quan hệ ASEAN-Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế 86

IV. Quan hệ trên lĩnh vực văn hóa-xã hội, khoa học-kỹ thuật 96

V. Người Hoa trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc 98

VI. Triển vọng quan hệ ASEAN-Trung Quốc 106

Chương 4. Quan hệ ASEAN-Nhật Bản 110

I. Quan điểm, sự tiến triển và cơ chế quan hệ ASEAN-Nhật Bản 110

II. Thực trạng quan hệ ASEAN-Nhật Bản 121

III. Triển vọng quan hệ ASEAN-Nhật Bản 137

ii

Chương 5. Quan hệ Trung Quốc-Nhật Bản 142

I. Quan hệ chính trị ngoại giao 142

II. Quan hệ kinh tế 149

III. Hợp tác giao lưu văn hóa Trung –Nhật 158

IV. Triển vọng quan hệ Trung – Nhật 167

Phần III. QUAN HỆ ĐA PHƯƠNG TRUNG QUỐC-ASEAN-NHẬT BẢN 176

Chương 6. Các quan niệm hợp tác khu vực 176

I. Một số khía cạnh lịch sử của quan hệ hợp tác đa phương khu vực 176

II. Quan niệm về quan hệ hợp tác ba bên Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản 182

Chương 7. Quan hệ hợp tác đa phương Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản trên

các lĩnh vực 194

I. Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế 194

II. Quan hệ chính trị-an ninh 208

Chương 8. Thể chế quan hệ hợp tác đa phương Trung Quốc -ASEAN-Nhật

Bản 228

I. Quá trình thể chế hóa khu vực trước ASEAN + 3 và nguyên nhân 229

II. Thể chế hóa ở Đông Á sau chiến tranh lạnh 233

Phần IV: TÁC ĐỘNG CỦA QUAN HỆ TRUNG QUỐC –ASEAN -NHẬT

BẢN ĐẾN VIỆT NAM 244

Chương 9. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam 244

I. Các cơ hội và thách thực từ xu thế hòa dịu và gia tăng quan hệ quốc tế khu vực 245

II. Ảnh hưởng từ sự gia tăng FTA giữa các quốc gia khu vực 255

III. Những cơ hội và thách thức từ tiến trình hợp tác đa phương 266

Chương 10: Định hướng chính sách của Việt Nam trong hợp tác với Trung

Quốc-ASEAN-Nhật Bản 271

I. Việt Nam trong quan hệ hợp tác với Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản 271

iii

II. Những định hướng chính sách của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với Trung

Quốc-ASEAN-Nhật Bản 281

Kết luận 309

Tài liệu tham khảo chính 315

1

Lời nói đầu

Sau chiến tranh lạnh kết thúc quan hệ quốc tế khu vực có điều kiện mở

rộng, các quốc gia và vùng lãnh thổ khu vực Đông Á đã tăng cường quan hệ

hợp tác. Các quan hệ này diễn ra trên nhiều cấp độ và với các hình thức đa

dạng khác nhau. Chính điều này ngày càng tạo ra sự gắn kết, tùy thuộc lẫn nhau

giữa các các quốc gia khu vực.

Là một nước nằm trong khu vực Đông Á, Việt Nam chịu tác động mạnh

mẽ từ chính quá trình vận động của các mối quan hệ nhiều chiều trong khu vực.

Để có thể " Mở rộng quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ" theo tình thần

Báo cáo Chính trị Đại hội lần thứ IX của Đảng, thì việc nghiên cứu khu vực,

trong đó có việc phân tích quan hệ quốc tế khu vực là hướng nghiên cứu thực

sự cần thiết. Đặc biệt Văn kiện Đại hội X đã nhấn mạnh cần tiếp tục nghiên cứu

"dự báo tình hình và xu thế phát triển của thế giới, khu vực và trong nước; cung

cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách

của Đảng và nhà nước"1

.

Để góp phần vào định hướng chung trên, mục tiêu nghiên cứu của Đề tài

là: làm rõ bản chất, đặc điểm và xu hướng phát triển quan hệ của ba thực thể

(Trung Quốc, ASEAN và Nhật Bản) trong bối cảnh mới; đánh giá tác động của

mối quan hệ đó đến Việt Nam và trên cơ sở đó sẽ đề xuất các giải pháp chính

sách trong quan hệ song phương và đa phương của Việt Nam với các thực thể

nêu trên. Từ mục tiêu này, đề tài nhận được các nhiệm vụ cụ thể theo hợp đồng

với Bộ Khoa học và Công nghệ là:

- Làm rõ sự tác động của bối cảnh mới (trong khoảng 10 năm trở lại đây)

đối với quan hệ giữa ba thực thể Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản

- Làm rõ bản chất, đặc điểm và xu hướng phát triển quan hệ Trung Quốc￾Nhật Bản, quan hệ ASEAN-Trung Quốc, quan hệ ASEAN-Nhật Bản và đánh

giá thực trạng, triển vọng của hợp tác đa phương giữa ba thực thể đó

- Làm rõ tác động của sự điều chỉnh chính sách trong quan hệ của ba

thực thể nêu trên đến khu vực, nhất là đến Việt Nam, đề xuất các giải pháp

chính sách nhằm tranh thủ thời cơ phát triển qua hệ của Việt Nam với các thực

thể đó

1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, H.2006, tr.99

2

Có thể nói đây là đề tài rộng lớn và phức tạp. Các nghiên cứu trước đây

thường tập trung vào phân tích các quan hệ song phương riêng lẻ, chứ chưa đặt

trong mối quan hệ giàng buộc lẫn nhau. Quan hệ đa phương khu vực nói chung,

giữa ba thực thể nói riêng cũng mới ở giai đoạn đầu. Hiện nay chưa có một cơ

chế riêng cho quan hệ giữa ba thực thể Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản. Tuy

quan hệ giữa ba thực thể này chưa phải có tính chất toàn Đông Á, song có thể

thấy đây chính là những mối quan hệ cơ bản nhất của khu vực, quyết định

chiều hướng vận động của quan hệ khu vực hiện nay và trong những năm tới.

Chính vì vậy đề tài tập trung phân tích quan hệ đa phương giữa ba thực thể và

tất nhiên luôn được đặt trong bối cảnh quan hệ hợp tác chung của cả khu vực

Đông Á cũng như rộng hơn để thấy được vai trò và tác động của quan hệ đan

xen giữa các thực thể này.

Để đề xuất các quan điểm, giải pháp đối với Việt Nam không thể không

phân tích quan hệ của Việt Nam với các thực thể. Tuy nhiên, do giới hạn của đề

tài, và quan hệ của Việt Nam với các thực thể nay cũng đã có không ít các

chuyên luận và bài báo đề cập đến, hơn nữa hiện nay Bộ Khoa học và Công

nghệ đang triển khai các đề tài cấp nhà nuớc về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc,

Việt Nam-Nhật Bản....Do vậy ở đề tài này chỉ tổng kết những kết quả, những

hướng hợp tác chính cùng những vấn đề đặt ra làm cơ sở cho đề xuất các giải

pháp chính sách.

Để thực hiện được các nhiệm vụ nghiên cứu trên ngoài các phương pháp

truyền thống của nghiên cứu quan hệ quốc tế đề tài luôn xuất phát từ cách nhìn

Việt Nam. Các quan hệ quốc tế phản ánh các lợi ích khác nhau, chúng đan xen,

chồng lấn lẫn nhau, do vậy công trình sẽ xuất phát từ lợi ích hợp lý của Việt

Nam để phân tích, đánh giá.

Với mục tiêu và phương pháp như vậy, cơ cấu của công trình ngoài mở

đầu và kết luận được chia làm bốn phần

Phần I: Các yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ Trung Quốc-ASEAN-Nhật

Bản

Phần II: Quan hệ song phương giữa Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản

Phần III: Quan hệ đa phương Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản

Phần IV: Tác động của Quan hệ Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản đến Việt

Nam.

Tập thể tác giả

3

Phần I

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUAN HỆ

TRUNG QUỐC - ASEAN - NHẬT BẢN

Chương 1

BỐI CẢNH QUỐC TẾ MỚI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN

QUAN HỆ TRUNG QUỐC- ASEAN- NHẬT BẢN

Quan hệ Trung Quốc- ASEAN- Nhật Bản luôn chịu tác động của nhiều

yếu tố khác nhau. Bên cạnh những yếu tố do chính ba chủ thể này tạo ra thì bối

cảnh quốc tế có tác động rất lớn đến diễn tiến của quan hệ đa phương nói trên.

Chính vì vậy, việc tìm hiểu và phân tích bối cảnh quốc tế có một tầm quan

trọng đặc biệt và hết sức cần thiết.

Khái niệm “bối cảnh quốc tế mới” là một khái niệm “mở” bởi chữ “mới”

ở đây luôn đòi hỏi phải xác định khung thời gian rõ ràng. Bấy lâu nay chúng ta

đã quen với việc cho rằng bối cảnh quốc tế mới là bối cảnh được hình thành sau

khi chiến tranh lạnh kết thúc. Có lẽ sẽ không có sự tranh luận nào về mốc thời

gian này, tuy nhiên từ thời điểm chiến tranh lạnh kết thúc đến nay lịch sử các

quan hệ quốc tế đã trải qua thêm 16 năm. Chính vì vậy, nội hàm của khái niệm

này đã có thêm nhiều yếu tố bổ sung và được biểu hiện bằng những nét mới mà

cách đây 16 năm chưa đề cập đến.

Mục đích của chương này là làm rõ những nét mới của bối cảnh quốc tế

từ sau chiến tranh lạnh đến nay, từ đó chỉ ra các tác động của nó đến quan hệ

giữa ba chủ thể rất quan trọng của khu vực Đông Á hiện nay là Trung Quốc,

Nhật Bản và Hiệp hội các nước Đông Nam Á.

I. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA BỐI CẢNH QUỐC TẾ MỚI

1. Toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển song hành với nhịp độ khẩn

trương hơn, cách mạng khoa học- công nghệ tiếp tục khẳng định vị trí tiên

phong, xu hướng thông tin hoá ngày càng lan rộng và sâu sắc hơn

Toàn cầu hoá:

4

Mặc dù làn sóng toàn cầu hoá thứ ba bắt đầu diễn ra từ những năm 1980

song ảnh hưởng và tác động của nó cũng như việc nói nhiều đến nó là từ sau

chiến lạnh đến nay. Định nghĩa về toàn cầu hoá đã được đưa ra rất nhiều, từ

phía các tổ chức quốc tế cho đến các tổ chức khu vực cũng như quan điểm cá

nhân của các học giả. Song, nhìn chung khái niệm toàn cầu hoá đều được hiểu

khá thống nhất, đó là sự mở rộng hay tự do hoá của thương mại, đầu tư, dịch

vụ, chuyển giao công nghệ, lao động trên phạm vi toàn cầu, thúc đẩy các quan

hệ giao dịch song phương, đa phương, tăng cường sự liên kết giữa các quốc

gia, khu vực trên toàn thế giới

2

. Những yếu tố phản ánh sự gia tăng của quá

trình toàn cầu hoá là: các tập đoàn kinh doanh toàn cầu, các công ty xuyên quốc

gia là những chủ thể chính trong mạng lưới sản xuất toàn cầu; có sự gia tăng

của thương mại, đầu tư, tài chính quốc tế và tăng cường liên kết kinh tế quốc tế;

có sự đẩy mạnh vai trò của các tổ chức kinh tế quốc tế trong quá trình điều tiết

các quan hệ kinh tế giữa các nước. Quan sát quá trình toàn cầu hoá có thể nhận

thấy sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết, tác động phụ thuộc lẫn

nhau, sự mở rộng quy mô và cường độ các hoạt động giữa các khu vực, các

quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn cầu.

Toàn cầu hoá là một xu hướng khách quan, nó được diễn ra dưới tác

động có tính chất thúc hối của những thay đổi về dân số, chính trị, kinh tế và

công nghệ. Xu hướng này lại được đẩy nhanh bởi các phương tiện thông tin

liên lạc siêu tốc toàn cầu.

Mặt tích cực của toàn cầu hoá là không thể phủ nhận. Chính quá trình

khách quan này tạo ra các khả năng tiếp cận với các nguồn vốn, công nghệ kỹ

thuật tiên tiến và phương thức quản lý hiện đại để thúc đẩy sự phát triển. Có thể

coi toàn cầu hoá như một cuộc cách mạng, các doanh nghiệp, các chủ thể tham

gia vào toàn cầu hoá có thể sử dụng vốn, kỹ thuật, thông tin, quản lý và cả sức

lao động ở mọi nơi trên thế giới, tổ chức sản xuất ở nơi mà họ muốn và đưa đi

tiêu thụ ở đâu có nhu cầu. Nhờ quá trình cơ động và linh hoạt như vậy nên mọi

người đều có cơ hội để tận hưởng các sản phẩm cũng như dịch vụ mới và rẻ

của toàn thế giới. Quá trình toàn cầu hoá cũng tạo ra các cơ hội cho các nước

đang phát triển được tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, từ đó hình

thành một cơ cấu kinh tế- xã hội mới thích ứng và góp phần rút ngắn quá trình

2

Nguyễn An Hà, Toàn cầu hoá kinh tế, một số tác động tới quá trình liên kết kinh tế EU- ASEAN, T/c

Nghiên cứu châu Âu, số 2/ 2003

5

hiện đại hoá của các nước này. Các cơ hội về công ăn việc làm, về tăng thu

nhập, về nâng cao mức sống cũng được mở ra cho công nhân và nhân dân ở các

nước đang phát triển. Hiện nay, loài người phải đối mặt với rất nhiều vấn đề

mang tính toàn cầu, điển hình là vấn đề môi trường, dân số hay dịch bệnh... và

quá trình toàn cầu hoá đã tạo ra khả năng cho các quốc gia, các dân tộc có thể

phối hợp và chia sẻ với nhau các nguồn lực để giải quyết các vấn đề nan giải

đó.

Bên cạnh những cái được do toàn cầu hoá mang lại thì các chủ thể tham

gia quá trình này cũng phải chịu những thách thức không nhỏ do chính toàn cầu

hoá đẻ ra. Những thách thức đó có nhiều, trong đó không thể không kể đến tình

trạng bị tổn thương, thậm chí bị nghèo đi của nền kinh tế ở những quốc gia

không xác định được chiến lược phát triển phù hợp, không đủ sức chống đỡ

trước sự cạnh tranh quyết liệt mang tính toàn cầu; bất công xã hội có thể bị tăng

lên; vấn đề bản sắc văn hoá- dân tộc bị mai một... Các nước kém phát triển

cũng như các nước đang phát triển rất dễ bị thua thiệt trong “cuộc chơi” toàn

cầu hoá này bởi khả năng cạnh tranh yếu, trình độ công nghệ- kỹ thuật thấp,

khả năng quản lý kém, vốn lại bị thiếu trầm trọng. Một trong những vấn đề đặc

biệt nghiêm trọng đang nổi lên hiện nay là nạn nghèo đói và cuộc chiến chống

lại nó tại các quốc gia, nhất là những quốc gia đang và chậm phát triển. Người

ta phân loại nghèo khổ thành hai loại là nghèo khổ tuyệt đối và nghèo khổ

tương đối. Nghèo khổ tuyệt đối được xác định theo mức độ thoả mãn các nhu

cầu thiết yếu, còn nghèo khổ tương đối được xác định trên cơ sở phân phối thu

nhập. Ngân hàng thế giới dựa vào giá trị cố định 365 hoặc 730 USD/ năm để

xác định mức đói nghèo. Do vậy, theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới thì mức

thu nhập 1 USD/ ngày là mức nghèo tuyệt đối, nghèo cùng cực. Số người thuộc

diện nghèo cùng cực hiện đang tập trung chủ yếu tại 3 nơi là Nam Á, Đông Á

và Nam Xahara thuộc châu Phi. Điều đáng mừng là tỷ lệ nghèo đói ở khu vực

Đông Á của chúng ta, đặc biệt là ở Trung Quốc đã giảm xuống. Tuy nhiên, tỷ

lệ này ở châu Phi vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện nào đáng kể, thậm chí có nơi

còn gia tăng.

Thực tế cho thấy những người nghèo luôn luôn là những người bị thua

thiệt và dễ bị tổn thương. Tình trạng nghèo đói không bao giờ giảm đi nếu

không có được một sự tích luỹ đặc biệt về vốn vật chất và nhân lực. Khách

quan mà nói, sự phân hoá giàu- nghèo và gia tăng bất công không phải chỉ gắn

6

với toàn cầu hoá mà có nguồn gốc từ bản chất của chế độ phân phối thu nhập.

Tuy nhiên, toàn cầu hoá đã góp phần làm sâu sắc hơn tình trạng phân hoá giàu

nghèo ở chỗ nó đặt các cá nhân, các quốc gia ở những lợi thế và cơ hội không

giống nhau. Như nhận xét của các học giả kinh tế cho thấy, sự thao túng của

các quốc gia tư bản phát triển cùng các tập đoàn xuyên quốc gia với mục đích

tối đa hoá lợi nhuận gắn với tối thiểu hoá lao động đã dẫn đến việc phân bổ lợi

ích của tăng trưởng theo xu hướng “từ dưới lên trên”. Theo đánh giá của Ngân

hàng Thế giới năm 2002, 85% thu nhập toàn cầu nằm trong tay 18% dân số thế

giới

3

. Các báo cáo còn chỉ rõ rằng trong 40 năm qua, khoảng cách chênh lệch

giàu- nghèo giữa các nước giàu và các nước nghèo đã tăng gấp đôi. Thu nhập

bình quân của 20 nước giàu nhất thế giới gấp 37 lần so với 20 nước nghèo nhất

thế giới. Có nhiều ý kiến còn cho rằng sự chênh lệch giàu- nghèo là một trong

những nguyên nhân dẫn đến khủng bố- hành động đe doạ sự ổn định của thế

giới.

Toàn cầu hoá có ảnh hưởng như thế nào đến các nền văn hoá -dân tộc

cũng đang là vấn đề gây tranh cãi. Trong tác phẩm “Trung Quốc trước thách

thức thế kỷ XXI”4

tác giả Lưu Kim Hâm đã thể hiện sự lo lắng của mình qua

nhận xét như sau: “Văn hoá là nền tảng quan trọng để duy trì sự ổn định của xã

hội, cũng là một bộ phận quan trọng trong sức mạnh tổng hợp của đất nước.

Ngôn ngữ, văn tự, tín ngưỡng, đạo đức, quy phạm... thành vòng văn hoá của

quốc gia và dân tộc. Đi đôi với sự phát triển của mạng lưới thông tin thì văn

hoá sẽ chịu một làn xung kích mạnh... Trước làn sóng toàn cầu hoá, đối diện

với sự xâm nhập của văn hoá phương Tây, đối mặt với những tin tức truyền qua

vệ tinh, với các cơ quan thông tin của phương Tây, đối mặt với sự bùng nổ tin

tức của mạng Internet, Trung Quốc làm thế nào để bảo vệ văn hoá truyền thống

trước những xung kích này?”. Có lẽ câu hỏi này được đặt ra không chỉ đối với

Trung Quốc- một đất nước có nền văn minh, văn hoá rất lớn và lâu đời. Câu hỏi

này không phải chỉ liên quan đến các nền văn hoá lớn khác, chẳng hạn như Ấn

Độ, Nga, Pháp hay Đức. Trên thực tế, hầu như mọi quốc gia- dân tộc, dù lớn

hay nhỏ đều tự hào và có quyền tự hào về nền văn hoá của mình, đều mong

muốn giữ gìn bản sắc riêng của nền văn hoá đó. Song thực tế cũng cho thấy

cùng với làn sóng toàn cầu hoá về kinh tế thì văn hoá Mỹ cũng thẩm thấu khắp

3

Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN, ngày 11/ 1/ 2002 4

Lưu Kim Hâm, Tri thức không biên giới-Trung Quốc trước thách thức thế kỷ XXI, NXB VH-TT, tr. 407

7

thế giới. Một thí dụ rất dễ nhận thấy là điện ảnh. Các hãng điện ảnh thu lợi lớn

nhất trên thị trường toàn cầu về cơ bản vẫn là hãng phim Hollywood của Mỹ.

Tỷ lệ phim Mỹ trên thị trường văn hoá phim ảnh của các nước khác càng ngày

càng tăng lên. Chẳng hạn, trên thị trường phim của châu Âu, nếu năm 1987 tỷ

lệ phim Mỹ chiếm 56% thì đến năm 1996, tỷ lệ này đã lên thành 70%. Rồi

phong cách ăn, uống của Mỹ với Coca- cola, với Mac Donal... đều có sức hút

và lôi cuốn kỳ lạ, đặc biệt là đối với thanh niên ở khắp mọi nơi trên thế giới.

Về cơ bản, cuộc tranh luận về đa dạng văn hoá không phải là mới, song

quá trình toàn cầu hoá đã làm cho nó nổi lên rõ rệt. Tác động trực tiếp của toàn

cầu hoá đến các ngành văn hoá, chẳng hạn như điện ảnh hay âm nhạc... được

thể hiện ở mức độ tập trung hoá cao độ, ngân sách hỗ trợ tăng mạnh và các

khoản chi phí ngày càng cao để được tiếp cận các sản phẩm văn hoá lưu hành.

Một nền văn hoá toàn cầu xuyên quốc gia đang ngày càng định hình rõ nét

xung quanh các sản phẩm, chẳng hạn như của Nike, McDonald, Pokemon,

Hollywood...Như vậy, quá trình toàn cầu hoá các sản phẩm văn hoá là một hiện

tượng vừa mang tính chất xã hội, vừa mang tính chất kinh tế và quản lý quá

trình này hoàn toàn không dễ dàng chút nào.

Dù sao, mỗi quốc gia- dân tộc chắc chắn đều có những biện pháp riêng

để bảo vệ bản sắc của nền văn hoá truyền thống, bởi vì “văn hoá là một mốc

quan trọng trong việc đánh giá lực lượng tổng hợp của đất nước, là lãnh thổ

mềm, lãnh thổ vô hình của mỗi quốc gia; xây dựng và an toàn quốc thổ văn

hoá” cũng là nhiệm vụ quan trọng của mỗi đất nước khi tham gia vào quá trình

toàn cầu hoá kinh tế hiện nay.

Khu vực hoá

Như trên đã nhận định chủ nghĩa toàn cầu hoá và khu vực hoá diễn ra

song hành với nhau. Có ý kiến cho rằng trong quan hệ với toàn cầu hoá thì xu

thế khu vực hoá được xem là bước chuẩn bị để tiến tới toàn cầu hoá. Mặt khác,

xu thế khu vực hoá hiện nay phản ánh một thực trạng co cụm nhằm bảo vệ

những lợi ích tương đồng giữa một số nước trước những nguy cơ, những tác

động tiêu cực do toàn cầu hoá đặt ra. Do đó, xét về ngắn hạn, khu vực hoá

dường như đối nghịch với toàn cầu hoá, nhưng về dài hạn thì chính khu vực

8

hoá là bước chuẩn bị để thực hiện toàn cầu hoá5

. Nội dung chủ yếu của khu vực

hoá là thành lập các khu vực kinh tế mới, mở rộng các khu vực đang tồn tại,

tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự trị cho các khu vực... Cho đến nay

đã hình thành rất nhiều các tổ chức khu vực ở khắp các châu lục. Đó là EU

(Liên minh châu Âu), EFTA (Khu vực tự do thương mại châu Âu) ở châu Âu;

NAFTA (Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ) ở châu Mỹ, ASEAN (Hiệp hội

các quốc gia Đông Nam Á), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế CA-TBD), Tổ

chức hợp tác khu vực Nam Á, SCO (Tổ chức hợp tác Thượng Hải) ở châu Á,

AU (Liên minh châu Phi) ở châu Phi....

Động lực gia tăng xu thế khu vực hoá trong giai đoạn hiện nay xuất phát

từ mục đích phát huy những lợi thế so sánh, những nét tương đồng của các

quốc gia trong mỗi nhóm khu vực. Các quốc gia có những điểm tương đồng đã

tìm đến nhau tạo lập các tổ chức kinh tế, tạo cho nhau các điều kiện thuận lợi

hơn các quy định quốc tế hiện hành. Chẳng hạn như châu Phi là nơi làn sóng

toàn cầu hoá lan đến muộn hơn các nơi khác, song cũng phải đến năm 2002

mới chính thức thành lập ra AU. Mục tiêu của AU là đưa châu Phi vượt qua đói

nghèo, xung đột và bệnh tật tiến tới ổn định và phát triển. Rõ ràng là các vấn đề

phổ biến của hầu hết các nước châu Phi hiện nay như đói nghèo, xung đột￾chiến tranh và dịch bệnh đã làm cho họ xích lại gần nhau trong một khối thống

nhất, cùng nhau hành động, cùng nhau chia sẻ, hỗ trợ lẫn nhau để đạt được mục

tiêu chung của mình. Bước tiếp theo của AU như đã được khẳng định trong

NEPAD (Đối tác mới vì sự phát triển châu Phi) phải là thúc đẩy tiến trình hội

nhập kinh tế quốc tế, tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững ở châu Phi.

Tóm lại, việc nâng cao trình độ hợp tác khu vực về lâu về dài là cơ sở

cho việc thực hiện toàn cầu hoá kinh tế. Sự ra đời hàng loạt các tổ chức khu

vực và sự phát triển quy mô địa lý của các tổ chức khu vực trên cơ sở bổ sung

các thành viên (chẳng hạn như EU) , hay hợp nhất các tổ chức khu vực là bước

tiến ngày càng gần hơn đến tự do hoá trên phạm vi toàn cầu. Khu vực hoá là

bước đi tất yếu đến toàn cầu hoá; khu vực hoá càng mạnh sẽ là điều kiện và

động lực cho toàn cầu hoá. Đồng thời, sự tăng tốc của toàn cầu hoá cũng sẽ

thúc đẩy xu hướng khu vực hoá trên thế giới. Các quốc gia đã trở nên chủ động

hơn trong việc tìm kiếm sự hợp tác khu vực về kinh tế, chính trị, an ninh. Hiện

5

Dương Phú Hiệp- Vũ Văn Hà (chủ biên), Toàn cầu hoá kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr.

127

9

nay có đến 184 Hiệp định mậu dịch tự do đang được thực thi trên thế giới.

Theo đánh giá của giới kinh tế, triển vọng sẽ có 4 khu vực kinh tế tự do lớn là

EU mở rộng, NAFTA, Đông Á, Trung Đông- Châu Phi đóng vai trò trung tâm

trong nền kinh tế toàn cầu.

Cách mạng khoa học công nghệ và tin học hoá

Từ cuối những năm 1970 trở lại đây, khoa học và công nghệ ngày càng

trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu khoa học mới được

phát minh và ứng dụng vào sản xuất làm cho sức sản xuất phát triển mạnh mẽ,

làm xuất hiện những công nghệ mới như công nghệ sinh học, công nghệ vật

liệu mới, nhiều ngành kinh tế mới và đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ

thông tin. Về mặt kinh tế- kỹ thuật, khoa học và công nghệ phát triển đã thúc

đẩy quá trình toàn cầu hoá cũng như việc hình thành nền kinh tế tri thức. Quá

trình khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp được biểu hiện qua một số

đặc điểm như:

Tri thức khoa học là nền tảng cho nền sản xuất hiện đại bởi các khâu của

quy trình sản xuất hiện đại như xây dựng báo cáo chiến lược, quy hoạch, xây

dựng quy trình công nghệ, phối hợp các nguồn lực chiếm lĩnh thị trường...đều

phải dựa vào tri thức khoa học.

Quá trình từ kết quả nghiên cứu khoa học đến sản phẩm thương mại liên

tục được rút ngắn. Công nghệ thông tin phát triển nên một phần lao động trí tuệ

của con người đã chuyển sang cho máy móc. Nguồn nhân lực không còn chủ

yếu dựa vào lao động cơ bắp như trước kia mà đã dần chuyển sang sử dụng lao

động trí óc. Một loại hình kinh tế mới đã dần xuất hiện, đó là kinh tế tri thức.

Các nhà khoa học cho rằng những thập niên đầu của thế kỷ XXI là sự khởi đầu

của một quá trình cách mạng to lớn của lịch sử loài người, đó là chuyển từ một

nền sản xuất dựa vào vật chất là chính sang một nền sản xuất dựa vào tri thức

khoa học là chính.

Trong số các công nghệ mới, công nghệ thông tin phát triển với tốc độ

rất nhanh và lan toả đi khắp hang cùng ngõ hẻm của thế giới. Người ta cũng

cho rằng thế kỷ XXI là thế kỷ thông tin hoá. Sự phát triển cao độ của kỹ thuật

tin tức, tài nguyên tin tức trên toàn cầu được mở rộng về lượng đã làm bùng nổ

tin tức trên thế giới. Tổng lượng tin tức toàn cầu năm 1995 gấp 2400 lần so với

năm 1985. Hiện nay, tổng lượng tin tức trong 1 ngày tương đương với 6,5 lần

10

tổng lượng tin tức của cả năm 1985. Việc sử dụng, lưu trữ, truyền đạt và lợi

dụng tin tức ngày càng lớn. Sự ổn địn chính trị, tăng trưởng kinh tế hay phát

triển xã hội đều dựa vào một phần rất lớn của việc sản xuất, khuếch tán và ứng

dụng của tin tức. Kỹ thuật về tin tức được coi là quyền sở hữu trí tuệ. Ngành tin

tức trở thành một điểm tăng trưởng mới về kinh tế. Mạng Internet đang ngày

càng ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ mọi lĩnh vực hoạt động của thế giới, từ

kinh tế, chính trị đến an ninh, quốc phòng và văn hoá, xã hội. Nếu nói về khía

cạnh kinh tế có thể thấy thương vụ điện tử, mạng Internet sẽ dần chiếm chủ đạo

cho sự nhất thể hoá thương vụ điện tử toàn cầu, xúc tiến định chế của quy mô

thị trường. Do nắm được ưu thế khoa học và ưu thế mạng hoá kinh tế nên các

nước phát triển chèn ép và bóc lột bằng hình thức mới đối với các nước chưa

phát triển. Đặc biệt rõ nét nhất là trong lĩnh vực quân sự- quốc phòng, kỹ thuật

Internet đang làm thay đổi hình thái lực lượng quân sự, thay đổi hình thái chiến

tranh. Các loại vũ khí công nghệ cao, hoả lực mạnh rất chính xác và được điều

khiển từ xa đã xuất hiện và đã được sử dụng trong các cuộc chiến tranh của Mỹ

tại Côsôvô, vùng Vịnh, Apganixtan, Irắc. Xét một cách tổng thể, tất cả những

ảnh hưởng của Internet sẽ thể hiện trên phương diện tăng nhanh tiến trình toàn

cầu hoá hoạt động xã hội của loài người, do vậy việc khống chế mạng sẽ trở

thành điểm khống chế cao nhất trong cạnh tranh quốc tế tương lai. Trong thời

đại kinh tế tri thức, một nước có năng lực giành được tin tức và giành được

quyền khống chế tin tức trong đời sống sản xuất của xã hội sẽ trở thành then

chốt trong việc chiếm quyền chủ động trong cuộc cạnh tranh phát triển và tồn

tại của đất nước trong thế kỷ mới

6

.

Đối với các nước đang và kém phát triển thì sự hình thành và phát triển

của nền kinh tế tri thức chắc chắn cũng sẽ tạo ra những cơ hội to lớn để phát

triển. Trước tiên, nền kinh tế mới mẻ này mở ra khả năng cho các nền kinh tế

đang phát triển tiếp nhận các công nghệ mới, trong đó có công nghệ thông tin

giúp cho việc điều chỉnh mô hình và cơ cấu kinh tế tại các nền kinh tế đó. Kinh

tế tri thức cũng tạo điều kiện để các nước đang phát triển thực hiện chiến lược

phát triển rút ngắn nhờ việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản

lý. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, các nước đang phát triển cũng sẽ phải

đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức mới, nếu không có nhận thức đúng và

6

Lưu Kim Hâm, nguồn đã trích, tr. 509

11

không đưa ra được các chiến lược và chính sách phát triển đúng đắn, phù hợp

thì họ sẽ bị nhấn chìm bởi chính nền kinh tế mới này.

2. Mặc dù hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo

của thế giới, song tình hình quốc tế vẫn bị xen kẽ bởi những biến đổi phức

tạp, căng thẳng, nguy hiểm, bởi các cuộc khủng hoảng, tranh chấp hay

xung đột có tính chất khu vực và đặc biệt chịu tác động mạnh mẽ của chủ

nghĩa khủng bố và cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động

Khủng hoảng, tranh chấp và xung đột mang tính chất khu vực

Trong gần hai thập kỷ qua kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc đúng là cả

thế giới đều tập trung vào phát triển kinh tế, đều hướng vào hội nhập và toàn

cầu hoá kinh tế, đều cố gắng duy trì nền hoà bình và an ninh chung của nhân

loại. Tuy nhiên, hoà bình không phải có được ở mọi nơi, mọi lúc. Những mâu

thuẫn, cọ sát, thậm chí xung đột và chiến tranh vẫn xảy ra cục bộ tại nhiều khu

vực trên thế giới. Bên cạnh những cuộc chiến do Mỹ đơn phương phát động

còn có rất nhiều các cuộc xung đột khác ở châu Phi, ở khu vực Trung Đông,

Trung và Nam Á, đặc biệt là cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều

Tiên và gần đây nhất là vấn đề hạt nhân của Iran.

Chẳng hạn tại châu Phi thuộc khu vực Nam Xahara người ta có thể

chứng kiến nhiều loại xung đột khác nhau. Đó là chiến tranh cổ điển giữa các

quốc gia dưới hình thức đối đầu quân sự giữa các lực lượng quân đội chính quy

được dàn xếp bằng nền hoà bình do quốc tế kiểm soát như chiến tranh giữa

Eritơria và Êtiôpi. Đó là xung đột nội bộ kéo dài có sự tham gia của các lực

lượng phiến quân được bên ngoài hậu thuẫn như ở Cộng hoà dân chủ Cônggô.

Đó là cuộc nội chiến được nước thực dân cũ can thiệp trực tiếp và được dàn

xếp bằng hoà bình song vẫn làm tình hình khu vực không giảm bớt được căng

thẳng, chẳng hạn như ở Xiêra Lêôn.

Tiến trình hoà bình tại Trung Đông trong những năm đầu tiên của thế kỷ

XXI cũng đã bị sa lầy nghiêm trọng. Tình trạng leo thang quân sự ở đây đã

không thể kiểm soát nổi khiến người ta phải dùng từ “chiến tranh” mới diễn tả

được tình hình. Thống kê cho thấy hậu quả của cuộc xung đột Ixraen- Palextin

chỉ từ tháng 9/ 2000 đến tháng 7/ 2002 làm 1.467 người Palextin và 560 người

Ixraen bị chết. Tính chất của cuộc chiến rất phức tạp, nó vừa là xung đột cộng

đồng sắc tộc lại vừa mang màu sắc đấu tranh giải phóng dân tộc. Người

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!