Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Công tác dân vận của các đơn vị quân đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn miền Đông Nam bộ giai đoạn hiện nay
PREMIUM
Số trang
189
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
894

Công tác dân vận của các đơn vị quân đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn miền Đông Nam bộ giai đoạn hiện nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

5

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ



ĐỒNG NGỌC CHÂU

c«ng t¸c d©n vËn cña C¸C ®¬n vÞ qu©n ®éi

ë vïng ®ång bµo theo ®¹o trªn ®Þa bµn

miÒn ®«ng nam bé giai ®o¹n hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2011

6

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ



ĐỒNG NGỌC CHÂU

c«ng t¸c d©n vËn cña C¸C ®¬n vÞ qu©n ®éi

ë vïng ®ång bµo theo ®¹o trªn ®Þa bµn

miÒn ®«ng nam bé giai ®o¹n hiÖn nay

Chuyªn ngµnh: X©y dùng §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam

M· sè : 62 31 23 01

LUËN ¸N TIÕN SÜ CHÝNH TRÞ HäC

Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: 1. TS, NguyÔn TiÕn Quèc

2. PGS, TS Vò §×nh TÊn

Hµ NéI - 2011

7

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

CTDV của QĐND Việt Nam là một bộ phận CTDV của Đảng Cộng

sản Việt Nam; một mặt hoạt động của Quân đội, một nội dung của CTĐ,

CTCT trong QĐND Việt Nam nhằm vận động cách mạng đối với nhân dân và

xây dựng, tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân - dân, quan hệ giữa Đảng

với nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững ổn định chính trị,

trật tự an toàn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ địa phương,

nhiệm vụ Quân đội và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

MĐNB có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã

hội, quốc phòng và an ninh của cả nước. Địa bàn MĐNB có nhiều tôn giáo

như: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Bửu Sơn

Kỳ Hương, Tịnh độ Cư sĩ, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Nam tông Minh Sư đạo, Minh

lý đạo - Tam Tông miếu, Hồng môn Minh đạo, Thiên khai Huỳnh đạo, Việt Võ

đạo, Ba-hai... với gần 5 triệu tín đồ, hơn 20 ngàn chức sắc, chức việc, đồng bào

các tôn giáo chiếm hơn 30% số dân trên địa bàn [Phụ lục 1, 2]. Nhìn chung,

đồng bào theo đạo trên địa bàn MĐNB có tinh thần yêu nước, chấp hành

nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,

đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song,

do trình độ nhận thức và giác ngộ còn hạn chế, đời sống còn gặp khó khăn, kẻ

thù đang lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền, những vấn đề

do lịch sử để lại nhằm lôi kéo, kích động nên một bộ phận đồng bào theo đạo,

nhất là đồng bào theo đạo Công giáo, Tin Lành còn dao động về tư tưởng, thiếu

tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, giảm sút

nhiệt tình cách mạng, chưa góp phần tích cực vào xây dựng, củng cố chính

quyền địa phương và khối đại đoàn kết toàn dân tộc… Thực tiễn đó đòi hỏi các

đơn vị quân đội trên địa bàn MĐNB phải tăng cường hơn nữa CTDV.

Những năm qua, CTDV ở vùng đồng bào theo đạo đã được các đơn vị

quân đội quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và thu được thành tựu

8

đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo

của Đảng, Nhà nước; xây dựng phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện nhiệm vụ

quân sự - quốc phòng địa phương; đồng thời, củng cố và tăng cường mối quan

hệ máu thịt giữa Quân đội với nhân dân, xây dựng đơn vị VMTD… Tuy nhiên,

CTDV của các đơn vị quân đội ở vùng đồng bào theo đạo còn bộc lộ những hạn

chế: một bộ phận cán bộ, chiến sĩ chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ vai trò, tầm

quan trọng của CTDV; ở một số cơ quan, đơn vị nội dung, hình thức tiến hành

CTDV còn đơn điệu, chậm đổi mới, hiệu quả thấp; sự phối hợp với cấp uỷ,

chính quyền địa phương chưa thường xuyên, thiếu chủ động; chưa phát huy

được sức mạnh của các tổ chức, các lực lượng trong và ngoài đơn vị tham gia…

Hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu “dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; sự phát triển nhiệm vụ

của các địa phương trên địa bàn MĐNB đặt ra những yêu cầu mới đối với

CTDV, xây dựng địa bàn an toàn, địa phương VMTD… Điều đó đòi hỏi cả

hệ thống chính trị, trong đó Quân đội phải làm tốt hơn nữa CTDV nói

chung, nhất là ở vùng có đông đồng bào theo đạo nói riêng.

Vì vậy, việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu “Công tác dân vận của các

đơn vị quân đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn miền Đông Nam

bộ giai đoạn hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết hiện nay

cả về lý luận và thực tiễn.

2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

* Mục đích:

Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề cơ bản về lí luận, thực tiễn CTDV ở

vùng đồng bào theo đạo, đề xuất giải pháp tiến hành CTDV của các đơn vị

quân đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn MĐNB giai đoạn hiện nay.

* Nhiệm vụ:

- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về CTDV của các đơn vị quân

đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn MĐNB.

9

- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm

CTDV của các đơn vị quân đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn MĐNB.

- Xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp tiến hành CTDV của các đơn vị

quân đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn MĐNB đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ trong tình hình mới.

* Đối tượng nghiên cứu: CTDV của các đơn vị quân đội ở vùng đồng

bào theo đạo trên địa bàn MĐNB.

* Phạm vi nghiên cứu: CTDV của các đơn vị quân đội ở vùng đồng

bào theo đạo trên địa bàn MĐNB giai đoạn hiện nay .

Phạm vi khảo sát: Luận án chủ yếu tập trung khảo sát CTDV của các đơn

vị thuộc Sư đoàn B09 - Binh đoàn Cửu Long; Sư đoàn N - Quân khu 7; Đoàn

Phòng Không B67 - Quân chủng Phòng Không - Không Quân; Đoàn M71 - Vùng

2 - Quân chủng Hải quân; Trường Sĩ quan Lục quân 2; Bộ Chỉ huy Quân sự và Bộ

đội Biên phòng tỉnh Bình Phước, Đoàn Gia Định Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí

Minh và một số xã, phường (điển hình) có đông đồng bào theo đạo thuộc tỉnh

Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh. Tư liệu, số liệu

phục vụ cho việc nghiên cứu chủ yếu từ năm 2003 đến nay.

3. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận: là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về quần chúng nhân dân và

vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa Đảng với

quần chúng; mối quan hệ Quân đội và nhân dân; về CTDV, về vấn đề tôn giáo,

dân tộc và công tác tôn giáo, dân tộc; về chức năng, nhiệm vụ của Quân đội.

* Cơ sở thực tiễn: thực tiễn đời sống của nhân dân, của đồng bào theo

đạo, tình hình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… và thực tiễn CTDV của các

đơn vị quân đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn MĐNB; các báo cáo

sơ, tổng kết về CTDV của các đơn vị quân đội, các tỉnh trên địa bàn và kết

quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả.

10

* Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp luận: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin; các quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt

Nam về chức năng, nhiệm vụ của Quân đội; về CTDV, công tác tôn giáo, dân tộc.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng tổng hợp các phương

pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và chuyên ngành, trong đó coi

trọng các phương pháp cụ thể sau:

+ Phương pháp kết hợp lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; so

sánh; khái quát hoá, hệ thống hoá các nguồn tài liệu liên quan đến CTDV nói

chung, CTDV ở vùng đồng bào theo đạo nói riêng; các công trình nghiên cứu

khoa học như luận án, luận văn, đề tài khoa học đã được nghiệm thu, công bố

có liên quan đến đề tài luận án.

+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Thực hiện phỏng vấn, trao đổi với đại

diện cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, chức sắc, tín đồ tôn giáo một số ấp,

xã, phường và lãnh đạo, chỉ huy một số đơn vị quân đội trên địa bàn MĐNB.

Nội dung hướng vào tìm hiểu cách thức quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức

thực hiện chính sách tôn giáo và CTDV ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn

có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án.

+ Phương pháp điều tra xã hội học: Tiến hành điều tra bằng các mẫu

phiếu câu hỏi in sẵn đối với một số cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể địa

phương ở cơ sở và cán bộ, chiến sĩ các đơn vị quân đội trên địa bàn MĐNB. Nội

dung tìm hiểu thực trạng CTDV ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn MĐNB.

Đồng thời, khẳng định tính khách quan của một số nhận định trong luận án.

+ Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu các số liệu, nhận định,

đánh giá và kinh nghiệm trong báo cáo sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về

CTDV, công tác tôn giáo, công tác dân tộc nói chung, CTDV ở vùng đồng bào

tôn giáo nói riêng của các địa phương và đơn vị quân đội trên địa bàn MĐNB.

+ Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của một số nhà khoa học, nhà

sư phạm, nhà quản lý giáo dục về nội dung, kết quả nghiên cứu của đề tài.

11

4. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

- Xây dựng quan niệm về đồng bào theo đạo và vùng đồng bào theo đạo.

- Đề xuất một số nội dung biện pháp phát huy vai trò của chức sắc tôn

giáo trong CTDV của các đơn vị quân đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa

bàn MĐNB hiện nay.

5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học

giúp các cấp, các ngành, các đơn vị quân đội trên địa bàn MĐNB vận dụng vào

CTDV ở vùng đồng bào theo đạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo

trong nghiên cứu, giảng dạy ở các học viện, nhà trường quân đội.

6. Kết cấu của luận án

Luận án gồm: Phần mở đầu, 4 chương (8 tiết), kết luận và kiến nghị,

danh mục các công trình khoa học của tác giả liên quan đến đề tài luận án đã

công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

12

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề

tài luận án

- Công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang Liên Xô

1918 - 1973, Tóm tắt lịch sử của Viện Lịch sử quân sự Bộ Quốc phòng Liên

Xô, Nxb QĐND, Hà Nội, 1976 của tập thể nhiều tác giả do Đại tướng A.A.Ê￾pi-sep - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội và Hải quân Liên Xô làm

chủ biên. Đây là công trình tổng kết khá sâu sắc quá trình hình thành và phát

triển CTĐ, CTCT trong các lực lượng vũ trang Xô-viết. Bàn về sự thống nhất

giữa quân đội và nhân dân ở điểm 1 phần II chương I có đề cập: Các lực

lượng vũ trang Xô-viết là một bộ phận của nhân dân, giữa lực lượng vũ trang

và nhân dân có sự thống nhất không gì phá vỡ nổi.

Theo các tác giả, sự nhất trí giữa Quân đội và nhân dân thể hiện ở sự

tham gia tích cực của Quân đội vào đời sống chính trị - xã hội của đất nước,

thể hiện ở những mối quan hệ rộng rãi và nhiều mặt của các bộ đội và binh

đoàn với các tổ chức đảng, Xô-viết, đoàn thanh niên và công đoàn, với các tập

thể sản xuất của những người lao động. Về vấn đề giáo dục chiến sĩ tinh thần

thống nhất giữa Quân đội và nhân dân, điểm 3 phần IV của chương ba đã xác

định: Các cơ quan chính trị và các tổ chức đảng của Hồng quân cố làm cho lời

thề “Tôi là con em của nhân dân lao động…” ăn sâu vào ý thức của mỗi chiến

sĩ Hồng quân và trở thành nguyên tắc lãnh đạo trong mọi hoạt động của họ

[116, tr.204]. Theo các tác giả: để củng cố sự thống nhất giữa Quân đội và

nhân dân cần có sự tham gia của tất cả mọi người dân Xô-viết vào việc nâng

cao sức chiến đấu của Quân đội và hạm đội, vào việc giáo dục chính trị cho

các chiến sĩ Hồng quân và coi đây là một trong những hình thức quan trọng

để củng cố mối liên hệ của Hồng quân với hàng triệu quần chúng nông dân.

13

Qua nghiên cứu tác phẩm, có thể khẳng định: Sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá

trình giáo dục chính trị trong quân đội Liên Xô là làm cho các chiến sĩ Hồng

quân nhận thức được mối liên hệ gắn bó máu thịt với toàn thể nhân dân Xô-viết.

Tuy nhiên, có thể khẳng định: công tác chính trị của quân đội Liên Xô

trước đây đã thành công trong xây dựng Hồng quân để chiến thắng phát xít Đức

trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, nhưng đã không thành công trong bảo vệ Nhà

nước và chế độ Xô-viết, bảo vệ Đảng Cộng sản Liên Xô khi Đảng Cộng sản Liên

Xô sụp đổ do những nguyên nhân thoái hoá từ bên trong… Đó là bài học lớn cần

được Quân đội ta rút kinh nghiệm nhằm xây dựng, củng cố và tăng cường hơn

nữa mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân đội và nhân dân trong tình hình mới.

- Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1964

do La Trấn Vũ làm chủ biên, Trần Văn Tấn dịch. Trong tài liệu có đề cập

đến những tư tưởng cơ bản về vai trò quần chúng nhân dân của các nhà tư

tưởng cổ đại Trung Quốc. Mạnh Tử là người đánh giá cao vai trò của dân và

chỉ ra rằng các nhà cầm quyền giữ được nước hay để mất nước là do họ

được lòng dân hay là ngược lại. Ông nói:

Dân là quý, xã tắc là thứ yếu, vua là chuyện nhẹ. Các vua Kiệt, Trụ mà

mất thiên hạ là vì họ đã mất lòng dân. Tại sao họ mất dân? Là vì họ làm mất

lòng dân. Muốn được thiên hạ, phải có đạo của nó. Đạo ấy là được dân thì

liền được ngay thiên hạ. Được dân cũng phải có đạo của nó. Đạo ấy là được

lòng dân thì liền được dân ngay [91, tr.247].

Như vậy, có thể khẳng định: “đạo” để làm được lòng dân theo tư tưởng

của Mạnh Tử có thể được coi là ý tưởng về dân vận đầu tiên trong lịch sử.

Tuân Tử - một nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại khác cho rằng: “Bậc

minh quân, trị nước phải giảng dụ cho dân, giảng dụ rồi mới làm, làm được

rồi thì ngừng lại, ngừng lại đúng ở chỗ cần thiết quan trọng thì thiên hạ sẽ yên

ổn, lòng người mà ngay thẳng thì thiên hạ sẽ yên trị” [91, tr.177].

Thực tế lịch sử đã chỉ ra rằng, trong tư tưởng chính trị về vấn đề quần

chúng nhân dân mà Mạnh Tử, Tuân Tử đã đề cao chủ yếu là nhằm vào tầng lớp

trên, kẻ sĩ, địa chủ hoặc thương nhân. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà tư

14

tưởng thời Trung Quốc cổ đại về chính sách chăn dân có thể đưa lại cho chúng

ta những ý tưởng về hoạch định chính sách dân vận thời nay vô cùng quý báu.

- Giáo trình Công tác chính trị của Quân Giải phóng nhân dân Trung

Quốc dùng trong các Học viện, nhà trường trong thời kỳ mới. Do Chương Tư

Nghị (Chủ biên), Nxb Đại học Quốc phòng QGPND Trung Quốc phát hành

lần thứ nhất tháng 6 năm 1986, lần thứ hai tháng 10 năm 1987. Người dịch D￾ương Minh Hào và Dương Thuỳ Trang - Cục Bảo vệ An ninh, Tổng cục

Chính trị QĐND Việt Nam. Nội dung gồm: Lời nói đầu và 10 phần với 47

chương. Đây là công trình mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Cuốn sách

tổng kết kinh nghiệm giáo huấn, phản ánh quy luật khách quan, khái quát

những vấn đề mang tính quy luật được rút ra từ thực tiễn; có sự sáng tạo mới

trên cơ sở phát huy truyền thống tốt đẹp đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội

Trung Quốc ngày càng hiện đại.

Bàn về ý nghĩa của xây dựng văn minh tinh thần XHCN, các tác giả khẳng định:

Xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa là tăng cường phát triển

quan hệ mới giữa Quân đội với nhân dân và chính quyền. Quân đội từ nhân

dân mà ra. Vì vậy, phải phục vụ nhân dân. Trong chiến tranh cách mạng

trường kỳ và trong thời gian sau ngày thành lập nước, Quân đội cùng chính

quyền địa phương và quần chúng nhân dân đoàn kết chặt chẽ, cùng chiến đấu,

kết thành quan hệ máu thịt thân thiết, tạo nên truyền thống tốt đẹp “yêu dân,

ủng hộ chính quyền và ủng hộ Quân đội” [46, tr.224].

Thông qua hoạt động xây dựng văn minh tinh thần của quân và dân

Trung Quốc, một số vấn đề còn tồn đọng từ trước được giải quyết một cách

ổn thoả. Giữa Quân đội và nhân dân đã có lý tưởng chung, mục tiêu chung,

quần chúng nhân dân cảm thấy yêu quý bộ đội như con em mình; cán bộ,

chiến sĩ cảm thấy yêu quý quần chúng nhân dân như chính người thân của

mình. Do đó, việc xây dựng tình đoàn kết quân - dân và đoàn kết Quân đội

với cấp uỷ, chính quyền địa phương phải được xây dựng trên nền tảng đó

càng phải được thử thách và rút kinh nghiệm thường xuyên trong thực tiễn.

15

Theo các tác giả, để tăng cường mối quan hệ quân - dân trong

QGPND Trung Quốc: một mặt, Quân đội phải tích cực tham gia và giúp đỡ

địa phương xây dựng XHCN. Đặc biệt là xây dựng các công trình trọng

điểm, dùng những việc làm thực tế từ xây dựng văn minh vật chất XHCN để

làm ảnh hưởng, tác động tốt tới quần chúng, thúc đẩy sự phát triển không

ngừng của sự nghiệp xây dựng XHCN; mặt khác, phải ra sức tuyên truyền

đường lối, chính sách của Đảng, tuyên truyền ý nghĩa to lớn của việc cải

cách thể chế kinh tế, phải kịp thời ca ngợi thành tích tốt của các gương điển

hình, kịp thời thông báo tin tức kinh tế cho quần chúng, cung cấp viện trợ

khoa học kỹ thuật, thúc đẩy cải cách kinh tế, nâng cao năng suất lao động...

Muốn vậy, phải “Lấy lãnh đạo địa phương làm chính” tức là triển

khai công tác quân và dân cùng xây dựng văn minh tinh thần XHCN dưới

sự chỉ đạo thống nhất của cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương. Bởi vì

trận địa cùng xây dựng ấy là địa phương, chỉ có kiên trì lấy lãnh đạo địa

phương làm chủ mới có thể làm cho nội dung, phương pháp, mục đích của

công cuộc xây dựng văn minh tinh thần XHCN của quân và dân càng phù

hợp hơn với tình hình thực tế và yêu cầu bức bách của quần chúng, mới

đảm bảo cho hoạt động xây dựng văn minh tinh thần XHCN đồng nhất với

trọng tâm công tác của địa phương, có thực sự làm được hai nhiệm vụ xây

dựng văn minh vật chất và văn minh tinh thần mới bảo đảm tính liên tục và

ổn định của công cuộc xây dựng văn minh tinh thần XHCN. Quán triệt

nguyên tắc này, các đơn vị phải chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ và chính

quyền địa phương, kịp thời báo cáo xin chỉ thị công tác, phải chủ động

tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền, phải triển khai hoạt động xung

quanh trọng tâm công tác của địa phương, không được làm ngoài phạm vi,

phải chủ động giúp đỡ và dựa vào các tổ chức ở địa phương.

“Lấy phát động tính tự giác làm việc của quần chúng là chính”, đó là

sự vận dụng cụ thể đường lối quần chúng của Đảng chúng ta trong công cuộc

toàn dân, toàn quân cùng xây dựng văn minh tinh thần XHCN [46, tr.232].

16

Theo nhóm tác giả, có phát động quần chúng một cách đầy đủ mới phát

huy được tính sáng tạo và tính tích cực của họ, có như vậy công cuộc xây dựng

XHCN mới có cơ sở quần chúng vững chắc và mới có thể làm thật sự sinh

động, thật sự chắc chắn. Kiên trì nguyên tắc “phát động quần chúng làm chủ”,

bộ đội phải thường xuyên lắng nghe ý kiến quần chúng, đặc biệt là đối với một

số quy định liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, quyền lợi thiết thực của quần

chúng và những quy định mang tính bắt buộc như là nếp sống văn minh, hương

ước cần phải tôn trọng và phát động quần chúng thảo luận một cách toàn diện,

khơi dậy tinh thần tự nguyện của quần chúng, đối với một số việc nên làm

nhưng quần chúng nhất thời chưa nhận thức được, phải kiên trì thuyết phục,

không được nôn nóng; phải phát huy tác dụng của các tổ chức đoàn thể ở địa

phương, hỗ trợ địa phương bồi dưỡng đội ngũ cốt cán trong nhân dân để chọn

ra các đảng viên, cán bộ, đoàn viên và các phần tử tiên tiến, đưa họ vào tổ chức

và trở thành người dẫn đầu thúc đẩy quần chúng xây dựng XHCN.

“Lấy công tác tư tưởng chính trị làm chính”, tức là bộ đội phải kiên

trì nguyên tắc: “giúp đỡ về vặt tinh thần là chính, về mặt vật chất là phụ”.

Phải nắm chắc nhân tố tích cực, tuyên dương điển hình tiên tiến, dẫn dắt

quần chúng phát huy phong trào mới, đạo đức mới XHCN, thiết thực làm tốt

công tác vận động tư tưởng cho những người vào sau, giáo dục cho họ từ bỏ

thói hư tật xấu, trở thành dạng phong phú tôi luyện đạo đức trong sáng cho

mọi người, mở rộng mặt trận tư tưởng XHCN.

Nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về công tác giáo dục chính trị trong

QGPND Trung Quốc cho thấy, một vấn đề bức thiết đặt ra đối với công tác

chính trị hiện nay là tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động “Song ủng” (công tác

“dân vận”) trên cơ sở thực hiện một số quan điểm và biện pháp chủ yếu sau:

Một là, thắt chặt quan hệ quân - chính, quân - dân trong điều kiện kinh

tế thị trường nhằm mục tiêu chính trị là củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ

vững bản chất giai cấp cách mạng của QGPNDTQ.

Hai là, nguyên tắc hành động trong quan hệ quân - chính, quân - dân

trong điều kiện kinh tế thị trường phải tôn trọng chính quyền, yêu mến nhân

dân, chấp hành nghiêm kỷ luật, chính sách.

17

Ba là, xây dựng các thành phố (huyện) điển hình về “Song ủng” là hình thức

tốt để thúc đẩy đoàn kết quân - chính, quân - dân trong điều kiện kinh tế thị trường.

Như vậy, nghiên cứu về Quốc phòng Trung Quốc cho thấy: Quốc

phòng Trung Quốc là một nền quốc phòng toàn dân và các lực lượng vũ trang

Trung Quốc thuộc về nhân dân. Trách nhiệm và nhiệm vụ của các lực lượng

vũ trang Trung Quốc là góp phần xây dựng đất nước và phục vụ nhân dân.

Nhìn chung, các công trình nước ngoài chủ yếu bàn về vai trò của quần

chúng nhân dân và về mối quan hệ giữa quân đội với nhân dân. Tuy chưa đề cập

nhiều về CTDV, song đã khẳng định được mấy vấn đề cơ bản: một là, việc tăng

cường xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa Quân đội với nhân dân luôn giữ vai

trò quan trọng đặc biệt trong mọi thời kỳ của cách mạng; hai là, CTDV của quân

đội phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của tổ chức đảng, chính quyền

địa phương và phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng; ba

là, phải thường xuyên tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo; củng cố sự đoàn kết và

thu hút, tập hợp đồng bào tôn giáo trong sự nghiệp cách mạng XHCN.

1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài luận án

Công tác vận động quần chúng nói chung, CTDV ở vùng đồng bào theo

đạo nói riêng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, luôn được Đảng, Nhà nước

quan tâm lãnh đạo và được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Liên quan

đến đề tài luận án có các luận văn, luận án, đề tài khoa học, bài viết đăng tải

trên các tạp chí, thông tin dưới các góc độ khác nhau. Nhìn chung, các công

trình tiếp cận khai thác theo bốn nhóm vấn đề:

Nhóm công trình nghiên cứu CTDV của Quân đội và đổi mới CTDV

của QĐND Việt Nam:

Công tác dân vận của Quân đội trong tham gia giải quyết “điểm nóng” ở

địa phương - Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Hà Nội, 2006; Đổi mới công

tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo tư

tưởng Hồ Chí Minh - Vũ Đình Tấn, Luận án tiến sĩ xây dựng Đảng, Học viện

Chính trị quân sự, 2001; Đổi mới công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt

Nam trong tình hình mới - Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Hà Nội, 1996…

18

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, luận giải một cách toàn diện

về tầm quan trọng, thực trạng, giải pháp CTDV dưới những phạm vi, góc độ

và đối tượng nghiên cứu khác nhau. Trong đó, ở những đối tượng cụ thể và

các mức độ khác nhau, vấn đề đổi mới CTDV đã được tập trung nghiên cứu

trên một số nội dung chủ yếu là:

- Khẳng định vai trò của CTDV đã góp phần giữ vững ổn định chính trị,

phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững chủ

quyền biên giới, biển, đảo của Tổ quốc; củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn

kết gắn bó máu thịt quân - dân và xây dựng, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho

cán bộ, chiến sĩ... Đề tài “Công tác dân vận của Quân đội trong tham gia giải

quyết “điểm nóng” ở địa phương” khẳng định: …việc Quân đội tiến hành công

tác dân vận tham gia giải quyết điểm nóng có ý nghĩa quan trọng trong việc

khẳng định vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ cơ bản đã được Đảng và nhân

dân ta xác định, góp phần quan trọng vào việc xây dựng bản chất, truyền thống

cách mạng của Quân đội ta, thiết thực đấu tranh chống các luận điệu và mọi âm

mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch [112, tr.32].

- Các tác giả cũng khẳng định thành tựu đạt được, hạn chế khuyết điểm

trong CTDV của toàn quân. Cùng với thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm

thường xuyên là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, CTDV của LLVT đã nghiêm

túc quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, quan điểm công tác vận động

quần chúng của Đảng, Nhà nước vào hoạt động thực tiễn, có sự đổi mới cơ bản,

toàn diện cả về nhận thức, trách nhiệm, yêu cầu, nội dung, hình thức… [90].

CTDV của Quân đội đã có sự đổi mới, tiến bộ rõ rệt, đạt được kết quả quan

trọng. Đó là tiền đề để tăng cường CTDV của Quân đội trong thời gian tới.

Đồng thời, các công trình đã phân tích đặc điểm, tình hình nhiệm vụ

của đất nước, Quân đội, chỉ ra phương hướng, yêu cầu CTDV của Quân đội

trong thời gian tới... đặt ra vấn đề nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi tổ

chức, mọi lực lượng trong và ngoài Quân đội đối với công tác vận động quần

chúng nhân dân. Các công trình trên đã khẳng định: để tiếp tục tăng cường,

19

nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV của Quân đội trong tình hình hiện nay

phải đẩy mạnh việc đổi mới CTDV của các đơn vị quân đội trong toàn quân

cả về nhận thức, trách nhiệm, nội dung và hình thức... Trong luận án của

mình, tác giả Vũ Đình Tấn chỉ rõ: toàn quân đã có bước chuyển rất quan trọng

về nhận thức đối với CTDV; đã nâng cao được vai trò, trách nhiệm và năng

lực của cấp uỷ, chỉ huy các cấp trong lãnh đạo, tổ chức, điều hành đơn vị tiến

hành CTDV; tổ chức thực hiện đã có bước tiến bộ rõ nét - toàn diện, chặt chẽ,

đồng bộ hơn và ngày càng phù hợp hơn với tình hình mới; CTDV của Quân

đội đã có bước đổi mới về nội dung cũng như hình thức và bước đầu đem lại

kết quả thiết thực. Tuy nhiên, theo tác giả, nhận thức, tư duy về CTDV của

toàn quân vẫn chưa đổi mới kịp sự phát triển của tình hình, chưa đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới; tác phong và năng lực làm CTDV của cán

bộ, chiến sĩ còn hạn chế; còn để xảy ra một số vụ việc sai phạm làm ảnh

hưởng tới quan hệ quân - dân và uy tín “Bộ đội Cụ Hồ”; còn thiếu chủ động,

tích cực khảo sát nắm tình hình nên hạn chế trong việc chủ động đề xuất,

tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương xử lý tình hình, tiến hành các

hoạt động vận động nhân dân [90]. Đây là cơ sở để tác giả nghiên cứu, so

sánh thực trạng và đề xuất giải pháp tiến hành CTDV của các đơn vị quân đội

ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn MĐNB giai đoạn hiện nay.

Nhóm công trình nghiên cứu công tác vận động quần chúng, vận động

đồng bào tôn giáo:

Công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Nam Định từ năm

1990 đến nay - Hồ Xuân Định, Luận văn thạc sĩ Khoa học Tôn giáo, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004; Công tác vận động đồng bào Công

giáo xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh của bộ đội tỉnh Ninh Bình hiện

nay - Phạm Anh Linh, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị

quân sự, 2008; Công tác vận động đồng bào dân tộc Khmer của Đoàn B30

Quân khu 9 trong giai đoạn hiện nay - Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học

viện Chính trị quân sự, 2005; Công tác vận động quần chúng tham gia quản

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!