Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và tác động của nó đến xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên địa bàn Quân khu VII hiện nay
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ QUỐC PHÕNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGỌ VĂN DUY
Đề tài:CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÕNG TOÀN DÂN
TRÊN ĐỊA BÀN QUÂN KHU VII HIỆN NAY
HÀ NỘI - 2010
BỘ QUỐC PHÕNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGỌ VĂN DUY
Đề tài:CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÕNG TOÀN DÂN
TRÊN ĐỊA BÀN QUÂN KHU VII HIỆN NAY
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 62 31 01 01
HÀ NỘI - 2010
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của ®Ò tµi
Sau hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, DNNN cũng từng bước được đổi mới và dần dần khẳng
định là bộ phận cấu thành quan trọng của thành phần KTNN, góp phần quan trọng
để KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, trước yêu
cầu của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau, một bộ phận không nhỏ DNNN đã không
chuyển mình kịp để đáp ứng yêu cầu mới đặt ra, bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém cả
về hiệu quả SXKD, sức cạnh tranh tại thị trường trong nước và quốc tế, làm hạn
chế vai trò chủ đạo của KTNN đặc biệt là trong việc góp phần ổn định và điều tiết
nền kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Để phù hợp với sự vận động của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đồng thời cũng là để tháo gỡ những khó khăn, hạn chế nhằm phát huy
mạnh mẽ hơn nữa vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế, trong những năm
qua, DNNN đã được sắp xếp, đổi mới để nâng cao hiệu quả SXKD với một loạt
các giải pháp trong đó có giải pháp CPH. Cổ phần hoá DNNN trong thời gian vừa
qua về cơ bản đã bám sát và thực hiện đúng mục đích, yêu cầu do các Nghị quyết
của Đảng đề ra là cơ cấu lại DNNN, giảm những DNNN quy mô quá nhỏ, kinh
doanh thua lỗ, ở những lĩnh vực không nhất thiết phải có, để tập trung phát triển
các DN lớn ở các lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế; hình thành loại
hình DN đa sở hữu, thu hút các nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế, có cơ chế
quản lý năng động, hiệu quả hơn. Hầu hết các DNNN sau CPH đều có tốc độ
tăng trưởng cao, hoạt động kinh doanh có hiệu quả (quy mô vốn, tỷ xuất lợi
nhuận, thu nhập của người lao động, đóng góp cho ngân sách nhà nước đều tăng).
Tuy nhiªn, cổ phần hoá DNNN vừa qua thực hiện còn chậm và gặp không ít khó
khăn. Trong quá trình CPH, việc xác định giá trị DN thời kỳ đầu, khi chưa đấu
giá giá trị DN còn sơ hở, chưa tính đúng, tính đủ giá trị thương hiệu, lợi thế kinh
doanh và nhất là chưa xác định đúng giá trị quyền sử dụng đất để đưa vào giá trị
DN, làm thất thoát tài sản nhà nước, làm giàu cho một số cá nhân, gây bức xúc
trong xã hội. Đồng thời, quá trình CPH cũng làm xuất hiện những vấn đề mới
trên các lĩnh vực của đời sống KT - XH tác động đến việc xây dựng nền QPTD
và sự nghiệp BVTQ. Bên cạnh đó, việc huy động các nguồn lực cho thực hiện
nhiệm vụ xây dựng nền QPTD của các DNNN sau CPH cũng như thực trạng giải
quyết mối quan hệ này trên phạm vi cả nước cũng như ở địa bàn Quân khu VII
trên thực tế còn nhiều bất cập.
Quân khu VII là địa bàn có nhiều địa phương đi đầu và đạt được những kết
quả quan trọng trong việc thực hiện CPH doanh nghiệp nhà nước ngay từ khi có
chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề CPH. Đồng thời, Quân khu VII
cũng là một trong những địa bàn trọng điểm về quốc phòng - an ninh trong chiến
lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đây cũng là địa bàn hội tụ những vấn đề
nổi bật cả về CPH doanh nghiệp nhà nước và xây dựng nền QPTD.
Vì vậy, một trong những yêu cầu đặt ra là tiếp tục làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về
CPH doanh nghiệp nhà nước, về mối quan hệ giữa CPH doanh nghiệp nhà nước với xây
dựng nền QPTD và thực trạng của vấn đề này nói chung cũng như trên địa bàn Quân khu
VII nói riêng, từ đó đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản để phát huy những tác
động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của CPH và sau cổ phần hoá DNNN đến
xây dựng nền QPTD trên địa bàn. Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước và tác động của nó đến xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên địa
bàn quân khu VII hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ kinh tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích:
Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn CPH doanh nghiệp nhà nước
và tác động của nó đến xây dựng nền QPTD; Trên cơ sở đó xem xét những tác động của
CPH doanh nghiệp nhà nước và đề xuất quan điểm, giải pháp góp phần thúc đẩy quá
trình CPH doanh nghiệp nhà nước và phát huy những tác động tích cực, hạn chế những
tác động tiêu cực từ kết quả CPH đến xây dựng nền QPTD trên địa bàn Quân khu VII
thời gian tới.
* Nhiệm vụ
- Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về CPH doanh nghiệp nhà
nước và tác động của nó đến xây dựng nền QPTD.
- Trên cơ sở những vấn đề chung đó, phân tích rõ thực trạng CPH doanh
nghiệp nhà nước và tác động của CPH doanh nghiệp nhà nước đến xây dựng nền
QPTD trên địa bàn Quân khu VII.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình
CPH doanh nghiệp nhà nước và phát huy những tác động tích cực, hạn chế những
tác động tiêu cực từ CPH đến xây dựng nền QPTD trên địa bàn Quân khu VII.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề kinh tế và quốc phòng của quá
trình CPH doanh nghiệp nhà nước tại địa bàn Quân khu VII, và tác động hai chiều
của quá trình đó đến xây dựng nền QPTD trên địa bàn Quân khu.
Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Xây dựng nền QPTD ở Việt Nam có nội dung
rộng lớn và phong phú, nhưng luận án đi vào nghiên cứu những tác động của CPH
doanh nghiệp nhà nước đến xây dựng lực lượng (cả hiện hữu và tiềm tàng) và một
bộ phận của nội dung cấu thành thế trận QPTD đó là tác động của CPH doanh
nghiệp nhà nước đến xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) và phòng
thủ dân sự trên địa bàn Quân khu VII. Thời gian khảo sát là từ năm 1992.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp luận nghiên cứu
Cơ sở lý luận: luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về CPH, về xây
dựng nền QPTD; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ
Quốc phòng, của Đảng uỷ Quân khu VII, qui định của lãnh đạo và chính quyền
các tỉnh trên địa bàn Quân khu có liên quan đến nội dung luận án.
Cơ sở thực tiễn: từ thực trạng CPH doanh nghiệp nhà nước và những tác
động của nó đến xây dựng nền QPTD trên địa bàn Quân khu; tác giả nghiên cứu,
khảo sát thực tế ở một số DNNN trên địa bàn, tham khảo các thông tin, số liệu ở
một số công trình khoa học đã được công bố.
Phương pháp luận nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận án sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế
chính trị Mác - Lênin; Trên cơ sở đó sử dụng các phương pháp đặc thù của kinh tế
chính trị và KTQS Mác - Lênin; kết hợp phương pháp lôgíc và lịch sử, trừu tượng
hoá khoa học, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, và một số phương pháp khác
đang được sử dụng trong nghiên cứu kinh tế.
5. Đóng góp mới của luận án
- Chỉ ra nội dung tác động của quá trình CPH doanh nghiệp nhà nước đến
xây dựng nền QPTD nói chung, từ đó đánh giá thực trạng tác động trên địa bàn
Quân khu VII.
- Xác định quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm vừa thúc đẩy CPH doanh
nghiệp nhà nước diễn ra theo đúng quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, vừa phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực
từ CPH, sau CPH doanh nghiệp nhà nước đến xây dựng nền QPTD trên địa bàn
Quân khu VII.
6. Ý nghĩa của luận án
Những kết quả của luận án được rút ra từ nghiên cứu tại một địa bàn cụ thể
(Quân khu VII), nhưng sẽ góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn
về CPH doanh nghiệp nhà nước và tác động của nó đến xây dựng nền QPTD của
nước ta nói chung trong điều kiện hiện nay.
Luận ¸n có thể làm tài liệu tuyên truyền hoặc tham khảo trong nghiên cứu
và giảng dạy môn kinh tế chính trị, KTQS trong các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Gồm phần mở đầu; Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài;
3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục các công trình của tác giả đã công bố có
liên quan đến đề tài; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Một số tài liệu nghiên cứu nước ngoài về cổ phần hoá
Cổ phần hoá và các vấn đề liên quan đến CPH trong lịch sử và hiện tại đã
và đang được nhiều học giả thuộc các nhà tư tưởng tư sản và vô sản quan tâm
nghiên cứu. Do những giới hạn về điều kiện xã hội - lịch sử, các nhà nghiên cứu
trong lịch sử chưa có điều kiện để bàn về hiện tượng CPH, nhưng cũng được chứng
kiến sự xuất hiện của các CTCP trong quá trình phát triển của CNTB nên đã có sự
phân tích tương đối sâu sắc về hiện tượng ra đời và địa vị lịch sử của các CTCP
trong nền kinh tế TBCN. Mặc dù, ở thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh, sự xuất hiện
của các CTCP không phải là hệ quả của quá trình CPH các công ty tư bản nhà nước
mà là sự thành lập các CTCP từ các tư bản cá biệt làm cho tư bản mang tính chất tư
bản xã hội ở những mức độ khác nhau.
Trong điều kiện CNTB đã phát triển thành CNTB hiện đại, trong nền kinh
tế TBCN, đã xuất hiện sở hữu nhà nước - nhân tố tiền đề làm xuất hiện hiện tượng
CPH doanh nghiệp nhà nước trong xã hội tư bản. Hiện tượng kinh tế này trở thành
đề tài nghiên cứu cho nhiều học giả tư sản. Khi trong đời sống kinh tế thế giới
xuất hiện các mô hình KTTT trong các nền kinh tế chuyển đổi, ở các nước XHCN
đã thường xuất hiện những bài viết về CPH trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
theo mô hình KTTT. Trong các công trình nghiên cứu đó đáng chú ý là một số
công trình nghiên cứu của các học giả Trung Quốc: “Công cuộc vận động công ty
hoá ở Trung Quốc: một sự đánh giá và những hệ quả về chính sách” của TIAN
ZHU - Trường đại học Khoa học và Kinh tế Hồng Kông (Viện Nghiên cứu quản
lý Kinh tế Trung ương). Ở công trình này, tác giả đánh giá cuộc vận động công ty
hoá ở Trung Quốc dựa trên những vấn đề hiện tại của khu vực KTNN, để đưa ra
hiện trạng về những vấn đề về bộ máy quản lý ngày càng xấu đi, sức ép về phúc
lợi quá lớn cũng như cạnh tranh ngày càng tăng là những nhân tố góp phần làm
cho khu vực DNNN ở Trung Quốc ngày càng thua lỗ; mặc dù việc xã hội hoá sức
ép về phúc lợi xã hội có thể cải thiện sự lành mạnh về tài chính của các DNNN,
nhưng cuộc vận động công ty hoá trên quy mô lớn nếu không có các điều kiện cơ
bản về thể chế đi kèm thì tự bản thân nó không thể xử lý được vấn đề một cách cơ
bản đó là bộ máy quản lý. Tác giả đưa ra kết luận rằng, điều kiện quan trọng hàng
đầu để tái cơ cấu thành công khu vực DNNN là phải có sự chuyển đổi cơ bản về
sở hữu nhà nước và tạo lập bộ máy quản lý có hiệu quả, điều đó dẫn đến việc đòi
hỏi phải phát triển các thể chế định hướng thị trường của quốc gia, đặc biệt là các
thị trường tài chính và hệ thống pháp luật.
“Tìm tòi việc thí điểm cải cách chế độ cổ phần” của Lý Trường Hải; Nhân dân
nhật báo ngày 4/4/1994 (Học viện Chính trị - quân sự). Trong bài viết này, tác giả đưa ra
câu hỏi: làm thế nào để các xí nghiệp quốc doanh có thể chuyển đổi cơ chế kinh doanh
về cơ bản. Theo tác giả, theo đuổi mục tiêu xây dựng chế độ xã hội hiện đại mà Đảng
Cộng sản Trung Quốc xác định cải cách xí nghiệp một cách sâu sắc mà chế độ CTCP
(dụng ý chỉ sự cần thiết phải CPH) là hình thức tổ chức chủ yếu của chế độ xã hội hiện
đại; xí nghiệp quốc doanh thực hiện chế độ cổ phần nhằm tới mục đích: bảo đảm chắc
chắn nguồn vốn và gia tăng giá trị tài sản nhà nước; củng cố địa vị chủ thể của chế độ
công hữu, phát huy tốt hơn tác dụng chủ đạo của kinh tế quốc doanh (DNNN). Quá
trình thực hiện cải tổ kinh tế quốc doanh theo chế độ cổ phần trước hết phải làm tốt
công tác bình xét đánh giá tài sản quốc hữu, không để thất thoát tài sản quốc hữu. Tác
giả cũng chỉ ra: cải tổ chế độ cổ phần với xí nghiệp quốc doanh đã dẫn tới những biến
đổi sâu sắc là: 1) Chuyển biến tác phong kinh doanh của DN; 2) Đổi mới quan điểm, tư
tưởng của đội ngũ công nhân; 3) Hoàn thiện hơn nữa chế độ quản lý xí nghiệp; 4) Mở
rộng không gian kinh doanh của xí nghiệp.
“Những vấn đề khó khăn và viễn cảnh của công cuộc cải cách xí nghiệp quốc
doanh ở Trung Quốc” của tác giả Trịnh Phúc Viên; đăng trên Tạp chí nghiên cứu
“Trung công” (Đài Loan) số 9/1995. Trong đó tác giả đã phân tích những tệ nạn kéo
dài lâu ngày trong quá trình cải cách, hoàn cảnh khó khăn gặp phải và những sách
lược đổi mới của xí nghiệp quốc doanh ở Trung Quốc. Theo bài viết, việc chuyển đổi
các xí nghiệp quốc doanh thành CTCP bảo đảm: 1) Các công ty sản xuất các sản phẩm
đặc biệt và các xí nghiệp quốc phòng nên do một mình nhà nước đầu tư kinh doanh; 2)
Những xí nghiệp cốt cán trong các ngành trụ cột và ngành cơ sở nhà nước phải khống
chế cổ phần và thu hút vốn tham gia cổ phần của các lực lượng ngoài quốc doanh; 3)
Các CTCP hữu hạn trên thị trường chỉ chiếm số ít và nhà nước tăng cường kiểm soát;
4) Các tổng công ty ngành nghề có tính chất toàn quốc phải từng bước cải tổ thành các
công ty khống chế cổ phần.
Đáng chú ý tác giả chỉ ra quá trình CPH ở Trung Quốc đang gặp 4 trở
ngại lớn đó là: sự thâm căn cố đế của quan niệm truyền thống; chức năng của
chính quyền không dễ thay đổi; sự tồn tại của lực lượng lao động dôi thừa quá
lớn; không có cách nào để giải quyết món nợ khổng lồ.
2. Các công trình khoa học trong nước nghiên cứu về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước
Trong những năm qua, ở trong nước đã có nhiều công trình liên quan đến
CPH doanh nghiệp nhà nước được in thành sách chuyên khảo hoặc đăng trên các
báo và tạp chí như:
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: kinh nghiệm thế giới”, của Hoàng
Đức Tảo, Nguyễn Tiến Sơn, Ngô Xuân Bình. Sách do Nhà xuất bản Thống kê,
xuất bản năm 1993. Ở công trình khoa học này, các tác giả đã trình bày nội dung
căn bản của việc chuyển đổi sở hữu các DNNN, nét đặc trưng của hiện trạng kinh
tế quốc doanh các nước; mục tiêu, nguyên tắc, điều kiện và hình thức chuyển hoá
sở hữu, kinh nghiệm chuyển hoá sở hữu ở các nước trên thế giới. Trong đó, tác giả
làm rõ mục tiêu của việc chuyển đổi sở hữu đó là: 1) Nhanh chóng hình thành các
DN ngoài quốc doanh, tạo ra các chủ thể kinh doanh khác nhau trên thị trường, thu
hẹp và xoá bỏ tình trạng độc quyền của DNNN. 2) Thúc đẩy nâng cao hiệu quả
kinh doanh của từng DN và toàn bộ nền kinh tế. 3) Bằng cách chuyển hoá sở hữu
DNNN, buộc phải chuyển gần hết chức năng quản lý cho chủ sở hữu mà lâu nay bộ
máy nhà nước vẫn phải đảm đương. Về điều kiện để chuyển đổi sở hữu, tác giả nêu
ra: Sớm tạo ra cơ sở pháp lý và cơ sở phương pháp luận cho việc chuyển hoá sở
hữu DNNN; Phải xác lập chương trình tiến hành bao gồm những công việc chủ yếu
như phân loại tài sản và DNNN theo qui mô và xác định tỷ trọng chuyển đổi sở
hữu trong từng loại; Có sự quyết tâm cao của chính phủ và có sự thông hiểu của
quần chúng. Về hình thức chuyển đổi theo tác giả đó là: Bán trọn gói; Thuê khoán
và CPH, trong đó CPH được tiến hành rộng rãi hơn và có nhiều ưu điểm.
“Khu vực kinh tế quốc doanh ở các nước đang phát triển” do Đỗ Đức Định
chủ biên. Sách do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1990. Ở công
trình này, tác giả đã phản ánh được những mặt chủ yếu về lý luận và thực tiễn liên
quan đến thực trạng và giải pháp đối với khu vực kinh tế quốc doanh ở các nước
đang phát triển, đặc biệt là các khu vực châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn
Quốc, Thái Lan…tác giả cũng chỉ ra một số kinh nghiệm nước ngoài, tổng kết
những bài học và kinh nghiệm của các nước đồng thời phân tích thực trạng và
giải pháp đổi mới xí nghiệp quốc doanh ở nước ta; qua đó nêu ra một số đề xuất
bổ ích vào việc tìm kiếm giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp
quốc doanh ở nước ta trong đó có vấn đề CPH.
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - những vấn đề lý luận và thực tiễn”
do PGS, TS Lê Hồng Hạnh chủ biên. Sách do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn
hành năm 2004. Ở công trình khoa học này tác giả phản ánh tình hình DNNN ở các
quốc gia và xu thế cải cách DNNN, những vấn đề lý luận và thực tiễn về DNNN ở
Việt Nam, về CPH doanh nghiệp nhà nước, hoàn thiện nền tảng pháp lý cho CPH
doanh nghiệp nhà nước. Khi luận giải về lý luận và thực tiễn CPH doanh nghiệp
nhà nước, tác giả đã đi sâu phân tích những tác động của CPH doanh nghiệp nhà
nước: Một là, CPH có tác động làm cho sở hữu trong doanh nghiệp trở nên đa dạng
hơn. Vì vậy, nó giải quyết được khá triệt để vấn đề sở hữu trong DNNN vốn gây ra
những vướng mắc về hiệu quả và sự kém năng động trong SXKD; Hai là, CPH có
tác dụng trong việc xã hội hoá tư liệu sản xuất trong các DN có sở hữu một chủ.
Như vậy, các thực thể kinh tế vĩ mô cũng trở nên đa dạng sở hữu như bản thân nền
kinh tế vĩ mô. Điều này tạo sự tương thích nhất định của các giải pháp quản lý vĩ
mô và vi mô; Ba là, CPH tạo cho những người lao động cơ hội thực sự làm chủ
DN nếu như người lao động mong muốn. Tác giả chỉ rõ, bằng việc sở hữu cổ phần,
người lao động có thể tham gia vào quản lý DN từ đó nâng cao tính chủ động, tích
cực của người lao động không chỉ đối với các vấn đề của DN mà đối với các vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Phân tích về những tác động của quá trình CPH doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam, tác giả còn chỉ rõ những tác động của CPH đối với tăng trưởng kinh
tế và đối với vấn đề dân chủ hoá đời sống kinh tế và chống tham nhũng; tác
động đến các vấn đề xã hội và thúc đẩy phát triển TTCK.
Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ phân tích những tác động của CPH doanh
nghiệp nhà nước trên bình diện KT - XH chứ không phân tích tác động của CPH
doanh nghiệp nhà nước đến các lĩnh vực khác trong đó có lĩnh vực quốc phòng
và an ninh.
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nghiên cứu và vận dụng” của tác
giả Phạm Ngọc Côn. Sách do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm
2001. Trong công trình này, tác giả đã trình bày tổng quan về cải cách DNNN
và về CTCP; tình hình CPH doanh nghiệp nhà nước trên thế giới và ở Việt
Nam; công nghệ chuyển đổi DNNN thành CTCP.
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng trong công ty cổ phần” của các tác giả Phí Văn Chỉ, Đào Ngọc Long,
Phùng Anh Tuấn. Sách do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2000.
Các tác giả đã trình bày khái niệm về CPH doanh nghiệp nhà nước và sự tất yếu
khách quan của nó trong nền KTTT; kinh nghiệm CPH của một số nước trong
khu vực và trên thế giới; CPH ở Việt Nam, vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng trong các CTCP có vốn nhà nước.
Ở loại hình các bài báo khoa học, đã có một số lượng khá nhiều các bài
báo viết về CPH ở các khía cạnh khác nhau như: “CPH doanh nghiệp nhà nước
trong thập kỷ 90 - thành công và tồn tại ” của Nguyễn Hữu Đạt và Nguyễn Văn
Thạo, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 286 tháng 2/2002. “CPH doanh nghiệp nhà
nước ở Đồng Nai - thực trạng và giải pháp” của Phạm Văn Sáng, Tạp chí Kinh
tế và Dự báo số 1/2003. “Đẩy mạnh CPH và xây dựng CTCP trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Chơn Trung, Tạp chí Cộng sản số 20, tháng
10/2004. “CPH doanh nghiệp nhà nước với việc huy động và phát huy các
nguồn lực” của Đỗ Bình Dương, Tạp chí Cộng sản số 8 tháng 4 /2006. “CPH
doanh nghiệp nhà nước với người lao động và vai trò của công đoàn” của
Đặng Ngọc Chiến, Tạp chí Cộng sản số 14 tháng 7/2006. “Thách thức và triển
vọng đối với DNNN khi chuyển sang hoạt động theo luật doanh nghiệp (năm
2005)” của Hồ Xuân Hùng, Tạp chí Cộng sản số 13 tháng 7/2006. “CPH doanh
nghiệp nhà nước ở Đồng bằng sông Cửu Long: thực trạng và giải pháp” của
Trương Đông Lộc, Nguyễn Văn Ngân, Nguyễn Thị Diệu, Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế số 371 tháng 10/2004. “CPH doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn” của Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí Cộng sản tháng
11/2004. “CPH doanh nghiệp nhà nước: 15 năm nhìn lại” của Phạm Quang
Huấn, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 333 tháng 2/2006. “Để CPH không trở
thành tư nhân hoá về vận dụng phương pháp định giá trị doanh nghiệp khi
CPH” của Châu Oanh, Tạp chí Tài chính số 5/2007. “CPH doanh nghiêp nhà
nước - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn” của Quang Cận, Tạp chí Cộng sản số
785 tháng 3/2008. “CPH, cải cách DNNN tăng tốc trong điều kiện mới” của
Nguyễn Duy Long, Tạp chí Tài chính tháng 5/2008. “Nâng cao chất lượng và
sớm hoàn thành nhiệm vụ CPH doanh nghiệp nhà nước” của Đặng Văn Thanh,
Tạp chí Thông tin và dự báo KT - XH số 30 tháng 6/2008.
Nhìn chung ở các bài báo khoa học này, các tác giả đều khẳng định vai trò
quan trọng của CPH doanh nghiệp nhà nước, chỉ ra thực trạng, những hạn chế, khó
khăn trong tiến trình CPH doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay như: tiến độ
CPH còn chậm, chưa đạt yêu cầu, nhất là CPH doanh nghiệp có qui mô lớn; đối
tượng CPH, đối tượng được mua cổ phần còn hạn hẹp, phương thức bán cổ phần
chưa thực sự phù hợp; qui định về qui trình CPH còn rườm rà, phức tạp, chưa phù
hợp với thực tế; cơ chế vận hành và chất lượng quản lý doanh nghiệp CPH chưa thực
sự đổi mới; tình trạng thất thoát và lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước trong và sau
quá trình CPH…Tiếp tục nêu ra chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
CPH, đồng thời đưa ra một số kiến nghị và giải pháp để thúc đẩy nhanh tiến trình cổ
phần hoá DNNN trong thời gian tiếp theo như: cần nâng cao và thống nhất nhận thức
về chủ trương, quan điểm; chỉ đạo kiên quyết đề cao trách nhiệm trong quá trình thực
hiện CPH doanh nghiệp nhà nước; đơn giản hoá các thủ tục hành chính liên quan
đến quá trình CPH; ban hành mới và hoàn thiện các cơ chế quản lý tài chính đối với
DN sau khi chuyển thành CTCP; trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện cần
tăng cường sự phối hợp, kiểm tra, giám sát giữa các bộ, ngành, các địa phương trong
việc triển khai lộ trình CPH. Song các tác giả cũng chỉ phân tích thuần tuý về mặt
kinh tế mà không đề cập đến mối quan hệ gắn kết giữa CPH doanh nghiệp nhà nước
với xây dựng nền QPTD.
Về mảng tác động của CPH đến củng cố quốc phòng, trong thời gian qua,
đã có nhiều nghị quyết, công trình khoa học, bài viết nghiên cứu được công bố.
Trong đó đề cập tác động nhiều chiều của quá trình phát triển kinh tế đến lĩnh vực
quốc phòng, đáng chú ý như: Quyết định số 339/QĐ - TTg Phê duyệt phương án
sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc Bộ Quốc phòng giai
đoạn 2008 -2010 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết số 71 của Đảng uỷ Quân
sự Trung ương về “nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời
kỳ mới - tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
quân đội” cũng đề cập đến chủ trương chuyển hướng các hoạt động sản xuất, xây
dựng kinh tế của các đơn vị trong toàn quân nhằm tập trung cho yêu cầu huấn
luyện và xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính qui, tinh nhuệ và từng
bước hiện đại. Riêng đối với các doanh nghiệp quân đội, cần căn cứ vào chức
năng, nhiệm vụ và vị trí đứng chân để sắp xếp lại theo hướng tập trung về qui mô,
nâng cao trình độ công nghệ, đa dạng và lưỡng dụng hoá sản phẩm công nghệ
nhằm nuôi dưỡng, phát triển tiềm lực công nghiệp quốc phòng và KHCN quân
sự; dần dần hình thành và phát triển khu Kinh tế - quốc phòng dọc theo chiều dài
biên giới của Tổ quốc.
Dưới góc độ luận án, luận văn liên quan đến vấn đề CPH; CPH và tác
động của nó đến củng cố quốc phòng đã có một số đề tài được thực hiện.Trong
đó đáng chú ý là:
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam”, luận án tiến sỹ kinh
tế của tác giả Nguyễn Thị Thơm (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh -
1999). Ở công trình này đã nghiên cứu và tổng kết khá công phu về lý luận và
thực tiễn CPH doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chỉ nghiên
cứu chung về CPH doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn đầu của tiến trình xắp
sếp, chuyển đổi DNNN. Do vậy cũng chưa thể đánh giá hết được những vấn đề
hạn chế, phức tạp liên quan đến CPH nhất là về sau này khi lộ trình CPH được
đẩy mạnh và tiến hành rộng rãi.
“Các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả tiến trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước”, luận án tiến sỹ kinh tế của tác giả Trần Hồng Thái
(Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - 2001). Tác giả đã trình bày lịch sử
hình thành phát triển của kinh tế cổ phần và tính quy luật của tiến trình phát
triển các loại hình DN. Nêu ra thực trạng các DNNN và những vấn đề đặt ra
cho tiến trình CPH một số DNNN như: đổi mới cơ chế, chính sách quản lý
DN quốc doanh theo cơ chế thị trường định hướng XHCN; hiệu quả hoạt
động SXKD của các DN quốc doanh trong quá trình đổi mới; những yếu kém
tồn tại và những nguyên nhân cơ bản làm cho DNNN hoạt động kém hiệu quả
trong đó có các vấn đề về tốc độ tăng trưởng và hiệu quả SXKD; vấn đề kỹ
thuật, công nghệ và việc làm, lao động dôi dư đang là áp lực đối với ngân
sách nhà nước. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất các nhóm giải pháp bao gồm:
nhóm giải pháp nhằm tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước thông qua các
chính sách kinh tế vĩ mô và nhóm giải pháp liên quan đến DN nhằm thực hiện
có hiệu quả tiến trình CPH doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
“Cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước trong ngành Giao thông
vận tải - Thực trạng và giải pháp”, luận án tiến sỹ kinh tế của Lê Văn Hội (Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - 2003). Tác giả tập trung nghiên cứu các
vấn đề lý luận và thực tiễn của CPH các DNNN của ngành giao thông vận tải,
chủ yếu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến thực hiện CPH; những vấn đề đặt
ra sau CPH doanh nghiệp nhà nước như: vấn đề quản trị DN; vấn đề lao động
dôi dư…chưa được tác giả đề cập.
“Tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam trong giai đoạn đến năm 2010”, luận án tiến sỹ kinh tế của Đỗ Thị Hoài Phi
(Viện Kinh tế học - 2003). Luận án đánh giá thực trạng quá trình CPH doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam từ 1992 đến 2003 và kinh nghiệm CPH ở các nước
trên thế giới. Tác giả nêu ra những luận cứ khoa học để đẩy mạnh CPH doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam bao gồm những yêu cầu của việc đổi mới toàn diện
kinh tế đất nước; việc phát triển KTTT định hướng XHCN; yêu cầu của hội nhập
kinh tế quốc tế; yêu cầu của việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu qủa của
DNNN…Trên cơ sở đó, đề xuất hệ thống nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình
này bao gồm: phân loại DN và xây dựng lộ trình CPH; quyền, nghĩa vụ của DN và
người lao động khi DNNN được CPH; giải pháp các vấn đề về DN, và nhóm các
giải pháp hỗ trợ CPH và sau CPH.
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Một trong những giải pháp quan
trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường”, luận án tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Đăng Liêm (Đại học kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh - 2003). Ở công trình khoa học này, tác giả trình bày một
số vấn đề lý luận về CTCP và CPH doanh nghiệp nhà nước. Nêu lên hiện trạng về
tổ chức quản lý và hoạt động SXKD của DNNN trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh. Đề ra các giải pháp cần thực hiện nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH doanh
nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả SXKD ở Việt Nam. Có nhiều vấn đề nghiên
cứu được tác giả nêu lên rất đáng chú ý đối với việc thực hiện chủ trương CPH
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.