Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Chương trình phát thanh trực tiếp “60 phút- bạn và tôi” của đài phát thanh – truyền hình đà nẵng (drt) năm 2011.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Thanh Hằng
SVTH: Nguyễn Thị Thương 1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
NGUYỄN THỊ THƯƠNG
CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH TRỰC TIẾP “60 PHÚTBẠN VÀ TÔI” CỦA ĐÀI PHÁT THANH – TRUYỀN HÌNH
ĐÀ NẴNG (DRT) NĂM 2011
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Thanh Hằng
SVTH: Nguyễn Thị Thương 2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong điều kiện bùng nổ các loại hình thông tin hiện nay, công chúng có
thể dễ dàng nắm bắt được thông tin và trở nên khó tính hơn đối với việc lựa chọn
kênh tiếp nhận. Vì vậy, mỗi loại hình thông tin cần phải tìm cách phát huy tối đa
thế mạnh của mình trong việc lôi cuốn công chúng.
Phát thanh - loại hình báo chí truyền thông từng độc tôn trong một thời
gian dài về việc chiếm lĩnh công chúng. Hiện nay, trước sự bùng nổ của các loại
hình thông tin đại chúng phát thanh đang đứng trước thách thức lớn. Việc ứng
dụng công nghệ phát thanh trực tiếp đang được các đài phát thanh trung ương và
địa phương thực hiện nhằm phát huy một cách tốt nhất thế mạnh của mình mà
không loại hình truyền thông nào có được để khẳng định được vị thế của mình
trong điều kiện hiện nay.
Chương trình phát thanh trực tiếp “60 phút bạn và tôi” là dự án "Phòng
chống HIV/AIDS cho thanh niên" do Ngân hàng Châu Á (ADB) và Trung ương
Đoàn tài trợ thực hiện, được triển khai ở 14 tỉnh, thành trong cả nước, trong đó
có Đài PT-TH Đà Nẵng (DRT). Thực tế chương trình này đã được đối tượng
chính là thính giả trẻ tuổi yêu thích. Đây cũng là chương trình phát thanh trực
tiếp duy nhất của Đài DRT cho đến thời điểm này.
Do không có điều kiện khảo sát rộng rãi, trong khuôn khổ Luận văn tốt
nghiệp của một sinh viên báo chí, tôi thực hiện đề tài “CHƯƠNG TRÌNH
PHÁT THANH TRỰC TIẾP “60 PHÚT- BẠN VÀ TÔI” CỦA ĐÀI PHÁT
THANH – TRUYỀN HÌNH ĐÀ NẴNG (DRT) NĂM 2011” nhằm kiểm nghiệm
trên thực tế một phần những kiến thức về báo phát thanh đã được học. Việc tìm
hiểu vấn đề này ở Đài DRT cũng giới hạn phạm vi thời gian khảo sát năm 2011.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Thanh Hằng
SVTH: Nguyễn Thị Thương 3
Thông việc qua khảo sát, đánh giá chương trình này, đề tài nhằm khẳng
định lại những đặc điểm cơ bản của công nghệ phát thanh trực tiếp, rút ra những
thành công, hạn chế của chương trình do Đài DRT thực hiện và đề xuất giải pháp
thực tế để tiếp tục nâng cao chất lượng chương trình cả về nội dung và hình thức
thể hiện.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Đã có một số giáo trình và sách đề cập về phương thức phát thanh trực
tiếp. Có thể kể ra đây một số công trình, đề tài như:
Cuốn “ Phát thanh trực tiếp” của GS,TS. Vũ Văn Hiền - TS Đức Dũng
(chủ biên) do Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội xuất bản năm 2007.
Cuốn “Báo phát thanh” của Phân viện Báo chí và Tuyên truyền – Đài
Tiếng nói Việt Nam cũng dành một chương về phát thanh trực tiếp
Ngoài ra có một số bài báo, tham luận của các nhà báo phát thanh về phát
thanh trực tiếp. Tuy nhiên, đó là những vấn đề chung nhất về phát thanh trực
tiếp. Trong khi đó, ở Đài TNVN và các Đài PTTH địa phương, phát thanh trực
tiếp được sử dụng ở rất nhiều chương trình.
Trên cơ sở những kiến thức ban đầu thu nhận được qua môn học Báo Phát
thanh ở nhà trường và tài liệu tham khảo, tôi đi sâu nghiên cứu vào việc tổ chức
thực hiện một chương trình phát thanh trực tiếp cụ thể. “60 phút- bạn và tôi” là
chương trình phát thanh trực tiếp duy nhất đến thời điểm này của Đài Phát thanh
Truyền hình Đà Nẵng. Thông qua khảo sát, phân tích thực tiễn, hy vọng đề tài
này tiếp tục đóng góp thêm một phần lý luận về phát thanh trực tiếp và có ý
nghĩa đối với hoạt động nghiệp vụ của Đài DRT nói riêng và các đài phát thanh
nói chung.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Thanh Hằng
SVTH: Nguyễn Thị Thương 4
Nội dung và hình thức thể hiện của “chương trình“60 phút bạn và tôi”
của Đài phát thanh – truyền hình Đà Nẵng”. Do điều kiện thời gian thực tập
ngắn, tôi giới hạn phạm vi thời gian khảo sát các chương trình trong năm 2011.
Thông qua đánh giá thực trạng với những thành công và hạn chế, đề xuất những
giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng chương trình.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để tiến hành đề tài này, tôi sử dụng hai phương pháp cơ bản là nghiên cứu
lí thuyết và khảo sát thực tiễn.
Nhóm nghiên cứu lí thuyết bao gồm : Đọc, tra cứu thông tin ở các sách
báo bàn về lí luận báo chí, lí luận phát thanh trực tiếp từ nhiều nguồn sách,
chuyên đề, giáo trình, mạng Internet…
Nhóm khảo sát thực tiễn bao gồm: thống kê văn bản, băng âm thanh lưu
trữ, gặp gỡ phỏng vấn (ghi âm) một số nhà báo trực tiếp tham gia sản xuất
chương trình, một số tài liệu liên quan của Đài DRT, phân tích – tổng hợp, kết
luận. Khi thực hiện đề tài này, tôi còn với tu cách là một thính giả thường xuyên
của chương trình 60 phút bạn và tôi.
6. Cấu trúc đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
Luận văn này gồm 03 chương :
Chương 1: Một số vấn đề về phát thanh và phát thanh trực tiếp
Chương 2: Thực trạng chương trình phát thanh trực tiếp “60 phútBạn và tôi” của Đài Phát thanh truyền hình Đà Nẵng
Chương 3: Giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng Chương trình phát
thanh trực tiếp ở Đài Phát thanh Truyền hình Đà Nẵng.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Thanh Hằng
SVTH: Nguyễn Thị Thương 5
PHẦN NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁT THANH VÀ PHÁT THANH TRỰC TIẾP
1.1. Một số vấn đề về phát thanh
1.1.1. Qúa trình phát triển của phát thanh
Công nghiệp hóa trong thế kỉ XIX thúc đẩy các nghành kĩ thuật phát triển
đã tạo cơ sở vật chất cho sự đổi mới kĩ thuật truyền thông đại chúng. Vào thế kỉ
XIX, sự thay đổi lớn lao về nhận thức là truyền thông phát triển nhờ kĩ thuật
không ngừng được nâng cao. Chính vì thế, sự ra đời của truyền tin không cần
dây dẫn hay có thể nói cách khác là có thể truyền ngay lập tức lên không trung
các bức thông điệp, vốn là ý tưởng của Ambrose Fleming, vốn cố khoa học của
nhà bác học Marconi, một nhà phát minh người Italia. Rồi những năm sau đó
không ít nhà khoa học có tên tuổi xuất hiện như Faraday, rồi Maxwell đạt được
từ năm 1832 trở về sau cho phép ý tưởng trên dưới góc độ lí thuyết có khả năng
trở thành hiện thực. Năm 1875, Alexander Graham Bell trong khi đang chế tạo ra
một thiết bị điện tín hiệu ra âm thanh đa tình cờ phát hiện ra bí quyết truyền
tiếng nói qua điện. Năm 1887, Rudoljj Hertz, nhà vật lý học người Đức đã thí
nghiệm và chứng minh rằng sự biến đổi nhanh chóng của dòng điện có thể bảo
vệ được trong không trung theo dạng của sóng radio, tương tự như kiểu của ánh
sáng và nhiệt. Những phát minh về “ diode”, “triode” đã đặt những viên gạch cơ
bản cho sự ra đời của điện thoại, radio và truyền hình.
Năm 1895, nhà vật lí người Nga A. Popov đã phát minh ra ăng ten vô tuyến
điện và ngày 7 tháng 5 năm đó ông giới thiệu máy thu sóng đầu tiên tại hội nghị
vật lý và hóa học tại Saint Peterbourg. Cũng vào thời điểm này nhà bác học Ý
Marconi tiến hành thí nghiệm truyền tính hiệu vô tuyến đầu tiên với khoảng cách
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Thanh Hằng
SVTH: Nguyễn Thị Thương 6
400m, rồi 2.000m. Ông nhận được giải nobel về vật lý cho những đóng góp
trong việc phát triển hệ thống điện báo vô tuyến của mình.
Cho đến đầu thế kỉ 20, mặc dù điện tín đã được sử dụng rộng rãi nhưng
không ai nghĩ đến việc dùng nó như một phương tiện truyền thông cho công
chúng. Một giáo sư người Mĩ của trường đại học Pittsbufgh tên là Ronald
Fessenden đã chứng minh điều đó có thể thực hiện được bằng thiết bị vô tuyến
điện. Năm 1906, Lee De Forest phát minh ra ống chân không thì tương lai của
radio mới được đảm bảo. Trong lúc tìm cách chế tạo một máy thu tín hiệu sóng
vô tuyến điện, ông đã phát minh ra triode – một chi tiết kĩ thuật cho phép điều
khiển dòng điện từ và biến đổi cường độ của nó theo ý muốn. Đây là nhân tố cơ
bản tạo bước ngoặt cho sự ra đời của phát thanh. Năm 1907 ông dùng máy gi âm
của công ty máy quay đĩa Columbia để phát các buổi hòa nhạc đến những người
say mê máy thu thanh. Ngày 13/1/1910 là một mốc nữa trong lịch sử phát thanh
radio khi tiếng hát của giọng nam cao nổi tiếng thế giới Enrico Caruso đã được
ghi âm tại thành phố New York . Năm này cũng là năm David Samoff làm cho
công ty Mareconi trở nên nổi tiếng vì đã chuyển đến công chúng những tin tức từ
nơi xảy nạn đắm tàu Titanic. Ông đã thông tin cho công chúng về những diễn
biến của thảm họa này trong suốt ba ngày đêm. Năm 1916, tờ báo “ người Mỹ” ở
New York đã lập cho De Forest – “cha đẻ của nghành phát thanh” có thể công bố
kết quả bầu cử tổng thống giữa Wilson và Hughes cho một số người say mê phát
thanh.
Phát thanh ra đời đem lại sự hứng khởi cho đông dảo công chúng về một
phương tiện truyền thông mới không những nhanh nhạy, hiệu quả mà còn hấp
dẫn, kích thích sự hiếu kì của người nghe bởi phương thức truyền thông rất sinh
động. Năm 1919, các đài phát thanh tư nhân bị cấm hoạt động cho dù một số
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Thanh Hằng
SVTH: Nguyễn Thị Thương 7
người đã nhận ra một thị trường người nghe rộng lớn tiềm ẩn trong công chúng.
Năm 1922, các “hộp chơi nhạc” được sản xuất hàng loạt và được sử dụng trong
các phòng khách hoặc phòng đọc của các gia đình. Chỉ trong năm đầu tiên, số
doanh thu của phát minh mới này đã lên đến 11.000 USD. Cũng năm 1919, ba
công ty truyền thông và sản xuất điện lớn là Westinghouse, General Elestric, và
American Telephone &Telegraph (AT & T) đã chung nhau giấy đăng kí kinh
doanh và lập nên tập đoàn phát thanh Mỹ (RCA) Samoff được chỉ định làm giám
đốc thương mại của tập đoàn này.
Làn sóng người say mê phát thanh lan khắp Bắc Mỹ và Châu Âu . Từ năm
1922 đến 1930, radio và báo in có sự cạnh tranh,ganh đua quyết liệt. Những năm
1930 – 1940 được coi là thời đại hoàng kim của radio. Năm 1924, một thống kê
cho biết có khoảng 10 triệu người Mỹ nghe kết quả bầu cử Tổng thống qua đài.
Năm 1933 ở Đức có 5.053.000 giấy phép cấp cho công dân được quyền mua đài
thu than. Trong khi ở Anh là 6.000.000 và ở Pháp là 1.308.000. Sáu năm sau,
năm 1939 con số này là 13.711.000 máy thu thanh ở Đức ( tăng 217%),
8.900.000 máy ở Anh (tăng 148%) và 4.902.000 máy ở Pháp ( tăng 318%).
Tính hiệu quả của radio một lần nữa được chứng minh trong chiến tranh thế
giới thứ hai. Không một lực lượng nào không dùng phát thanh làm phương tiện
cho mục đích, tôn chỉ và tập hợp lực lượng quần chúng, truyền phát mệnh lệnh
quân sự hay tiến hành hoạt động binh vận,…Đầu thập kỉ 40 mới có khoảng
20.000 máy thu hình ở Anh, 10.000 máy ở Mỹ và chưa đầy 200 máy ở Pháp.
Vào năm 1945 khi ủy ban truyền thông liên bang Mỹ bắt đầu cấp lại giấy phép
cho các đài phát thanh trong thời bình, 909 đài AM thương mại đã được phép
hoạt động, 16 tháng sau có khoảng 600 đài mới và số cộng đồng có đài phát
thanh tắng lên gấp đôi. Vào năm 1950, ở Mỹ có 2.086 đài phát thanh AM với
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Thanh Hằng
SVTH: Nguyễn Thị Thương 8
khoảng 80 triệu máy thu thanh. Kĩ thuật phát thanh phát triển có tính chất thử
nghiệm vào năm 1936. AM là kĩ thuật điều biên được áp dụng trong phát thanh
sóng dài và sóng ngắn còn FM là kĩ thuật điều tần được áp dụng trong phát thanh
sóng cực ngắn. Đài phát thanh có công suất lớn hơn, có độ phủ sóng rộng hơn so
với đài FM, nhưng phát thanh FM tiến bộ hơn. Hiện nay, FM có vị trí áp đảo so
với đài AM vốn trước đây là anh lớn của mình. Phát thanh tiếp tục khẳng định vị
trí không thể thiếu được của mình trong xã hội hiện đại. Năm 1994, ước tính có
khoảng 1 tỷ chiếc máy thu thanh ở các nước đang phát triển. Nhiều nước cư 10
hộ gia đình thì có 9 máy thu thanh. Cùng với sự phát triển của thương mại, phát
thanh luôn phát triển. Hiện có khoảng 9.800 đài phát thanh thương mại phủ sóng
khắp thế giới. Ở Mỹ có tới 500 triệu máy thu thanh, trên 99% hộ có trung bìn 5 -
6 chiếc radio mỗi hộ. Trên 95% xe hơi có radio. Còn ở Pháp 99% người Pháp có
ít nhất một máy thu thanh.
Song trong xã hội phát triển và bùng nổ công nghệ thông tin, bởi buổi đầu
khi truyền hình xuất hiện, phát thanh đã đứng trước một cuộc cạnh tranh gay gắt
và thập kỉ 80 khi báo chí Internet ra đời thì phát thanh đứng trước bài toán hóc
búa đòi hỏi phải đổi mới và đổi mới hơn nữa.
1.1.2. Những hướng đi mới của phát thanh hiện đại
1.1.2.1. Phát thanh số
Nếu trong lịch sử phát triển gần trọn một thế kỉ qua, công nghệ phát thanh
chỉ dừng lại ở kĩ thuật dạng analog thì chỉ trong nửa đầu của thập kỉ 90 của thế kỉ
20, kĩ thuật số (digital) với các phương pháp mã hóa đã tạo ra một cuộc cách
mạng công nghệ phát thanh đó là phát thanh số (viết tắt là DAB) hay đôi khi còn
được gọi là DAR. Phát thanh số là giải pháp kĩ thuật tổng thể để truyền tín hiệu
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Thanh Hằng
SVTH: Nguyễn Thị Thương 9
dưới dạng số từ studio tới máy phát và sau đó từ ăng ten đến các máy thu vô
tuyến điện dân dụng.
Phát thanh số là công nghệ hứa hẹn cho phép truyền các chương trình phát
thanh không nhiễu và có chất lượng âm thanh trong vắt không thua kém đĩa CD
tới thính giả dù ở bất cứ nơi đâu. Máy thu phát thanh số trở nên đa phương tiện
giúp người tiếp nhận nhiều loại thông tin khác nhau. Phát thanh số khắc phục
được các nhược điểm cơ bản của phát thanh AM, FM như: nhiễu, méo trong
truyền sóng, giao thoa và đặc biệt giải quyết được vấn đề chật chội của dãy tần
số. Phát thanh số có thể gọi là phát thanh độ rõ cao tương tự như truyền hình độ
nét cao.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 40 quốc gia và khu vực phát thử và phát
thường xuyên DAB. Tiêu biểu là ở Đức phát thanh kĩ thuật số bao phủ được 36%
dân số với 120 chương trình ra phát tới 6000 máy thu kĩ thuật số. Ở Anh , vào
năm 1999 số giờ thính giả nghe phát thnah số hàng tuần lên đến hơn 800 triệu
giờ. Đài Smart Radio của Singapore là đài phát thanh đầu tiên ở châu Á hoàn
thành áp dụng kĩ thuật mới mẻ này. Trung quốc, Hồng Kông cũng đang thử
nghiệm và sử dụng các tiêu chuẩn phát thanh số khác nhau trong đó tiêu biểu:
Tiêu chuẩn EUREKA – 147 : Tiêu chuẩn này được hiệp viễn thông quốc
tế (ITU) nhất trí thông qua và được các nước châu Âu , Canada, Nhật Bản chấp
nhận sử dụng, tiêu chuẩn này đòi hỏi được phân định một phổ tần mới và không
có sự phân biệt giữa AM và FM, cung cấp chất lượng âm thanh hoàn hảo tới
từng nhà, từng phương tiện giao thông lưu động, không có nhiễu nhiều đường và
nhiều che chắn.
Tiêu chuẩn IBOC ( In Ban/ On – Channel) do Mỹ đề xướng và được hiệp
hội tổ chức phát thanh NAB ủng hộ, không đòi hỏi một phổ tần mới mà tận dụng
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Thanh Hằng
SVTH: Nguyễn Thị Thương 10
cơ sở vật chất kĩ thuật AM, FM hiện có. Tuy nhiên, chất lượng âm thanh không
cao và xảy ra hiện tượng giao thoa giữa tín hiệu digital và analog.
Tiêu chuẩn Wordspace ( ITU-R-Digital System D): Tiêu chuẩn này sử
dụng 3 vệ tinh địa tĩnh phủ sóng 3 vùng rộng lớn ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ
với số dân 4,6 tỷ người trong vùng phủ sóng. Mỗi vệ tinh sẽ phát xuống mặt đất
theo hướng 3 chùm tia, mỗi chùm có thể cung cấp tối đa 192 kênh âm mono, 96
kênh âm thanh stereo và 48 kênh âm thanh chất lượng CD.
Digital Radio Mondiale (DRM): Là hiệp hội gồm các tổ chức khác nhau
của nền công nghiệp phát thanh trên phạm vi toàn thế giới, hiện có 46 hội viên
bao gồm các đài phát thanh, thu thanh, dụng cụ bán dẫn, các trường đại học và
trung tâm nghiên cứu lớn như các tổ chức BBC (Anh), SONY (Nhật Bản), CEC
(Mỹ). Ưu điểm cho chất lượng âm thanh tương đương FM mono.
Cho đến thời điểm hiện nay, phát thanh số DAB phát triển còn chậm chạp
vì giá máy thu thanh DAB quá cao, và chưa thống nhất được tiêu chuẩn chung
cho toàn thế giới.
Đối với Việt Nam, vấn đề hóa số hệ thống kĩ thuật phát thanh đã được đài
Tiếng nói Việt Nam quan tâm từ những năm đầu thập kỉ 90. Đài đã trang bị và
đưa hệ thống thu thập tin bằng kĩ thuật số, truyền dẫn vệ tinh bằng kĩ thuật
số…vào sử dụng. Trong thời đại hiện nay, công nghệ truyền thông và Internet
đang phát triển như vũ bão, tạo nên những siêu lộ thông tin có dung lượng lớn và
tốc độ cao, góp phần phát triển công nghệ phát thanh số hóa và mở thêm kênh
truyền thông mới: Phát thanh Internet (Webcasting).
1.1.2.2. Phát thanh trên mạng Internet
Internet là phương tiện truyền thông hiện đại nhất cho phép truyền tải các
thể loại thông tin như: văn bản, hình ảnh, âm thanh , số liệu….với dung lượng