Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Chính sách dân tộc của chính quyền việt nam cộng hòa đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tây nguyên (1954 – 1963)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA CHÍNH QUYỀN
VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐỐI VỚI CÁC ĐỒNG BÀO
THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN (1954 – 1963)
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quốc Việt
Chuyên ngành : Sư Phạm Lịch Sử
Lớp : 15SLS
Người hướng dẫn : TS. Nguyễn Duy Phương
Đà Nẵng, 1/2019
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng chung sống. Mỗi dân
tộc có địa bàn cư trú riêng với những nét khác biệt về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội riêng biệt. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải có đối sách hợp lý cho từng dân tộc mới
có thể đoàn kết được nhân dân giữ gìn và xây dựng đất nước lâu bền. Vì vậy, không
phải ngẫu nhiên mà từ thời dựng nước đến nay, các bậc quân vương luôn luôn chú trọng
đề ra các chính sách thích hợp đối với các tộc người trên đất nước Việt Nam nhằm làm
cho dân giàu nước mạnh, trên dưới đồng lòng. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhấn mạnh sức mạnh đoàn kết toàn dân: “Đoàn kết là sức mạnh”, “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”; đồng thời Người cũng đánh giá
cao truyền thống cách mạng của đồng bào miền núi, Người nói: “Đồng bào miền núi có
truyền thống cần cù và dũng cảm. Trong thời kì cách mạng và kháng chiến đồng bào
miền núi đã có nhiều công trạng vẻ vang và oanh liệt”. Thực tiễn lịch sử đấu tranh chống
ngoại xâm của dân tộc cũng đã minh chứng cho điều đó, từ thời phong kiến đến hai
cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đồng
bào các dân tộc Tây Nguyên nói riêng đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu
tranh cách mạng chung của dân tộc làm nên Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi vẻ
vang, chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu, đại thắng mùa
xuân 1975,… Như vậy, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chính sách
dân tộc luôn là chính sách lớn và quan trọng của mọi thời đại.
Trong các vùng lãnh thổ của Việt Nam, Tây Nguyên là địa bàn sinh sống của phần
lớn đồng bào các dân tộc ít người. Thành phần dân cư ở Tây Nguyên rất phức tạp gồm
nhiều tộc người cùng chung sống, trong đó tộc người Jarai, Hré, Bana chiếm đại đa
số,…Địa hình cao nguyên đã phức tạp, hiểm trở, người dân lại có lối sống du canh du
cư nên gây rất nhiều khó khăn trong việc kiểm soát dân của nhà nước. Bên cạnh đó, Tây
Nguyên lại được thiên nhiên ưu ái ban cho nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,
đặc biệt là tài nguyên rừng – được mệnh danh là “kho vàng xanh” của cả nước. Đồng
thời, Tây Nguyên còn nắm giữ vai trò địa chính trị - quân sự quan trọng, nằm ở vị trí
“bản lề” của bán đảo Đông Dương, Tây Nguyên có tác động to lớn cả về kinh tế - chính
trị, an ninh – quốc phòng. Do đó vấn đề quản lý vùng Tây Nguyên thông qua việc đưa
ra chính sách Dân tộc hợp lý từ các triều đại phong kiến Việt Nam đến thời Pháp thuộc
và dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũng vẫn là vấn đề nan giải được giới chính khách
quan tâm.
Nhận thức được vai trò, ý nghĩa chiến lược về quân sự, chính trị, kinh tế của vùng
đất Tây Nguyên, ngay từ cuộc kháng chiến chống Pháp cả phe Cách mạng và phe Thực
dân Pháp đều luôn muốn khống chế và chiếm cứ vùng đất này. Cũng hiểu rõ điều đó,
sau khi lên nắm chính quyền, không chỉ Tổng thống Ngô Đình Diệm mà các đời tổng
thống kế nhiệm đã thực hiện hàng loạt các chính sách Dân tộc nhằm kiểm soát chặt chẽ
Tây Nguyên. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện những chính
sách đó ra sao? Hệ quả của những chính sách đó là gì thì đến này vẫn chưa có một công
trình chuyên khảo nào đề cập đến.
Trong thực tế, ở Tây Nguyên, sau sự kiện Fulro đã gióng lên hồi chuông cảnh báo
về chính sách dân tộc ở vùng đất này. Dù Đảng và Nhà nước đã quan tâm nhiều hơn
đến các chính sách đối với cộng đồng đồng bào các dân tộc thiểu số ở đây. Nhưng với
sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi một lần nữa, Đảng và Nhà nước
cần quan tâm nghiên cứu để thay đổi chính sách dân tộc cho phù hợp. Hiện nay trên thế
giới, vấn đề xung đột sắc tộc đang là vấn đề thời sự nóng bỏng, là nguyên nhân của
nhiều cuộc nội chiến đẫm máu. Nước ta trong giai đoạn hiện nay đã và đang xúc tiến
hơn nữa sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Để đề ra chính sách dân
tộc mới sáng tạo và đúng đắn, chúng ta cần nhìn lại chính sách dân tộc mà đế quốc Mỹ
- một cường quốc hàng đầu, đã từng áp dụng ở Tây Nguyên. Từ việc phân tích những
mặt làm được và hạn chế của nó, cũng như tác động của nó đến đời sống con người Tây
Nguyên, chúng ta có thể phát huy mặt tốt và tránh được những sai lầm không đáng có.
Thông qua nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn phần nào các chính sách
Dân tộc của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thời Đệ Nhất, phân tích những mặt đã
đạt được cũng như hạn chế của các chính sách trên. Từ đó, công trình góp phần bổ sung,
hoàn thiện chính sách Dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, đề tài cũng là một trong những lĩnh vực chưa được nghiên cứu rộng rãi
ở Việt Nam, với việc lựa chọn đề tài này tác giả mong muốn trên cơ sở tập hợp tư liệu
có liên quan, đóng góp thêm một góc nhìn mới về chính sách Dân tộc của chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa, giúp bổ sung thêm một nguồn tài liệu tham khảo cho những ai
quan tâm đến vấn đề này. Đồng thời, trong những năm gần đây, chúng ta đã có sự nhìn
nhận lại về chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và công nhận nó như một thực thể chính
trị đã từng tồn tại ở miền Nam Việt Nam; nghiên cứu về chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa và những vấn đề xoay quanh nó đang là một hướng nghiên cứu rất mới.
Chính vì những lý do nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài Chính sách Dân tộc của
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên (1954
– 1963) để làm nghiên cứu mặc dù nguồn tài liệu còn rất hạn hẹp.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu sớm nhất về vấn đề này chủ yếu là của các tác giả ở
miền Nam - giới trí thức, công nhân viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền Sài
Gòn. Tác phẩm của tác giả Paul Nưr (1966), Sơ lược về chính sách Thượng vụ trong
lịch sử, Sài Gòn, đã trình bày khái quát về các chính sách của chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa từ năm 1954 đến năm 1966 đối với dân tộc thiểu số vùng miền núi Nam Việt
Nam. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá những mặt tích cực, cũng như hạn chế trong
chính sách Dân tộc của chính quyền đương thời, đưa ra những kiến nghị. Tuy nhiên, tác
giả mới dừng lại ở những chủ trương, biện pháp mà chính quyền Việt Nam Cộng Hòa
cần đề ra, còn việc thực hiện và hiệu quả của các chính sách đó đến đâu đối với sự
chuyển biến kinh tế - xã hội của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên lại chưa được tác
giả đề cập.
Công trình của Toan Ánh, Cửu Long Giang (1974), Cao Nguyên Miền Thượng,
NXB Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh, đã cho chúng ta một bức tranh khá toàn diện về Tây
Nguyên từ nguồn gốc tộc người, thành phần dân cư, đặc điểm địa lý, đời sống kinh tế,
xã hội cho đến các phong tục tập quán của các tộc người nơi đây. Đây là công trình
nghiên cứu công phu về vùng đất và đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Công
trình này giúp tác giả hiểu thêm về đời sống, phong tục, tập quán của các tộc người Tây
Nguyên. Từ đó, tác giả nhận thức rõ ràng hơn tác động của chính sách Dân tộc do chính
quyền Ngô Đình Diệm đề ra đối với các tộc người bản địa Tây Nguyên.
Nguyễn Tuấn Triết (2007), Tây Nguyên, Những chặng đường lịch sử - văn hóa,
viện Khoa học Xã hội và Nhân văn. Nội dung cuốn sách đề cập đến lịch sử và văn hóa
vùng đất Tây Nguyên qua các chặng đường lịch sử từ trước công nguyên tới sau năm
1975. Trong đó tác giả dành riêng một chương để nói tổng quan về địa lý và dân cư
vùng Tây Nguyên.
Tác giả Nguyễn Duy Thụy (1/2010), “Mấy nét về chính sách kinh tế, xã hội của
Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Đắk Lắk trước ngày giải phóng ”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử. Tác giả tập trung nghiên cứu về chính sách của chính quyền Sài gòn đối với
tỉnh Đăk Lăk (Buôn Mê Thuột) – là tỉnh trọng điểm kinh tế của Tây Nguyên. Trong đó,
Nguyễn Duy Thụy trong việc phân tích chính sách về kinh tế, đặc biệt lưu tâm đến:
Chính sách “Dinh điền”, “Đồn điền”, “Chương trình kiến điền Thượng”... Đối với chính
sách về xã hội, Nguyễn Duy Thụy khẳng định, Chính quyền Mỹ - Diệm không những
đàn áp dã man những người cộng sản, đánh phá phong trào đấu tranh của quần chúng,
ra sức thủ tiêu quyền tự do dân chủ, chia rẽ tôn giáo mà còn tiến hành nhiều biện pháp
mua chuộc tầng lớp trên, trí thức, binh lính, thành lập tổ chức chính trị phản động mang
màu sắc dân tộc gọi là “tự trị Mỹ”, “lực lượng đặc biệt người Thượng ”, “FULRO”
(Front unifié de Lutte du Racé Oppimées - Mặt trận Thống nhất đấu tranh của các sắc
tộc bị áp bức).
Tác giả Nguyễn Văn Tiệp (2013), “Mấy nhận xét về chính sách Dân tộc đối với
các dân tộc thiểu số Tây Nguyên của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa dưới thời tổng
thống Ngô Đình Diệm (1954- 1963)”, Tạp chí Science & Technology Development, Vol
16, No.X1- 2013. Trong bài viết này, tác giả đã nêu được bối cảnh lịch sử, trình bày
một cách khái quát các chính sách của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa dưới thời Ngô
Đình Diệm đối với đồng bào các dân tộc thiếu số ở Tây Nguyên, cũng như đã có đánh
giá về các chính sách đó. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài viết, tác giả chưa thể cung
cấp cho người đọc cái nhìn tổng quan về vùng đất và con người Tây Nguyên. Trong
phần trình bày các chính sách, tác giả cũng chỉ nêu tên các chính sách và có một số nhận
xét, chứ chưa đi sâu phân tích, cũng như chưa đưa ra được các sự kiện lịch sử địa phương
để minh chứng cho các đánh giá của mình. Tuy nhiên, tác giả chưa đề ra bất kì kiến
nghị cũng như góp ý nào để góp phần hoàn thiện chính sách Dân tộc đương thời.
Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam, Lê Thị Hải Hiền, Đại học Sư phạm TP.
Hồ Chí Minh, năm 2014. Nội dung công trình luận văn thạc sĩ này đề cập đến lịch sử
hình thành của vùng đất Tây Nguyên từ thế kỉ XV – XIX. Công trình đã tập trung làm
rõ nguồn gốc hình thành của Tây Nguyên và khái quát những nét đặc trưng nhất của
vùng đất Thủy Xá, Hỏa xá về phương diện lịch sử, văn hóa trong thời kỳ phong kiến
Đại Việt. Công trình này giúp tác giả có thêm căn cứ để xác minh nguồn gốc của các
tộc người Tây Nguyên, cũng như quá trình ra đời của vùng đất Tây Nguyên trong lịch
sử. Tuy nhiên, hạn chế của công trình này là chỉ tập trung làm rõ phần lịch sử hình thành
chứ chưa đề cập làm sáng tỏ vấn đề kinh tế - văn hóa và đời sống xã hội của nhân dân
vùng đất Thủy Xá, Hỏa xá xưa.
Năm 2017, tác giả cùng nhóm của mình đã thực hiện công trình nghiên cứu khoa
học sinh viên “Vùng đất Tây Nguyên dưới thời Nguyễn 1802 -1858”. Công trình này
đã khái quát được bức tranh khá hoàn chỉnh về diện mạo vùng đất và các tộc người Tây
Nguyên dưới thời Nguyễn. Kế thừa công trình trên, tác giả đưa vào chương I của khóa
luận “Chính sách Dân tộc của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đối với các đồng bào
thiểu số ở Tây Nguyên (1954 – 1963)” những hiểu biết về điều kiện tự nhiên, lịch sử
hình thành, cũng như vài nét về kinh tế - văn hóa – xã hội Tây Nguyên; chính sách Dân
tộc của triều Nguyễn đối với vùng đất Tây Nguyên.
Ngoài ra, còn có một số công trình, bài báo khoa học hay bài nghiên cứu khác
cũng có phần nào đề cập đến vấn đề các chính sách của chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích khái quát các chính sách Dân tộc của chính
quyền Đệ Nhất Cộng Hòa đã thực hiện hòng kiểm soát và khai thác nguồn lợi từ vùng
đất Tây Nguyên. Đồng thời đề tài cũng nghiên cứu để làm rõ về nguyên nhân, bối cảnh
và hệ quả do chính sách Dân tộc của nền Đệ Nhất Cộng Hòa Gòn đề ra; từ đó rút ra
đánh giá, nhận xét về các chính sách đó.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu khái quát về các tộc người Tây Nguyên, về nguồn gốc và địa vực cư trú, cũng
như vài nét về tình hình kinh tế, xã hội và văn hóa của họ; Nghiên cứu hoàn cảnh ra đời,
nội dung cụ thể, cũng như tác động của chính sách Dân tộc của chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa thời Đệ Nhất đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các chính sách của nền Đệ Nhất Cộng Hòa đối với đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên (1954 – 1963).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: vùng đất Tây Nguyên.
- Về thời gian: từ 1954 – 1963.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic,
đứng trên quan điểm, lập trường của chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp lịch sử:
+ Trình bày những chính sách Dân tộc của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đối
với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo một trình tự thời gian và không gian
cụ thể.
+ Tiếp cận, sử dụng tư liệu từ việc quan sát, nghiên cứu các tài liệu, văn kiện lịch
sử;
- Phương pháp Logic: Đặt các sự kiện, hiện tượng trong mối liên hệ với nhau và
tổng hợp, so sánh, đối chiếu, phân tích chúng… để tìm ra được ý nghĩa, bản chất của sự
kiện lịch sử.
- Sử dụng kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học có liên quan như văn hóa
học, khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, nhân học, văn học, dân tộc học, địa lý học…
để tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về lịch sử và văn hóa của tộc người Tây Nguyên thời Nguyễn.
6. Đóng góp của công trình