Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Chiến lược năng lượng quốc gia và chính sách phát triển các nguồn năng lượng của Singapore
MIỄN PHÍ
Số trang
28
Kích thước
371.3 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1347

Chiến lược năng lượng quốc gia và chính sách phát triển các nguồn năng lượng của Singapore

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1.Tiềm năng năng lượng tái tạo của VN:

Các nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) của Việt

Nam rất đa dạng và phong phú, có thể được chia

thành hai lĩnh vực khai thác là thủy điện nhỏ và

phong điện, sinh khối và mặt trời và được phân

bổ rộng khắp trên toàn quốc. Sinh khối từ các sản

phẩm hay chất thải nông nghiệp có sản lượng

tương đương 10 triệu tấn dầu/năm. Tiềm năng khí

sinh học xấp xỉ 10 tỉ m3 năm có thể thu được từ

rác, phân động vật và chất thải nông nghiệp. Tiềm

năng kỹ thuật của thuỷ điện nhỏ (<30MW) hơn

4,000MW. Nguồn năng lượng mặt trời phong phú

với bức xạ nắng trung bình là 5kWh/m2 /ngày

phân bổ trên khắp đất nước. Vị trí địa lý của Việt

Nam với hơn 3,400km đường bờ biển cũng giúp

Việt Nam có tiềm năng rất lớn về năng lượng gió

với tiềm năng ước tính khoảng 500-1000

kWh/m2 /năm. Các nguồn năng lượng này, bằng

nhiều hình thức và hoạt động, một số đã được sử

dụng, tuy nhiên phần lớn tiềm năng vẫn chưa

được khai thác mà mới chỉ dừng lại ở mức độ

nghiên cứu, khảo sát.

2. Hiện trạng phát triển

Việc phát triển năng lượng tái tạo ở nước ta còn

gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất, chúng ta chưa có

đầy đủ hệ thống chính sách (hoặc có nhưng chưa

đủ mạnh) về phát triển năng lượng mới và tái tạo

nói chung và năng lượng gió nói riêng. Trong khi

các nước trong khu vực như Trung Quốc có Luật

Phát triển năng lượng tái tạo; Thái Lan đã chuyển

sang bước đầu tư thứ 2 quyết liệt hơn, kể cả việc

phụ thu 4 cent/lít xăng nhập khẩu để làm quỹ hỗ

trợ phát triển năng lượng sạch, thì ở nước ta việc

phát triển năng lượng tái tạo mới dừng ở chủ

trương, chưa trở thành chính sách cụ thể. Thứ hai

là việc đầu tư, đánh giá tiềm năng nguồn năng

lượng mới, năng lượng tái tạo còn manh mún,

chưa liền mạch. Do đó, cả việc nghiên cứu và ứng

dụng khai thác nguồn năng lượng này còn tản

mạn, ít ỏi. Thứ ba, những dạng năng lượng sản

xuất từ gió, nước, sinh khối thực vật và ánh sáng

mặt trời, trên thực tế “nguyên liệu thô” thường là

có sẵn và với khối lượng gần như vô hạn, nhưng

kinh phí đầu tư để khai thác sử dụng những

nguyên liệu đó trong điều kiện hiện nay lại rất

cao. Dưới đây là tình hình cụ thể một số dạng

năng lượng đã được khai thác ở nước ta:

Năng lượng từ thuỷ điện nhỏ

Lĩnh vực khai thác NLTT đã được triển khai ở

Việt Nam là các nguồn thủy điện nhỏ tại các tỉnh

miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và

miền Đông Nam Bộ... Tuy nhiên, số lượng điện

được sản xuất của toàn quốc mới chỉ dừng lại ở

mức khiêm tốn so với tổng lượng điện, theo đánh

giá sơ bộ, có thể phát triển trên 4000 MW thủy

điện nhỏ với sản lượng điện khoảng 16 tỷ kWh.

Ngoài ra, Việt Nam cũng còn có khoảng trên 1

triệu điểm có thể phát triển thuỷ điện cực nhỏ

(công suất từ 200 W-100 kW).

Năng lượng sinh khối

Một nguồn năng lượng cũng đã được sử dụng,

nhưng phổ biến trong các lĩnh vực khác hoặc chưa

dùng cho mục đích tạo NLTT là sinh khối với

nhiều dạng: gỗ, sản phẩm phụ của ngành lâm

nghiệp như mùn cưa, chất thải nông nghiệp như

Chính saùch phaùt trieån naêng löôïng môùi cuûa caùc nöôùc vaø Vieät Nam

2 CLCSCN No6/2012

Phaùt trie

å

n naêng löôïng taùi taïo taïi Vieät Nam

ca

à

n coù nhöõng chính saùch maïnh vaø roõ raøng

rơm, phân chuồng... Tiềm năng năng lượng sinh

khối bao gồm gỗ, củi, rơm rác, phụ phẩm nông

nghiệp... của Việt Nam khoảng 43 - 46 triệu TOE

(tấn dầu tương đương)/năm, trong đó khoảng

60% là năng lượng gỗ củi (26 - 27 triệu TOE) và

40% năng lượng rơm rác, phụ phẩm nông nghiệp

(17 - 19 triệu TOE).

Năng lượng khí sinh học

Tại khu vực nông thôn, nhất là trong lĩnh vực

chăn nuôi gia súc, việc thu lại khí sinh học (Bio￾gas) cũng được triển khai và đã có được thành

công nhất định. Nhưng cũng như thủy điện nhỏ,

lượng khí sinh học, chủ yếu từ hầm Biogas thu

gom phân chuồng, được khai thác chiếm tỷ lệ nhỏ

so với tổng tiềm năng lý thuyết về khí sinh học.

Theo ước tính, khí sinh học tại Việt Nam có thể

thu được từ phụ phẩm cây trồng chiếm 61,4%, thứ

đến tiềm năng từ phân động vật 28,7% và rác thải

sinh hoạt chỉ chiếm có 9,9%. Tuy nhiên trong

thực tế việc khai thác nguồn phân gia súc sẽ hiệu

quả hơn vì dễ thu gom, công nghệ áp dụng lại đơn

giản thường là các thiết bị quy mô gia đình ở từng

hộ, hoặc các thiết bị quy mô lớn ở các trang trại.

Tổng tiềm năng lý thuyết về khí sinh học từ các

nguồn trên vào khoảng gần 10 tỷ m3/năm, quy ra

dầu tương đương khoảng gần 5 triệu TOE/năm.

Năng lượng gió và mặt trời

Các lĩnh vực khác mới chỉ dừng lại ở quy mô

nghiên cứu và thử nghiệm. Về nguồn năng lượng

mặt trời và gió, do có vị trí địa lý thuận lợi, Việt

Nam nằm trong khoảng 80-230 vĩ độ Bắc thuộc

khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, mỗi năm có 2

mùa gió chính, vùng có tiềm năng gió tốt chỉ

chiếm 2% diện tích lãnh thổ, chủ yếu là các vùng

bờ biển hoặc vùng cao nguyên, còn đa số vùng có

chế độ gió 2-4 m/s. Tiềm năng gió ở một số vùng

ven biển và hải đảo có Vtb lớn hơn 4m/s (ở độ

cao 12m trên mặt đất) có thể ứng dụng các loại

động cơ gió phát điện. Cũng vì nằm trong vùng

nhiệt đới, số giờ nắng trung bình khoảng 2000 ÷

2500 giờ/năm, tổng năng lượng bức xạ mặt trời

trung bình khoảng 150 kCal/cm2.năm, tiềm năng

lý thuyết được đánh giá khoảng 43,9 tỷ TOE/năm.

Có thể sử dụng năng lượng mặt trời theo các dạng

như: Pin mặt trời để phát điện, hệ thống đun nước

nóng mặt trời, lò sấy bằng năng lượng mặt trời...

Nhiên liệu sinh học

Trong vài năm trở lại đây, nguồn nhiên liệu sinh

học đã được nhắc đến nhiều hơn tại Việt Nam.

Giải pháp sản xuất cồn sinh học thay thế cho

nhiên liệu động cơ đang được tiến hành thử

nghiệm do Việt Nam có tiềm năng về một số loại

cây trồng cung cấp nguyên liệu sản xuất cồn như

lúa, ngô, sắn, khoai và mía. Nhiều vùng có điều

kiện thổ nhưỡng, khí hậu thích hợp với các loại

cây này. Ước tính nếu việc điều chỉnh diện tích,

sản lượng các loại cây có hạt, cây mía, các cây có

củ đạt kết quả tích cực, Việt Nam có thể sản xuất

khoảng 5 tỷ lít cồn/năm. Tương tự như vậy, Việt

Nam rất có tiềm năng cho sản suất dầu diesel sinh

học từ dầu thực vật, mỡ động vật. Mỡ cá da trơn,

dầu ăn phế thải là nguồn nguyên liệu cho sản xuất

diesel sinh học sẽ giúp giải quyết được vấn đề môi

trường cho ngành chế biến thuỷ sản và chế biến

thực phẩm. Tiềm năng về điều kiện thổ nhưỡng,

khí hậu thích ứng với các loại cây như dừa, cây

dầu mè có thể cho phép thành lập các vùng

nguyên liệu tập trung. Ước tính nếu việc quy

hoạch và tổ chức thực hiện các vùng trồng cây

nguyên liệu theo hướng sử dụng triệt để quỹ đất,

tạo được giống năng suất cao, làm chủ được công

nghệ thu hồi dầu từ nguyên liệu, Việt Nam có thể

sản xuất khoảng 500 triệu lít biodiesel/năm.

Chính saùch phaùt trieån naêng löôïng môùi cuûa caùc nöôùc vaø Vieät Nam

CLCSCN No6/2012 3

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!