Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ đến năm 2010
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PH ẠM TH ỤC NHI ÊN
CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2007
2
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG MỸ
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGÀNH DỆT-MAY
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM
1.1, Giới thiệu về thị trường Mỹ :
1.1.1, Đặc điểm đất nước, văn hóa, con người Mỹ:
Là một nước có diện tích lớn thứ 3 trên thế giới (9.629.091 km2 chiếm 6,2%
diện tích toàn cầu) và với khoảng 290 triệu dân có nguồn gốc từ nhiều nơi khác
nhau trên thế giới, Mỹ là một xã hội đa dạng nhất trên thế giới. Mặc dù đại bộ phận
người Mỹ được coi là có nguồn gốc từ Châu Âu, song những người thiểu số như
người gốc Mỹ (người da đỏ), người Mỹ gốc Phi, người Hispanic, và người Châu Á
cũng rất đông. Hiện nay, mỗi năm có tới trên một triệu người nước ngoài di cư đến
Mỹ sinh sống và làm ăn, và dự kiến đến năm 2050 người Mỹ da trắng chỉ còn
chiếm dưới 50%. Các cộng đồng đang sinh sống ở Mỹ đều có những bản sắc riêng
của họ, kể cả ngôn ngữ, tôn giáo, tín ngưỡng, và phong tục; do vậy, rất khó có thể
khái quát chính xác được văn hóa nói chung và văn hóa kinh doanh nói riêng ở
nước này.
Khác với một số nền văn hóa khác, nhất là văn hóa Châu Á, nhìn chung,
người Mỹ rất coi trọng tự do cá nhân và tính tự lập. Gia đình, cộng đồng, tôn giáo,
hoặc tổ chức là thứ yếu so với các quyền cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân này cũng dẫn
đến một tính cách nổi bật của người Mỹ là cạnh tranh.
Phong cách chung của doanh nhân Mỹ là ít chú ý đến nghi lễ, đi thẳng vào
vấn đề, và muốn có kết quả nhanh. Trong đàm phán, người Mỹ thường xác định
trước và rõ mục tiêu cần đạt được, chiến lược và chiến thuật đàm phán, và dùng số
liệu để chứng minh cho các luận điểm của mình. Họ muốn dành chiến thắng về
phần mình, song cũng sẵn sàng thỏa hiệp trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. ở Mỹ, “có
3
đi có lại” là nguyên tắc quan trọng trong đàm phán chính trị cũng như trong kinh
doanh.
Người Mỹ thích nói thẳng, rõ ràng, và dễ hiểu. Họ không thích kiểu nói
vòng vo, xa xôi, hoặc ví von. Nhìn chung, khi người Mỹ nói “được” thì có nghĩa là
được và “không được” có nghĩa là không được. Người Mỹ không ngại ngùng khi
trả lời “tôi không biết” nếu như họ không biết về vấn đề mà bạn quan tâm, hoặc
“tôi không phụ trách việc này” nếu như vấn đề bạn quan tâm không trong phạm vi
trách nhiệm của họ. Tuy nhiên, người Mỹ thường sẵn sàng chỉ cho bạn biết bạn
phải hỏi ai hoặc tìm ở đâu để có những thông tin mà bạn cần, hoặc ai là người phụ
trách việc mà bạn quan tâm.Tính thẳng thắn và sự lịch thiệp cũng có mức độ khác
nhau tuỳ theo vùng. Người New York nổi tiếng là trực tính, và thậm chí hơi thô
bạo nếu so sánh với văn hóa Châu Á. Người ở vùng Trung Tây cũng thẳng thắn
nhưng thường lịch sự hơn nhiều. Người California không phải lúc nào cũng nói
đúng ý nghĩ của họ. Ví dụ ở Los Angeles – miền đất của những giấc mơ - nếu ai đó
nói với bạn “Tôi sẽ trở lại vấn đề này với bạn” thì cũng có thể là họ sẽ làm như vậy
thật, song cũng có thể họ ngụ ý là “Bạn không có cơ hội”.
Nhìn chung, người Mỹ không có thói quen nói hoặc cười to trong khi ăn
uống hoặc ở nơi công cộng. Họ rất tự giác xếp hàng đợi đến lượt mình khi có từ
hai người trở lên, và không có thói quen chen ngang hàng. Tại cửa ra vào thang
máy, tàu điện ngầm, hoặc xe buýt, người ở ngoài thường đợi cho người ở trong ra
hết rồi mới vào. Người Mỹ có thói quen cám ơn khi được người khác giúp đỡ dù
chỉ là một việc rất nhỏ như nhường đường chẳng hạn.
Cũng vì muốn tiết kiệm thời gian, nên các cuộc gặp làm việc với người Mỹ
thường là ngắn, tập trung và đi thẳng vào vấn đề. Đối với một số nền văn hóa vừa
gặp nhau đã bàn ngay đến chuyện làm ăn thì có thể bị coi là mất lịch sự, trong khi
đó người Mỹ lại thích nói chuyện làm ăn trước, sau đó mới nói đến chuyện cá nhân
và các chuyện khác. Vì vậy, thường thì khách, nhất là những người chào hàng phải
chuẩn bị rất kỹ và đi thẳng vào nội dung sau những câu chào hỏi xã giao ngắn gọn.
Yêu cầu này càng quan trọng nếu cuộc làm việc được tiến hành thông qua phiên
dịch vì thực chất thời gian làm việc chỉ còn tối đa một nửa. Trong các cuộc họp
4
hoặc gặp gỡ làm việc, người Mỹ có thể cắt ngang lời nhau để hỏi hoặc nêu ý kiến
của mình. Thói quen này có thể bị coi là bất lịch sự trong một số nền văn hóa Châu
Á. Do vậy, các nhà kinh doanh nước ngoài không nên ngạc nhiên khi bị người Mỹ
cắt lời để hỏi hoặc nêu ý kiến của họ.
1.1.2, Đặc điểm kinh tế của thị trường Mỹ:
Đồng USD của Mỹ vẫn là đồng tiền thanh toán quốc tế thịnh hành nhất.
Hiện khoảng 60% tiền mặt USD lưu hành ở ngoài nước Mỹ; tất cả thanh toán trong
lĩnh vực dầu khí, năng lượng thế giới đều bằng USD Mỹ. Trong điều kiện đó, tỷ
giá USD luôn là một vấn đề mấu chốt trong quan hệ kinh tế thương mại của Mỹ
với bên ngoài, là một nội dung chủ yếu của các cuộc gặp G7/G8 hàng năm. Mỹ và
các đối tác của Mỹ có thể mất hoặc được lợi hàng tỉ USD, và sức cạnh tranh kinh
tế có thể bị tác động lớn chỉ vì sự thay đổi tỷ giá đó chứ không phải do kết quả của
sản xuất trực tiếp. Vì vậy chính sách tiền tệ và quan hệ với thị trường vốn và tài
chính thế giới ra sao là một vấn đề đại sự trong nền kinh tế. Việc đa số các nước
đến nay dự trữ ngoại tệ chủ yếu bằng USD Mỹ mang lại lợi thế cho Mỹ (tuy cũng
có mặt khác, làm đồng tiền Mỹ tùy thuộc tình hình bên ngoài). Gần đây Trung
Quốc và một vài nước đã tính đến đa dạng hóa dự trữ đó qua các đồng tiền khác để
tránh rủi ro lớn nếu giá USD tụt giảm do tình trạng thâm thủng các cân đối tài
chính của Mỹ.
Hiến pháp Mỹ qui định Quốc hội Mỹ có quyền quản lý ngoại thương và
quyết định về thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, do việc tăng hoặc giảm thuế nhập khẩu,
ấn định hạn ngạch nhập khẩu, hoặc đàm phán các hiệp định thương mại quốc tế rất
phức tạp và ảnh hưởng đến lợi ích không những của Mỹ mà còn của các nước khác;
nên nhiều trách nhiệm trong những lĩnh vực này đã đuợc Quốc hội ủy quyền cho
các cơ quan hành pháp. Trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ được Quốc hội
ủy quyền, các cơ quan hành pháp được ủy quyền có trách nhiệm tham vấn thường
xuyên và chặt chẽ với các ủy ban có liên quan của Quốc hội và các nhóm cố vấn
của khu vực tư nhân.
1.1.2.1, GDP của Mỹ:
5
Hiện nay, và trong nhiều thập kỷ nữa, Mỹ vẫn là nước có nền kinh tế lớn
nhất và có sức cạnh tranh nhất trên thế giới. Năm 1999, GDP của Mỹ là 9.350 tỷ
USD trong khi của cả thế giới khoảng 40.700 tỷ USD và của cả khối G7 là 15.170
tỷ USD. Năm 2000, GDP của Nhật bằng 32% GDP của Mỹ, Đức bằng 19,4%,
Pháp bằng 14,6%, và Anh bằng 13,7%. Mặc dầu, tỷ trọng GDP của Mỹ trong tổng
GDP của toàn thế giới có xu hướng giảm, song hiện nay, Mỹ vẫn là nước có thu
nhập quốc dân lớn nhất và có thu nhập bình quân đầu người đứng đầu thế giới.
Năm 2005, tổng thu nhập quốc dân của Mỹ đạt xấp xỉ 12,5 nghìn tỷ USD (tính
theo sức mua – (PPP)purchasing power parity), chiếm khoảng 20.34% tổng GDP
toàn thế giới. Thu nhập bình quân đầu người ở năm 2005 đạt 41.557 USD (Xem
bảng 1.1).
Bảng 1.1
GDP CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ THẾ GIỚI NĂM 2005
Thứ tự Nước GDP (PPP)
(triệu USD)
Tỷ lệ % của
thế giới
GDP/người
(USD)
Thế giới 61.006.604 100,00%
1 United States 12.409.465 20,34% 41.557
2 China 8.572.666 14,05% 27.122
3 Japan 3.943.754 6,46% 30.897
4 India 3.815.553 6,25% 3.262
5 Germany 2.417.537 3,96% 31.400
6 United Kingdom 1.926.809 3,16% 31.400
7 France 1.829.559 3,00% 30.100
8 Italy 1.667.753 2,73% 29.700
9 Brazil 1.627.262 2,67% 8.600
10 Russia 1.559.934 2,56% 12.100
11 Spain 1.133.539 1,86% 27.000
12 Canada 1.061.236 1,74% 34.444
13 South Korea 1.056.094 1,73% 22.543
37 Vietnam 254.041 042% 2,782
Nguồn : The world Factbook & Wikipedia
Trong cơ cấu kinh tế của Mỹ, hiện nay, có tới 80% GDP được tạo ra từ các
ngành dịch vụ, trong khi đó công nghiệp chỉ chiếm 18%, và nông nghiệp chỉ đóng
góp 2%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP của Mỹ còn tiếp tục tăng trong các năm tới.
Mức tăng trưởng GDP bình quân của Mỹ trong thập kỷ 90 là 3,6% trong khi
đó mức tăng chung của cả khối G7 trong cùng thời kỳ chỉ là 2,6%. Tuy nhiên, tốc
6
độ tăng GDP thực tế của Mỹ từ năm 2000 trở lại đây không ổn định và thấp hơn so
với mức bình quân của thập kỷ 90. Cụ thể là mức tăng năm 2000 là 5%, 2001 là
0,5%, 2002 là 2,2%, và 2003 là 3,1%, năm 2005 là 6,4%.
1.1.2.2, Về mặt ngọai thương:
Mỹ là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và là một trong
ba nước thành lập ra Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Mỹ đã ký hiệp
định thương mại tự do song phương với một số nước, và dành ưu đãi thương mại
đơn phương cho nhiều nước đang và chậm phát triển. Hiện nay, Mỹ có quan hệ
buôn bán với 230 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2006, Trung quốc đã
vượt Mexico trở thành bạn hàng lớn thứ 2 của Mỹ sau Canada. Các nước bạn hàng
lớn tiếp theo của Mỹ là Nhật bản, Đức, Anh, Hàn Quốc, Đài Loan, Pháp, Malaysia
(xem bảng 1.2).
Tổng kim ngạch thương mại quốc tế (gồm cả hàng hóa và dịch vụ) của Mỹ
năm 2005 đạt xấp xỉ 3,27 nghìn tỷ USD, tăng khoảng 12% so với năm 2004, trong
đó kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá khoảng 2,57 nghìn tỷ, chiếm 78% tổng kim
ngạch thương mại quốc tế và bằng 20% GDP.
Kim ngạch xuất khẩu của Mỹ tăng dần qua các năm, năm 2005, kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa của Mỹ đạt xấp xỉ 904 tỷ USD, tăng 87 tỷ (10,6%) so với năm
2004. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của Mỹ tăng cao hơn năm 2005 rất lớn xấp
xỉ 133 tỷ (14,7%) đạt xấp xỉ 1.037tỷ USD. Năm 2006, có 20 nhóm hàng có kim
ngạch xuất khẩu tăng hơn năm 2005, các nhóm hàng có mức tăng cao nhất là năng
lượng nguyên tử, máy bay và các thiết bị hàng không vũ trụ; các sản phẩm dầu lửa;
và xe động cơ, năm 2006 các nhóm hàng này tăng so với năm 2005 là 60tỷ USD
chiếm gần 47% tổng trị giá xuất khẩu. (xem bảng 1.3)