Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
---- K ---
NGUYỄN HỮU HUY NHỰT
CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG
TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính ngân hàng
Mã số:60.31.12.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THANH TUYỀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010
PHẦN MỞ ĐẦU
Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu, rộng vào đời sống kinh tế quốc tế,
nhất là sau khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới -
WTO. Việc hội nhập đã giúp cho doanh nghiệp Việt Nam được đối xử bình đẳng
trên sân chơi quốc tế. Các nước sẽ không còn phân biệt mức thuế áp dụng cho
doanh nghiệp Việt Nam như trước đây. Sau một thời gian gia nhập WTO, các doanh
nghiệp Việt Nam đã bắt đầu nhìn thấy rất nhiều cơ hội đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài và chính họ đã và đang góp phần làm thay đổi dần quan niệm về đầu tư ra
nước ngoài từ phía nhà nước Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hình thức thâm nhập thị trường phát triển
gần đây tại các doanh nghiệp Việt Nam. Thực tiễn thế giới đã chứng tỏ rằng một
quốc gia mà có dòng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài càng mạnh thì càng có nhiều
khả năng mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất, tận dụng nguồn nguyên
liệu tại chỗ, tăng việc làm và tăng động lực phát triển kinh tế đất nước; đồng thời,
tăng cường khoa học công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và trình độ tiếp thị với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn là cách
để doanh nghiệp bảo toàn vốn hữu hiệu.
i. Đặt vấn đề
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp có thể chọn
các hình thức thâm nhập thị trường quốc tế như: xuất khẩu (Exporting), dự án trao
tay (Turnkey Projects), chuyển nhượng giấy phép (Licensing), nhượng quyền
thương mại (Franchising), sản xuất theo hợp đồng (Contract Manufacturing), hợp
đồng quản trị (Management Contracting), liên doanh (Joint Ventures), công ty con
sở hữu toàn bộ (Wholly Owned Subsidiaries), liên minh chiến lược (Strategic
Alliances)…; hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thông qua liên doanh hoặc
công ty con sở hữu toàn bộ là một trong những phương cách tốt nhất giúp doanh
nghiệp mở rộng thị trường, nâng cao vị thế của mình trên thế giới.
Song song với việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là phương thức không thể thiếu được ở một quốc gia thực hiện chính sách mở
2
cửa để hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thực chất
là việc chuyển các nguồn lực có lợi thế so sánh hoặc sản xuất dư thừa ở trong nước
như vốn, lao động, công nghệ... ra bên ngoài để tạo thế cạnh tranh, nâng cao năng
lực sản xuất, tìm nguồn tài nguyên thay thế, hạn chế ô nhiễm môi trường ở trong
nước và mở rộng thị trường tiêu thụ, nhằm thu được lợi ích cao nhất trong kinh tế.
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài dù còn mới mẻ đối với Việt Nam
nhưng từ lâu đã không còn xa lạ với các quốc gia phát triển trên thế giới. Đây chính
là một hướng đi mới, mang tính hấp dẫn cao đối với Việt Nam. Mặc dù có không ít
rủi ro, nhưng đó là một tiềm năng to lớn trong việc giúp doanh nghiệp mở rộng thị
trường, nâng vị thế của doanh nghiệp nói riêng và hình ảnh của Việt Nam nói chung
trên trường quốc tế. Thời gian vừa qua, các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam tuy vốn không lớn nhưng bước đầu đã đem lại những hiệu
quả nhất định. Trong xu thế hội nhập sâu rộng, chắc chắn, số dự án đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của Việt Nam sẽ không chỉ dừng lại ở ba con số. Do đó, cơ hội đẩy
mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vào
thời điểm này là rất lớn và rõ ràng đang có chiều hướng thuận lợi cho các doanh
nghiệp Việt Nam.
Mặt khác, tuy đã có một số doanh nghiệp thành công bước đầu khi đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài, nhưng đại đa số doanh nghiệp vẫn còn lúng túng trên nhiều
phương diện để thực hiện các dự án đầu tư ra ngoài. Có thể nói đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài là cơ hội đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp hay quốc gia; nhưng để
biến cơ hội thành thực tiễn hành động là một con đường rất dài, đòi hỏi một thế và
lực tương xứng để có thể đi trọn con đường “gian nan” ấy. Trong xu hướng phát
triển sắp tới, nhiều chuyên gia nhận định hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
tại Việt Nam sẽ phát triển nhanh chóng. Như vậy, Việt Nam cần phải làm gì trong
giai đoạn hiện nay và sắp tới để nâng cao thế và lực cho mình, làm như thế nào để
có thể nắm bắt và biến cơ hội thành hành động hiệu quả? Ngay lúc này, nhu cầu
thực tiễn đòi hỏi phải có chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam với
những giải pháp thích hợp, nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động này từng bước phát
triển như các nước trong khu vực và thế giới. Xuất phát từ ý nghĩa và bối cảnh đó,
tác giả đã chọn đề tài “Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
3
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” để nghiên cứu thực hiện luận án tiến sĩ
kinh tế của mình.
ii. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là (1) Phân tích thực trạng tình hình hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong thời gian qua về phía cơ
quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp nhằm tìm ra những khó khăn và hạn chế
đang cản trở sự phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; và (2)
Nghiên cứu xây dựng các quan điểm đẩy mạnh hoạt động này, đồng thời dự báo về
khả năng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong quá trình hội nhập; từ
đó, đề xuất hệ thống giải pháp (nhóm giải pháp về chiến lược, chính sách của nhà
nước và nhóm giải pháp xuất phát từ doanh nghiệp) để đẩy mạnh hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam.
Từ mục tiêu nghiên cứu trên, các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra bao gồm:
Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam thời gian qua?
Những thành công và khó khăn, hạn chế của hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài ở Việt Nam?
Giải pháp nào để đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
trong tương lai?
iii. Phương pháp, thông tin và thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp định tính: Nghiên cứu tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã xuất bản trong các tạp chí khoa học trong và
ngoài nước, các bài báo, tài liệu hội thảo, hội nghị, các tài liệu nghe nhìn; kết quả từ
thảo luận nhóm mục tiêu;… để làm cơ sở cho việc nghiên cứu định lượng tiếp sau.
Nghiên cứu định tính thông qua phỏng vấn tay đôi các doanh nghiệp đã đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài.
Phương pháp định lượng: Thông qua tiến hành khảo sát các doanh nghiệp
dự định đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
4
Ngoài ra, tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp truyền thống gồm:
phân tích, tổng hợp, thống kê, mô tả và so sánh.
Thông tin nghiên cứu
Thông tin thứ cấp: Thu thập từ Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Tổng cục Thống kê, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, báo chí,
tạp chí chuyên ngành, internet và thông tin của các tổ chức nghiên cứu liên quan.
Thông tin sơ cấp: Thu thập ý kiến từ các doanh nghiệp đã và chưa (dự
định) đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành theo 2 giai đoạn chính: giai đoạn 1 nghiên cứu
định tính, giai đoạn 2 nghiên cứu định lượng. Dữ liệu thu thập trong nghiên cứu
được xử lý bằng phần mềm SPSS for Windows 15.0 để phân tích các yếu tố thống
kê cơ bản (Phụ lục IV).
Giai đoạn 1: Nghiên cứu định tính
Dựa vào các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài, tác giả xây dựng và
hoàn thiện thang đo lường các khái niệm nghiên cứu; nghiên cứu lý thuyết dựa trên
nguồn thông tin thứ cấp thông qua các nghiên cứu đã xuất bản trong các tạp chí
khoa học trong và ngoài nước, các bài báo, tài liệu hội thảo, hội nghị, các tài liệu
nghe nhìn v.v…
Tác giả đã tiến hành trao đổi, thảo luận, phỏng vấn tay đôi dựa trên những
câu hỏi được chuẩn bị trước (Phụ lục I) với các doanh nghiệp đã đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài. Ngoài ra, nghiên cứu định tính còn được thực hiện thông qua kỹ thuật
thảo luận nhóm nhằm điều chỉnh, bổ sung thang đo các khái niệm nghiên cứu.
Giai đoạn này được xem là nghiên cứu sơ bộ nhằm khám phá, điều chỉnh và
bổ sung các yếu tố trong bảng câu hỏi phù hợp với thang đo. Kết quả của giai đoạn
nghiên cứu này sẽ được ghi nhận, tổng hợp và là cơ sở cho việc thiết kế bảng câu
hỏi sử dụng chính thức trong nghiên cứu định lượng.
5
Giai đoạn 2: Nghiên cứu định lượng
Phương pháp định lượng thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn được thiết kế để
trực tiếp điều tra khảo sát ý kiến của các doanh nghiệp dự định đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài (Phụ lục II), nhằm đánh giá thực trạng tình hình hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong thời gian qua cả về phía cơ quan quản lý nhà
nước, lẫn phía doanh nghiệp; tìm ra những khó khăn và hạn chế mà hoạt động này
đang gặp phải.
Trước khi phỏng vấn chính thức sẽ tiến hành phỏng vấn thử nhằm bổ sung
thêm một số tiêu chí cho phù hợp và hiệu chỉnh lại bảng câu hỏi nhằm tránh hiểu sai
nội dung cần phỏng vấn.
iv. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có chú trọng nghiên cứu thể chế
chính sách tác động đến hoạt động này để xây dựng chiến lược phát triển.
Các hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
được nghiên cứu mang tính tổng quát, không phân tích chi tiết từng ngành cụ thể.
Số liệu thứ cấp được thu thập từ năm 1989 (năm bắt đầu có dự án đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài) đến hết tháng 7 năm 2008 ở Việt Nam.
Các thông tin và dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra các doanh
nghiệp tại Việt Nam.
v. Những vấn đề nghiên cứu có liên quan
Ở Việt Nam từ trước đến nay hầu như rất ít sách cũng như đề tài nghiên cứu
về lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hiện tại chỉ có duy nhất 1 quyển sách
“Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài” của PGS.TS.
Đinh Trọng Thịnh, Học viện Tài chính, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, 2006. Tuy
nhiên, những số liệu trong quyển sách này đã cũ. Mặt khác, quyển sách không đi
sâu nghiên cứu bằng phương pháp định lượng để có thể đánh giá khách quan hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, xác định nhân tố ảnh hưởng, dự báo xu hướng
phát triển và đề xuất hệ thống giải pháp. Từ đó, càng thôi thúc tác giả - trên cơ sở
6
các nghiên cứu của chính tác giả trước đây - chọn đề tài này để nghiên cứu nhằm
tìm ra giải pháp đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.
Có 5 bài viết của tác giả (và đồng tác giả) đã được công bố trên Tạp chí Phát
triển kinh tế (tạp chí khoa học kinh tế của Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo) liên quan đến đề tài nghiên cứu, cụ thể gồm:
1. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2005), “Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt
Nam: Khó khăn và thách thức”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 173, trang 16-19;
2. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2005), “On Possibility of Investing Abroad by
Local Companies”, Economic development Review, Number 130, pp. 12-13;
3. Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2007), “Overseas
Investment from Vietnam under the Trend of International Integration”, Economic
development Review, Number 150, pp. 14-16;
4. Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2008), “Thâm nhập thị
trường thế giới bằng hoạt động nhượng quyền kinh doanh của doanh nghiệp Việt
Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 208, trang 9-12;
5. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2009), “Kinh nghiệm đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các nước Đông Á và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế,
số 220, trang 45-51.
Tất cả các nghiên cứu đã công bố nói trên chỉ là những lát cắt từ nhiều góc
độ về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, chúng
chưa phải là một nghiên cứu toàn diện - bằng kết quả khảo sát và các luận cứ khoa
học - để đi đến xây dựng chiến lược về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho Việt
Nam, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
vi. Những điểm mới của luận án
Một là, chọn nghiên cứu kinh nghiệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
nước Đông Á - do điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có nhiều nét tương
đồng - để rút ra những bài học kinh nghiệm hữu dụng cho Việt Nam;
7
Hai là, trình bày một bức tranh toàn cảnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Việt Nam gần 20 năm qua bằng những lát cắt: (1) phân theo thời gian, (2) phân theo
ngành kinh tế và (3) phân theo đối tác;
Ba là, chỉ ra những hạn chế thuộc về chính sách, pháp luật, công tác quản lý
nhà nước; và những khó khăn từ phía doanh nghiệp cần phải nhanh chóng khắc phục;
Bốn là, thông qua thảo luận với các doanh nghiệp có dự án đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài, cũng như kết quả điều tra những doanh nghiệp có dự định đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài; luận án khắc họa sự sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
cộng đồng doanh nghiệp, đây cũng chính là cơ sở cho việc đề xuất hệ thống giải
pháp thúc đẩy hoạt động này;
Năm là, đề ra hệ thống giải pháp (nhóm giải pháp về chiến lược, chính sách
của nhà nước và nhóm giải pháp xuất phát từ doanh nghiệp) có tính khả thi để đẩy
mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong tương lai.
vii. Kết cấu của luận án
Kết cấu chính của luận án gồm phần mở đầu, kết luận và 3 chương. Ngoài ra
còn có bảng thuật ngữ viết tắt, danh mục bảng, danh mục hình, tài liệu tham khảo
và phần phụ lục. Cụ thể như sau:
Phần mở đầu
Phần này trước tiên sẽ xác định vấn đề nghiên cứu từ đó hình thành mục tiêu
và câu hỏi nghiên cứu; giới thiệu phương pháp, thông tin và thiết kế nghiên cứu.
Phần này cũng chỉ rõ phạm vi nghiên cứu, những vấn đề nghiên cứu có liên quan,
những điểm mới cũng như kết cấu của luận án.
Chương 1. Cơ sở khoa học về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nội dung chính của chương 1 này đề cập đến những vấn đề mang tính lý
luận liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, kinh nghiệm đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của các nước Đông Á và bài học cho Việt Nam.
8
Chương 2. Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
Chương 2 đề cập đến tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Việt Nam trong thời gian qua về phía cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp,
những thuận lợi và khó khăn, hạn chế đang cản trở sự phát triển của hoạt động đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài. Chương này còn phân tích kết quả khảo sát tình hình
thực tế để đưa ra những cơ sở xây dựng thang đo, kiểm định các giả thuyết nhằm
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài Việt Nam.
Chương 3. Giải pháp đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Dựa trên kết quả phân tích từ chương 2, chương này sẽ xây dựng các quan
điểm, đồng thời dự báo về khả năng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế. Từ đó, đề xuất hệ thống giải pháp (nhóm giải pháp
về chiến lược, chính sách của nhà nước và nhóm giải pháp xuất phát từ doanh
nghiệp) nhằm đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam.
Kết luận.
9
Hình i.i. Tóm lược quy trình nghiên cứu (của tác giả)
Xác định
thông tin
cần
thu thập
Thiết kế
nghiên cứu
Đề xuất
hệ thống
giải pháp và
kết luận
Thu thập
dữ liệu
Xử lý
dữ liệu và
phân tích
thông tin
Xác định
mục tiêu
và câu hỏi
nghiên cứu
QUY
TRÌNH
NGHIÊN
CỨU
10
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Nội dung chính của chương 1 này đề cập đến những vấn đề mang tính lý
luận liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đồng thời, do điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có nhiều nét tương đồng nên tác giả quyết định
chọn nghiên cứu kinh nghiệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước Đông Á
[27], nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
1.1. Lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hoạt động đầu tư trên thế giới ngày càng phong phú và đa dạng, bao gồm
nhiều loại hình đầu tư khác nhau. Bên cạnh hoạt động đầu tư từ nguồn lực trong
nước, hoạt động đầu tư phát sinh từ một chủ đầu tư nằm bên ngoài phạm vi quốc gia
được đầu tư ngày càng trở nên một động lực to lớn nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh
tế thế giới. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn gắn liền với sự phát triển địa
bàn hoạt động của các công ty đa quốc gia.
Nguyên nhân hình thành đầu tư trực tiếp nước ngoài là do các công ty đa
quốc gia có những ưu thế riêng mà các đối thủ địa phương không có. Các ưu thế
này tập trung ở các phương pháp quản lý và công nghệ tiên tiến. Do đó, đầu tư trực
tiếp nước ngoài đẩy mạnh sự phổ biến quốc tế các công nghệ mới và tài sản vô
hình, đồng thời làm tăng hiệu quả công tác quản lý hay tổ chức sản xuất. Mặt khác,
khi nắm giữ chặt chẽ những ưu thế trên, các công ty đa quốc gia sẽ tác động lên các
yếu tố thiên phú riêng của các quốc gia, nhờ đó làm tăng thu nhập từ mậu dịch.
Cuối cùng, đầu tư nước ngoài trực tiếp ở nhiều quốc gia sẽ kích thích cạnh tranh
giữa các công ty.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi công dân của một nước (nước đầu tư)
nắm giữ quyền kiểm soát các hoạt động kinh tế ở một nước khác (nước chủ nhà hay
nước nhận đầu tư). Trong khái niệm này, thật sự không có sự đầu tư gia tăng về
kinh tế hay một sự chuyển giao ròng giữa các quốc gia mà đơn thuần chỉ là một sự
di chuyển tư bản từ quốc gia này sang quốc gia khác. Các công ty nắm quyền kiểm
11
soát hoạt động ở nhiều quốc gia được xem như các công ty đa quốc gia, các công ty
xuyên quốc gia hay các công ty toàn cầu. Sự phát triển hoạt động của các công ty
này chính là động lực thúc đẩy sự phát triển trong thương mại quốc tế thông qua
hình thức đầu tư trực tiếp vào các quốc gia khác trên thế giới [19].
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu
tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành
quyền điều hành hay tham gia điều hành đối với các doanh nghiệp sản xuất hoặc
kinh doanh dịch vụ thương mại [53].
Tổ chức Thương mại thế giới định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra
khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước
khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý
là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp,
cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.
Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là “công ty mẹ” và các
tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được hiểu đủ cả hai chiều, nghĩa là bao gồm
đầu tư vào và đầu tư ra ngoài biên giới một quốc gia. Vì vậy đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là một trong hai bộ phận của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cách hiểu đầu tư
trực tiếp nước ngoài tức là đầu tư trực tiếp của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
là chưa đầy đủ.
Theo Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 của Chính phủ quy định
về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam thì đầu tư ra nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam là việc doanh nghiệp Việt Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản
khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở nước ngoài [23].
Kế tiếp, Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ quy
định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giải thích từ ngữ đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động
đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài [24].
Tóm lại, theo tác giả, đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm hai bộ phận là đầu tư
trực tiếp vào trong nước do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện và đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài do các nhà đầu tư Việt Nam thực hiện. Trong đó, đầu tư trực tiếp ra
12
nước ngoài được xem là việc các nhà đầu tư Việt Nam đưa vốn đầu tư từ Việt Nam
ra nước ngoài để đầu tư dưới các hình thức theo quy định của pháp luật và trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp số vốn tối thiểu, tùy quy định
luật đầu tư từng nước. Các chủ đầu tư có thể bỏ vốn 100% hoặc liên doanh để thành
lập doanh nghiệp;
- Quyền điều hành quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn, nếu
đóng góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ nước ngoài điều hành;
- Lợi nhuận của chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Lời và lỗ được chia theo tỷ lệ góp vốn pháp
định sau khi đã nộp thuế lợi tức cho nước chủ nhà;
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường kèm theo chuyển giao công nghệ.
1.1.3. Bản chất và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thực tế phát triển của quan hệ quốc tế trong đầu tư những thập niên qua của
các nước trên thế giới cho thấy không chỉ các nước giàu đầu tư sang các nước
nghèo, mà bản thân các nước giàu cũng đầu tư sang nhau với tỷ trọng khá lớn,
chiếm tới ¾ vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước này. Các nước giàu đầu tư sang
các nước khác không chỉ vì mục tiêu kinh tế tìm lợi nhuận mà cả vì mục tiêu chính
trị. Các nước chậm phát triển không chỉ tiếp nhận đầu tư của các nước phát triển mà
cũng đầu tư sang các nước khác, mặc dù vẫn thiếu vốn cho sự phát triển kinh tế - xã
hội trong nước [40]. Nguồn gốc sâu xa của xu thế này là do sự tác động đồng thời
của bản thân hoạt động đầu tư đối với cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.
1.1.3.1. Đối với nước đi đầu tư
Bằng cách đầu tư ra nước ngoài, các nước đi đầu tư này tận dụng được lợi
thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (do giá lao động rẻ, chi phí khai
thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận
chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư, nhờ đó
13
mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các
công ty kéo dài chu kỳ sống của các sản phẩm mới được tạo ra trong nước, đồng
thời giúp cho công ty tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu dồi dào, ổn
định với giá rẻ (các nước nhận đầu tư là các nước đang phát triển thường có nguồn
tài nguyên phong phú, nhưng do hạn chế về vốn và công nghệ nên chưa được khai
thác, tiềm năng còn rất lớn).
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về
kinh tế, tăng cường ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế nhờ mở rộng được
thị trường tiêu thụ sản phẩm; đồng thời tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của
nước nhận đầu tư khi xuất khẩu sản phẩm là máy móc thiết bị sang nước nhận đầu
tư (để góp vốn) và xuất khẩu sản phẩm sản xuất tại đây sang các nước khác (do
chính sách xuất nhập khẩu ưu đãi của các nước nhận đầu tư nhằm khuyến khích
FDI, chuyển giao công nghệ và sản xuất hàng xuất khẩu của các cơ sở có vốn đầu tư
nước ngoài), nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với
hàng nhập từ các nước khác. Như vậy, đối với việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để
khai thác lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư, các chủ đầu tư trực tiếp sản xuất
được sản phẩm với giá thành hạ hơn so với sản xuất trong nước, nhờ đó các chủ đầu
tư có được ưu thế trong việc tiêu thụ sản phẩm này trên thị trường thế giới.
Xét cho cùng thì mục tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư ra nước ngoài là làm
cho đồng vốn được sử dụng với hiệu quả cao nhất. Cũng chính vì thế, ngay cả khi ở
quốc gia họ tình trạng thất nghiệp tăng mạnh nhưng họ vẫn tìm kiếm lao động ở
nước ngoài, vẫn đem vốn đi đầu tư trong khi lại thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
1.1.3.2. Đối với nước nhận đầu tư
Đầu tư nước ngoài giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế - xã
hội do tích lũy nội bộ thấp. Cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài, các công ty (chủ yếu là các công ty đa quốc gia) đã chuyển
giao công nghệ từ nước mình hoặc các nước khác sang nước nhận đầu tư. Mặc dù
còn nhiều hạn chế do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối, song điều
không thể phủ nhận được là chính nhờ sự chuyển giao này mà các nước chủ nhà
nhận được kỹ thuật tiên tiến (trong đó có những công nghệ không thể mua được
14
bằng quan hệ thương mại đơn thuần), kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội
ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về nhiều mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp
làm việc, kỷ luật lao động…).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào làm cho các hoạt động đầu tư trong nước
phát triển, tính năng động và khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước ngày
càng được tăng cường (để tồn tại và phát triển), các tiềm năng cho phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước có điều kiện để khai thác và được khai thác. Điều đó có tác
động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu công
nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ theo chiều hướng ngày càng
đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với xu
thế chung của thời đại; nước chủ nhà có thêm điều kiện để mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế, xác lập chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
1.1.4. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển của
thương mại quốc tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những tác động to lớn đến sự phát triển
thương mại quốc tế. Những tác động này ảnh hưởng không chỉ đến nước nhận đầu
tư mà ngay cả những nước xuất khẩu tư bản [19]. Những tác động đó bao gồm:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện thu hút nguồn nhu cầu mới. Các
công ty đa quốc gia (MNC) thường đạt tới một giai đoạn mà sự phát triển bị hạn chế
tại xứ sở của họ. Điều này có thể do sự cạnh tranh mãnh liệt đối với những sản
phẩm mà họ bán ra trên thị trường.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp các MNC thâm nhập vào những thị trường
có thể đạt được lợi nhuận cao. Nếu những công ty khác trong cùng một lĩnh vực
công nghệ đã chứng minh được rằng những nguồn thu nhập cao có thể thực hiện
được ở những thị trường khác thì một MNC nào đó cũng có thể quyết định thâm
nhập vào thị trường đó.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tăng năng suất. Một công ty có nỗ lực
muốn bán sản phẩm ban đầu của mình tại các thị trường mới có thể làm tăng mức
thu nhập cổ phần của mình do tăng năng suất. Điều này làm giảm chi phí bình quân