Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Căn cứ liên khu ủy ban quán sự khu v (1959- 1969)
PREMIUM
Số trang
322
Kích thước
17.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1901

Căn cứ liên khu ủy ban quán sự khu v (1959- 1969)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN KHẮC ĐIỆP

CĂN CỨ LIÊN KHU ỦY - BAN QUÂN SỰ KHU V

(1959-1969)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 822.90.13

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

LỊCH SỬ VIỆT NAM

Đà Nẵng - Năm 2019

Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. NGÔ VĂN HÀ

Phản biện 1:

PSG.TS. LƯU TRANG

Phản biện 2:

PGS.TS. TRƯƠNG CÔNG HUỲNH KỲ

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn

tốt nghiệp thạc sĩ Lịch sử Việt Nam họp tại Đại học Sư phạm

vào ngày 04 tháng 8 năm 2019

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Thư viện trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN

- Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm- ĐHĐN

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Căn cứ địa cách mạng, chiến khu cách mạng là vùng được chọn

để làm bàn đạp xây dựng và phát triển phong trào cách mạng rộng ra

các vùng khác. Căn cứ địa cách mạng phải có khả năng tạo được những

cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội và địa lí thuận lợi cho đấu tranh

cách mạng và chiến tranh cách mạng. Xây dựng căn cứ địa cách mạng

phải bắt đầu từ xây dựng cơ sở chính trị, cơ sở vũ trang, xây dựng chính

quyền cách mạng, trên cơ sở đó, từng bước xây dựng kinh tế và xã hội

đáp ứng nhu cầu phát triển của cách mạng.

Nắm vững học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn

đề căn cứ địa cách mạng, chiến khu cách mạng, hậu phương của chiến

tranh cách mạng, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và

đế quốc Mỹ, Đảng ta đã chủ động lãnh đạo xây dựng căn cứ địa cách

mạng, coi đó là một bộ phận quan trọng trong đường lối chiến tranh

nhân dân.

Trong các cuộc khởi nghĩa, chiến tranh hay vận động cách mạng,

vấn đề căn cứ địa - hậu phương trở thành vấn đề mang tính quy luật,

đồng thời là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc chiến

tranh, khởi nghĩa hay các cuộc cách mạng. Tiến trình lịch sử thế giới và

lịch sử dân tộc Việt Nam đã khẳng định điều này. Kế thừa truyền thống

đánh giặc giữ nước của dân tộc, trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng

tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng vào

nước ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh và

Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức chú trọng vấn đề xây dựng căn cứ

địa, đây là một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi của cách mạng

Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi một phần là nhờ

có căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai, căn cứ địa Cao Bằng, khu giải phóng

Việt Bắc và hàng chục chiến khu trong cả nước. Bước vào cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương

Đảng chọn và xây dựng căn cứ địa Việt Bắc trở thành trung tâm đầu

não của cuộc kháng chiến. Nhiều vùng tự do, căn cứ địa – hậu phương

2

đã được xây dựng trên khắp cả nước: Thanh – Nghệ – Tĩnh, Nam –

Ngãi – Bình – Phú, Đồng Tháp Mười, U Minh, Chiến khu Đ… Đây là

một nhân tố hết sức quan trọng đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến

chống Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954). Từ năm 1954 đến 1975, để

chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ – một nước đế

quốc mạnh nhất thế giới từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay,

Đảng ta đã tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng để giải phóng miền

Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân

tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Để hoàn thành nhiệm vụ cách

mạng to lớn này, ngoài việc xây dựng miền Bắc thành hậu phương

vững mạnh, thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, Đảng ta còn chủ

trương xây dựng và phát triển hệ thống căn cứ địa trên các địa bàn

chiến lược ở miền Nam như Trị Thiên, Tây Nguyên, Trung Trung Bộ,

Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ… Do tác động của mục

tiêu và nhiệm vụ cách mạng đặt ra, cũng như các điều kiện tự nhiên,

kinh tế, chính trị, xã hội ở khu vực, vùng miền mà ở miền Nam thời

chống Mỹ có nhiều loại hình căn cứ địa với các quy mô khác nhau. Mặt

khác, các căn cứ địa cách mạng ở miền Nam thời chống Mỹ có những

điểm giống nhau nhưng cũng có nhiều nét riêng do điều kiện lịch sử địa

phương quy định. Song, tất cả các căn cứ địa đã góp phần tạo ra tiềm

lực to lớn để quân và dân miền Nam đánh thắng các chiến lược chiến

tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Với vai trò và vị trí to lớn trên đây,

vấn đề căn cứ địa trở thành một bộ phận hữu cơ của cuộc chiến tranh

cách mạng ở miền Nam thời chống Mỹ. Đây là một đối tượng lịch sử

cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ vai trò và vị trí của một phương

thức chiến tranh cách mạng, góp phần làm sáng tỏ đầy đủ về lịch sử của

cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại do dân tộc ta tiến hành.

Vấn đề căn cứ địa thời chống Mỹ không chỉ cần và phải được khôi

phục, đánh giá một cách khách quan với những biểu hiện của nó, mà

còn phải làm rõ những điểm nổi bật có tính vùng miền của các căn cứ

địa trên các địa bàn chiến lược ở miền Nam. Để góp phần thực hiện

mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên, vấn đề nghiên cứu căn cứ Liên

khu ủy - Ban quân sự Khu V cũng đặt ra hết sức cần thiết. Đây là địa

3

bàn chiến lược hết sức quan trọng, là cửa ngõ từ Biển Đông vào miền

Trung và Tây Nguyên; là bàn đạp để tỏa đi các hướng chiến lược và các

chiến trường khác, đồng thời cũng là điểm đầu tiếp nhận sự chi viện từ

miền Bắc vào bằng đường bộ và đường biển. Vì vậy, đây cũng là địa

bàn giao tranh ác liệt giữa ta và địch.

Tại đây, nhiều căn cứ địa cách mạng đã được xây dựng như: Khu

Sông Đà (Đà Nẵng), Nước Oa, Nước Là, Sơn – Cẩm – Hà, Tiên Sơn …

Các căn cứ địa cách mạng đã hoàn thành tốt chức năng và nhiệm vụ của

mình, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước tại địa bàn cũng như trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ

nói chung của cả dân tộc. Tuy nhiên, cho đến nay, vì nhiều lý do khác

nhau, vấn đề căn cứ Liên khu ủy - Ban quân sự khu V giai đoạn 1954-

1975 mới chỉ được đề cập một cách khái lược trong các công trình

nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường

khu V cũng như trong các công trình tổng kết lịch sử truyền thống địa

phương.

Quảng Nam là vùng đất có truyền thống yêu nước, trung dũng,

kiên cường trong đấu tranh cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống

Mĩ cứu nước, Quảng Nam là một trong những cái nôi của phong trào

đấu tranh giành độc lập và là vùng chiến trường vô cùng ác liệt. Cùng

với các khu di tích Phước Trà (Hiệp Đức), địa đạo Kì Anh (Tam Kì),

Giếng Nhà Nhì (Điện Bàn) và các cứ điểm Tam Nghĩa ( Núi Thành),

Cấm Dơi (Quế Sơn), Thượng Đức (Đại Lộc), khu di tích lịch sử Nước

Oa được xem là một trong những chứng tích ghi dấu một thời oanh liệt

và hào hùng trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân đất

Quảng.

Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề căn cứ Liên khu ủy - Ban quân

sự Khu V giai đoạn 1959-1975 sẽ mang lại nhiều ý nghĩa khoa học và

thực tiễn. Về ý nghĩa khoa học, luận văn làm rõ quá trình hình thành,

phát triển, vai trò, đặc điểm của căn cứ trong cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước. Qua đó, bổ sung một số tư liệu làm rõ vai trò lãnh đạo

của các cấp ủy Đảng đối với vấn đề căn cứ địa; sự linh hoạt, sáng tạo

trong hoạt động tổ chức, xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các vùng

4

miền. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ đường lối chiến

tranh nhân dân của Đảng và chiến lược xây dựng căn cứ địa đã được

vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước ở Trung Trung Bộ. Kết quả nghiên cứu của luận án còn góp

phần bổ sung kiến thức nghiên cứu về lịch sử cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước nói chung, đặc biệt là đối với Trung Trung Bộ nói riêng.

Về ý nghĩa thực tiễn, từ những cứ liệu nghiên cứu để bước đầu rút ra

những bài học kinh nghiệm là một yêu cầu cần thiết nhằm phục vụ việc

thực hiện nhiệm vụ xây dựng thế trận an ninh – quốc phòng trên địa

bàn hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng sẽ góp phần vào

việc giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các tầng lớp

nhân dân, là cơ sở để trùng tu và bảo tồn các di tích căn cứ địa kháng

chiến thời chống Mỹ. Đây còn là nguồn tài liệu quý báu để nghiên cứu

và dạy học về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở các bậc

học.

Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên đây, tôi chọn vấn đề

Căn cứ Liên khu ủy - Ban quân sự Khu V giai đoạn 1959-1968 làm đề

tài luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu vấn đề

Liên quan đến nội dung luận án đã có một số công trình trong

nước phản ánh, đề cập với nhiều cấp độ và từ nhiều cách tiếp cận khác

nhau. Trong đó, tập trung lại có thể khái quát vào các nhóm như sau:

2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng

nói chung

2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng

ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ

2.3. Nhóm các công trình trực tiếp phản ánh hoạt động xây

dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Nghiên cứu, phục dựng một cách căn bản và tương đối đầy đủ về

Căn cứ Liên khu ủy - Ban quân sự Khu V nhằm phục vụ công tác

nghiên cứu, giảng dạy, giáo dục truyền thống và bổ sung tư liệu về cuộc

5

kháng chiến chống đế quốc Mỹ của quân và dân Quảng Nam. Luận văn

góp phần cung cấp những luận cứ cho việc xây dựng thế trận quốc

phòng - an ninh ở địa bàn trong tình hình mới.

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết một số

nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Nghiên cứu một cách toàn diện sự lãnh đạo của Đảng bộ Quảng

Nam; sự chủ động, sáng tạo của các cấp ủy Đảng trong lãnh đạo, chỉ

đạo, tổ chức xây dựng Căn cứ Liên Khu ủy - Ban quân sự khu V giai

đoạn 1959-1968.

- Làm rõ quá trình xây dựng, hoạt động của Căn cứ Liên Khu ủy

Ban quân sự khu V; đồng thời tái hiện đầy đủ cuộc đấu tranh anh dũng

của quân, dân Quảng Nam trong những năm kháng chiến chống đế

quốc Mỹ.

- Phân tích những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng, bảo vệ

và phát huy vai trò Căn cứ Liên Khu ủy - Ban quân sự khu V trong

cuộc kháng chiến chống chống đế quốc Mỹ (1959-1968).

- Rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ Quảng

Nam trong tổ chức, xây dựng và chiến đấu của Căn cứ Liên Khu ủy￾Ban quân sự khu V trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1959-

1968); vận dụng vào thực tiễn hiện nay về xây dựng khu vực phòng

thủ, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân,

thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam XHCN.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ Liên

khu ủy - Ban quân sự Khu V trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian: Từ năm 1959 đến năm 1968.

Về không gian: Tập trung ở địa bàn của các huyện Bắc Trà My,

Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam.

Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những yếu tố tác động đến

6

quá trình ra đời, xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa (điều

kiện địa lý tự nhiên, dân cư, tình hình kinh tế, xã hội, truyền thống lịch

sử; tình hình xây dựng chiến khu trong cuộc kháng chiến chống đế

quốc Mỹ); những âm mưu; thủ đoạn đánh phá chiến khu của đế quốc

Mỹ; chủ trương của Đảng về xây dựng chiến khu, căn cứ kháng chiến

trong mỗi giai đoạn cách mạng; hoạt động xây dựng chiến khu về các

mặt: Chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; các cuộc chiến đấu

bảo vệ chiến khu, căn cứ; đặc điểm, vai trò và một số bài học đúc rút từ

quá trình xây dựng và bảo vệ chiến khu, căn cứ cách mạng trong kháng

chiến chống đế quốc Mỹ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 1959

– 1968.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

5.1. Ý nghĩa khoa học

Luận văn làm rõ quá trình hình thành, phát triển, vai trò, vị trí,

đặc điểm của Căn cứ Liên khu ủy - Ban quân sự Khu V trong kháng

chiến chống đế quốc Mỹ. Qua đó, bổ sung một số tư liệu làm rõ vai trò

lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với vấn đề căn cứ địa; sự linh hoạt,

sáng tạo trong hoạt động tổ chức, xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các

vùng miền. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ đường lối

chiến tranh nhân dân của Đảng và chiến lược xây dựng căn cứ địa đã

được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cuộc kháng chiến chống

đế quốc Mỹ ở Quảng Nam.

Kết quả của luận văn còn góp phần bổ sung kiến thức nghiên cứu

về lịch sử kháng chiến chống đế quốc Mỹ của Đảng bộ và nhân dân

Quảng Nam, giai đoạn 1954-1975.

5.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc giáo dục

truyền thống yêu nước và cách mạng cho các tầng lớp nhân dân, là cơ

sở để bảo tồn, trùng tu, tôn tạo các di tích cách mạng về căn cứ địa

kháng chiến thời đế quốc Mỹ. Đây còn là nguồn tài liệu quý để nghiên

cứu và dạy học về lịch sử kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược ở

các bậc dạy học.

Những bài học và kinh nghiệm về lãnh đạo xây dựng chiến khu

7

trên địa bàn Quảng Nam thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, trong

đó có kinh nghiệm về phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân

dân, xây dựng thế trận lòng dân có ý nghĩa hết sức to lớn trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Vấn đề này

đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực,

trong đó có vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông đang có những

diễn biến phức tạp, khó lường; các thế lực thù địch đang gia tăng hoạt

động chống phá nhiều mặt, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”,

“tự diễn biến” kết hợp với bạo loạn lật đổ.

6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Lịch sử hình thành, phát triển cùng những đóng góp của Căn cứ

Liên khu ủy - Ban quân sự Khu V ở Quảng Nam trong kháng chiến

chống đế quốc Mỹ (giai đoạn 1954 - 1975) từ lâu đã thu hút sự quan

tâm của nhiều nhà nghiên cứu, chính quyền địa phương các cấp. Tuy

nhiên cho đến nay, vấn đề chiến khu cách mạng ở Quảng Nam mới chỉ

được đề cập một cách khái lược trong các công trình nghiên cứu về

cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ ở Quảng Nam cũng như trong các

công trình tổng kết lịch sử truyền thống địa phương; gồm: Lịch sử

Đảng bộ Quảng Nam, Lịch sử Đảng bộ huyện Trà My, huyện Bắc Trà

My, Huyện Nam Trà My trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm

lược (1945 – 1975 ); các bài báo, hồi ký của các đồng chí lão thành

cách mạng đã từng sống, chiến đấu và tham gia xây dựng các chiến

khu. Do vậy, việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu Căn cứ Liên khu ủy -

Ban quân sự Khu V ở Quảng Nam trong kháng chiến chống đế quốc

Mỹ (1954-1975) mang lại nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp

phần làm sáng tỏ thêm đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn

diện trong kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam nói

chung và nhân dân Quảng Nam nói riêng.

Trà My là địa bàn cư trú và sinh sống lâu đời của các dân tộc anh

em, gồm Xê Đăng, Cadong, Cor, Bhnong, Kinh... Trong quá trình hình

thành và phát triển đồng bào các dân tộc Trà My luôn gắn bó và thể

hiện tình yêu thiên nhiên, núi rừng, một lòng thủy chung, son sắc với

cách mạng, sẵn sàng xả thân để bảo vệ cán bộ. Đặc biệt, sau khi Đảng

8

Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các

dân tộc Trà My đoàn kết một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ, kiên cường

đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột của bọn thực dân Pháp và đế

quốc Mỹ xâm lược.

Với ví trí chiến lược quan trọng, tình yêu thiên nhiên, núi rừng và

truyền thống đoàn kết trong đấu tranh chống áp bức, bất công, nên

trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là từ năm 1959

đến năm 1973, cơ quan Liên Khu ủy, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu

V nhiều lần chọn Trà My làm nơi đứng chân. Đặc biệt, sau Nghị quyết

15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), để đáp ứng nhiệm

vụ cách mạng theo yêu cầu, nhiệm vụ mới, cuối năm 1959 đến đầu năm

1965, cơ quan Liên Khu ủy V chuyển từ Bến Hiên, Bến Giằng (nay

thuộc các huyện Đông Giang, Nam Giang và Tây Giang) về đứng chân

tại Nước Là (mật khu Đỗ Xá), phía tây huyện Trà My, bên dòng sông

Tranh, nay thuộc xã Trà Mai, huyện Nam Trà My.

Trong thời gian cơ quan Liên Khu ủy V đứng chân từ 1959-1965,

Nước Là đã ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Là nơi Liên Khu

ủy triển khai thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, chuyển

hướng cuộc kháng chiến của nhân dân Liên khu V sang giai đoạn mới -

giai đoạn đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang. Là nơi tiếp

nhận cán bộ chi viện từ miền Bắc vào để chi viện cho chiến trường

miền Nam. Là nơi thành lập Bộ Tư lệnh Quân khu V và các cơ quan

tham mưu, chính trị, hậu cần của Quân khu. Đặc biệt, tại căn cứ Nước

Là, Liên Khu ủy, Khu ủy V đã lãnh đạo quân và dân đánh bại các cuộc

hành quân của Mỹ, ngụy, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não của Khu ủy

và Bộ Tư lệnh Quân khu.

7. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

7.1. Nguồn tư liệu

- Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Quân đội nhân

dân Việt Nam.

- Các tài liệu lưu trữ ở Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh

ủy Quảng Nam.

- Các công trình nghiên cứu về lịch sử kháng chiến chống đế

9

quốc Mỹ (1945-1975); các chuyên khảo, bài viết, báo cáo khoa học của

các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước; các công trình Lịch sử Đảng

bộ, Lịch sử Lực lượng vũ trang nhân dân địa phương các huyện, xã trên

địa bàn Quảng Nam; các luận án, luận văn về căn cứ địa kháng chiến...

- Tư liệu khảo sát thực địa tại Căn cứ Liên khu ủy - Ban quân sự

Khu V thuộc địa bàn nghiên cứu.

- Hồi ký và lời kể của các cán bộ lão thành cách mạng, nhân

chứng lịch sử sống, chiến đấu và hoạt động trên địa bàn của Căn cứ

Liên Khu ủy Ban quân sự khu V.

7.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng và kết hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử với

phương pháp logíc để làm rõ sự sáng tạo, chủ động của Đảng bộ Quảng

Nam trong quá trình lãnh đạo xây dựng Căn cứ Liên Khu ủy Ban quân

sự khu V. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng hợp lý phương pháp so sánh,

tổng hợp, thống kê, điền dã, thực địa và tiếp xúc nhân chứng lịch sử để

làm nổi bật tính độc đáo, điển hình của phong trào đấu tranh cách mạng

trên địa bàn Quảng Nam thời kỳ chống đế quốc Mỹ (1954 – 1975).

8. Đóng góp của luận văn

- Làm rõ những đặc điểm nổi bật trong hoạt động, tổ chức và

chiến đấu của Căn cứ Liên khu ủy - Ban quân sự Khu V ở Quảng Nam

giai đoạn 1959-1968.

- Rút ra một số kinh nghiệm về xây dựng, tổ chức và hoạt động

của Căn cứ Liên khu ủy - Ban quân sự Khu V trong cuộc kháng chiến

chống đế quốc Mỹ ở Quảng Nam (1959-1968 ).

- Kết quả của luận văn là tài liệu tham khảo trong công tác

nghiên cứu, giảng dạy lịch sử kháng chiến chống đế quốc Mỹ ở tỉnh

Quảng Nam.

9. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội

dung của Luận văn được chia làm 3 chương:Mở đầu

- Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:

+ Chương 1: Qúa trình hình thành Căn cứ Liên khu ủy - Ban

quân sự khu V trong kháng chiến chống Mỹ (1959 – 1969).

10

+ Chương 2: Chức năng, nhiệm vụ tổ chức và hoạt động hiến

đấu của Căn cứ Liên khu ủy - Ban quân sự khu V..

+ Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm.

Chương 1

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CĂN CỨ LIÊN KHU ỦY￾BAN QUÂN SỰ KHU V TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ

QUỐC MỸ (1959 – 1969)

1.1. Khái quát về căn cứ cách mạng

1.2. Khái quát về vùng đất Liên khu V

1.3. Quá trình hình thành Liên Khu ủy- Ban quân sự khu V

1.4. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành Căn cứ

Liên Khu ủy- Ban quân sự khu V

1.4.1. Địa lý tự nhiên và địa lý quân sự

1.4.2. Đặc điểm về đời sống - văn hóa - xã hội

1.4.3. Truyền thống yêu nước của đồng bào các dân tộc Trà My

1.5. Quá trình lãnh đạo xây dựng căn cứ Liên khu ủy- Ban

quân sự khu V qua các thời kỳ

1.5.1. Xây dựng căn cứ và nơi đứng chân trong những năm đầu

kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1959)

1.5.2. xây dựng cơ quan Liên Khu ủy V tại Nước Là

1.6. Các ban, ngành của liên khu ủy-Ban quân sự Khu V

được thành lập; lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị Quyết 15 của

Ban Chấp hành Trung ương Đảng

1.6.1. Thành lập các ban, ngành của Khu ủy V tại căn cứ Nước

Tiểu kết chương 1

Liên khu V còn được gọi là Nam Trung Bộ, dải đất của khúc ruột

miền Trung từ đèo Hải Vân đến Bình Thuận, trước năm 1954, Liên khu

V gồm 12 tỉnh: Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú

Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, Đăk Lăk, Kon

Tum, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng.

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết vào ngày 20/7/1954.

Mỹ thay chân Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu

11

mới. Chính quyền Sài Gòn, đứng đầu là Ngô Đình Diệm đã ra sức đánh

phá, gây nhiều tổn thất cho lực lượng cách mạng, phong trào cách mạng

miền Nam có sự thay đổi, từ chỗ ta làm chủ một địa bàn rộng lớn, có cơ

sở cách mạng đều khắp trên các vùng, phải bàn giao lại cho địch,

chuyển lực lượng vũ trang đi tập kết; chuyển từ đấu tranh vũ trang sang

đấu tranh chính trị, từ hoạt động công khai chuyển vào hoạt động bí

mật.

Sau khi Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng được phổ biến, học

tập xuống các cấp, đường lối, phương hướng cách mạng đã sáng tỏ,

phong trào cách mạng ở trong Liên khu có những chuyển biến mạnh.

Công tác xây dựng căn cứ địa ở miền núi được đặc biệt chú trọng và

đẩy lên mạnh hơn. Trước tình hình đó, Liên Khu ủy ra Chỉ thị về xây

dựng căn cứ địa và xác định: “Xây dựng căn cứ địa là một vấn đề chiến

lược của cách mạng. Từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Mỹ - Diệm đã có âm

mưu xây dựng Tây Nguyên thành trung tâm căn cứ quân sự cơ động ở

miền Nam. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ của cách mạng miền Nam

là phải tích cực phá kế hoạch xây dựng trung tâm căn cứ của địch, từng

bước biến hậu phương của địch thành hậu phương của ta, xây dựng

Tây Nguyên thành chỗ dựa vững chắc và lâu dài của cách mạng miền

Nam”. Từ giữa năm 1958, Liên Khu ủy V đề ra chủ trương xây dựng

Tây nguyên và miền núi các tỉnh thành căn cứ địa cách mạng; bước đầu

xây dựng lực lượng vũ trang và nửa vũ trang ở miền núi để làm nhiệm

vụ tự vệ, bảo vệ căn cứ, bảo vệ cán bộ.

. Trước yêu cầu ngày càng cao

của công tác chỉ đạo phong trào cách mạng tháng 8/1959, bộ phận tiền

trạm của Liên Khu ủy V từ huyện Hiên vào huyện Trà My khảo sát và

lấy huyện Trà My làm trung tâm khu căn cứ. Thực hiện chủ trương của

Liên Khu ủy, theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam, Huyện ủy Trà

My thành lập đoàn cán bộ đi khảo sát, học tập kinh nghiệm xây dựng

và bảo vệ căn cứ địa của một số tỉnh ở Tây Nguyên. Huyện. Được sự

giúp đỡ của cán bộ địa phương, đoàn cán bộ Liên Khu ủy chọn khu vực

Tak Pỏ, Nước Là, Ngok La làm căn cứ. Sau khi hoàn thành việc khảo

sát, xây dựng, tháng 01/1960, toàn bộ cơ quan Liên Khu ủy hoàn thành

việc chuyển vào địa điểm mới, kết thúc thời kỳ cơ quan làm việc tại các

huyện Bến Hiên, Bến Giằng. Từ đây, căn cứ Nước Là nói riêng, Đảng

bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My nói chung đảm nhận trách

12

nhiệm vô cùng vẻ vang đó là được cơ quan Liên Khu ủy V về đứng

chân lãnh đạo phong trào cách mạng ở Liên khu V, góp phần xây dựng

và bảo vệ vững chắc “Thủ phủ kháng chiến” trên chiến trường Liên khu

V.

Người dân Trà My có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại

xâm kiên cường, bất khuất, một lòng kiên trung với cách mạng. Đây là

chỗ dựa vững chắc cho lực lượng kháng chiến. Ngay từ những ngày đầu

thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, nhân dân Trà My đã đứng lên

chiến đấu chống giặc. Trong quá trình đó, các cơ quan lãnh đạo, lực

lượng kháng chiến luôn biết dựa vào địa thế chiến lược để xây dựng căn

cứ địa trên địa bàn Trà My đã đảm nhiệm tốt vai trò hậu phương tại chỗ

và trở thành địa bàn đứng chân của các cơ quan lãnh đạo của tỉnh Quảng

Nam. Để tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị bộ đội bám trụ kháng

chiến, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở Trà My đã tích cực xây dựng các

ấp, xã chiến đấu. Quá trình xây dựng căn cứ cách mạng trong kháng

chiến, đặc biệt là Căn cứ Liên khu ủy - Ban quân sự Khu V có ý nghĩa

lịch sử to lớn, quý báu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của của nhân

dân Trà My.

Chương 2

CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CHIẾN ĐẤU CỦA CĂN CỨ LIÊN KHU ỦY= BAN QUÂN SỰ

KHU V TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ (1959-

1968)

2.1. Chức năng, nhiệm vụ của căn cứ Liên khu ủy- ban

quân sự khu V

2.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ Liên khu

ủy ban quân sự khu V.

2.2.1. Phòng nghiên cứu tổng hợp

2.2.2. Phòng hành chính - quản trị

2.2.3. Ban thông tin liên lạc Vô tuyến điện

2.2.4. Ban cơ yếu

2.2.5. Lực lượng bảo vệ của khu ủy

2.2.6. Đảng ủy Văn phòng khu

13

2.3. Những hoạt động của Liên khu ủy- ban quân sự khu V

qua các thời kỳ

2.3.1. Bám lại chiến trường

2.3.2. Những hoạt động chiến đấu của Liên khu ủy khu V trong

những năm 1959-1960

Thời kỳ từ năm 1955-1960, Văn phòng Liên khu ủy là cơ quan

duy nhất phục vụ cho chỉ đạo, chưa có cơ quan ban ngành nào khác.

2.3.3. Những hoạt động chiến đấu của Liên khu ủy V thời kỳ

1961- 1965

Từ năm 1961-1975, cách mạng miền Nam chuyển qua thời kỳ

kháng chiến chống phá các chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến tranh

cục bộ.

2.3.3.1. Thời kỳ chống chiến tranh đặc biệt

2.3.3.2. Thời kỳ chống chiến tranh cục bộ

2.4. Ban quân sự khu V, đánh bại ba lần tập kích lấn chiếm

của địch căn cứ Nước Là, mở rộng vùng giải phóng (1962-1964)

Tiểu kết chương 2

Như vậy, khu căn cứ Nước Là - mật khu Đỗ Xá, Cơ quan của

Liên Khu ủy - Khu ủy V được thành lập là mốc lịch sử quan trọng,

đánh dấu một giai đoạn chuyển hướng chiến lược của cách mạng Khu

V, từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang. Nơi

đây cũng đánh dấu sự ra đời của Ban Quân sự Khu V (nay là Bộ Tư

lệnh Quân khu V), đánh dấu sự hình thành lực lượng quân sự toàn Khu

V theo hướng chính quy hiện đại, bước khởi đầu cho chiến lược đánh

địch mở rộng vùng giải phóng, phá ấp giành dân thắng lợi của quân và

dân Khu V nói chung, Quảng Nam nói riêng. Cũng tại căn cứ Nước Là,

các cơ quan, banh ngành thuộc Liên Khu ủy đã hình thành như Ban

Tuyên huấn, Ban Dân vận, Mặt trận, Ban Kinh tài, Ban Giao vận,

Trường Quân chính Khu V… cùng với Liên Khu ủy - Khu ủy V đã

hoàn thành sứ mệnh lịch sử.

Trong giai đoạn chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt (1961-

1965). Căn tiếp tục được củng cố một cách toàn diện và không ngừng

được mở rộng. Địch đã tiến hành nhiều cuộc hành quân lớn, đánh phá

ác liệt vào các căn cứ. Tuy nhiên, nhờ không ngừng được xây dựng và

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!