Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Cách tân nghệ thuật trong thơ lê đạt.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
BÙI PHƢƠNG UYÊN
CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ LÊ ĐẠT
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng, năm 2014
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ MINH HIỀN
Phản biện 1: TS. PHAN NGỌC THU
Phản biện 2: PGS.TS. HỒ THẾ HÀ
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học
Đà Nẵng vào ngày 08 tháng 06 năm 2014
Có thể tìm luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thơ ca có nhiệm vụ đẩy xa hơn những giới hạn ràng buộc nó
để mở ra một lộ trình mới cho những trải nghiệm riêng tây. Chính vì
thế, đổi mới, cách tân trở thành thuộc tính của thơ và là nhu cầu tự
thân trong quá trình vận động của một nền thơ. Cùng với nhu cầu
hằng cửu ấy, sự mở rộng giao lưu văn hóa đa chiều đem đến nhiều
kinh nghiệm nghệ thuật mới và tạo nên những bước đột phá táo bạo
trong lối viết của các nhà văn, nhà thơ. Là loại hình nghệ thuật năng
động, tiên phong trong cách tân, thơ Việt Nam hiện đại nỗ lực rất lớn
khi vượt qua những hệ quy chiếu cổ xưa để thay đổi diện mạo. Trong
quá trình tìm tòi, thơ dần hình thành nhiều chi lưu mới với những
gương mặt nghệ sĩ đầy cá tính. Cùng với Trần Dần, Hoàng Cầm,
Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Lê Đạt đã mở ra một “miền khí
hậu riêng biệt” [12, tr. 245] cho vương quốc thi ca. Bốn tập thơ Bóng
chữ, Ngó lời, U75 Từ tình và Đường chữ mang lại sự vượt ngưỡng
đáng kể cho Lê Đạt trong việc “xây dựng nền dân chủ chữ chống lại
đặc quyền của ý” [11, tr. 297].
Với Lê Đạt, việc khám phá và giải mã lớp “địa chất hiện sinh”
[4, tr. 62] dưới mỗi con chữ là niềm đam mê khôn cùng trên con
đường làm mới mình và làm mới thể loại. Từ niềm đam mê, ấp ủ và
ý thức cách tân sẵn có ấy, nhà thơ đã tạo ra ngôn ngữ sống cho thơ –
những con chữ tinh khôi, trinh nguyên, những con chữ “nảy mầm”
(Andre Breton). Có thể khẳng định, thơ Lê Đạt chính là một hiện
tượng ngôn ngữ sống động với những tương quan mới, trường ngữ
nghĩa mới để người đọc tham dự phát nghĩa với thơ.
Mọi cuộc cách tân văn học chỉ đạt được thành tựu mong muốn
khi hội đủ hai điều kiện: tiếp nhận chu đáo các trường phái văn học
hiện đại trên thế giới và nắm vững phát huy truyền thống văn nghệ
2
của dân tộc. Điều đó có nghĩa, thơ Lê Đạt thực sự là một kì công bởi
trong quá trình nỗ lực tìm lối đi mới với ý thức cách tân quyết liệt,
nhà thơ vẫn giữ được “trí nhớ” [33, tr. 17], kí ức nghệ thuật của dân
tộc. Vì vậy, khám phá cách tân trong thơ Lê Đạt không chỉ giúp cho
người đọc các thế hệ hiểu thêm về một điển hình tiêu biểu của thơ
Việt Nam hiện đại mà còn thấy được sự uyên thâm, ảo diệu và tài
năng ngôn ngữ bậc thầy của Lê Đạt.
Thơ Lê Đạt chính là “tự truyện của một khát vọng” [33, tr. 77]
– khát vọng thu hẹp, rút ngắn và san bằng khoảng cách giữa chủ thể
sáng tạo và chủ thể tiếp nhận. Mỗi bài thơ của Lê Đạt là một ngã tư
chữ với biên độ mở vô hạn chờ đợi người đọc dám chiếm lĩnh. Vì
vậy, việc nghiên cứu Cách tân nghệ thuật trong thơ Lê Đạt là cách
để chúng tôi nhận diện vị trí, tầm ảnh hưởng của gương mặt thơ tiêu
biểu này trong khuynh hướng cách tân thơ Việt hiện đại đồng thời
khẳng định những nỗ lực bứt phá đầy sức lôi cuốn của người “phu
chữ” [12, tr. 246].
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về thơ Lê Đạt
Cuộc đời và thơ Lê Đạt được tái hiện khá rõ nét trong bài viết
Đọc lại Bóng chữ của Lê Đạt (Đỗ Ngọc Thạch). Với bài viết Thơ
Hai câu Lê Đạt [23, tr. 219], Vân Long giới thiệu đến người đọc mỹ
vật thơ Hai câu – một sự tìm tòi kỳ khu từng chữ của nhà thơ trong
tập Ngó lời. Gần đây, Nguyễn Hữu Vĩnh cũng đã nghiên cứu Tư duy
nghệ thuật thơ Lê Đạt qua tập Bóng chữ trên ba phương diện: tư duy
nghệ thuật thơ Lê Đạt, các kiểu tư duy nghệ thuật thơ Lê Đạt và hình
thức thể hiện tư duy nghệ thuật thơ Lê Đạt qua tập Bóng chữ [36].
Ngoài ra, chúng tôi còn được tiếp cận với khá nhiều bài viết về
Lê Đạt và tác phẩm của ông trong Hội luận Thơ Lê Đạt và thơ Việt
Nam hôm nay như: Lê Đạt, dăm điều muốn nói (Nguyễn Văn Thọ),
3
Về dịch ngược, về thơ Lê Đạt (Thái Kim Lan), Trạng thái thơ Lê Đạt
và Lê Đạt tư duy về thơ (Trần Thiện Khanh)… Những bài viết kể
trên đã bước đầu soi chiếu thơ ca Lê Đạt từ nhiều góc độ để nhận
diện và ghi nhận bản lĩnh sáng tạo và phong cách đa ngã của nhà thơ
trong quá trình cách tân văn học nước nhà.
2.2. Những công trình nghiên cứu về vấn đề cách tân nghệ
thuật trong thơ Lê Đạt
Những nỗ lực cách tân của Lê Đạt trong việc làm mới thơ và
làm mới chữ đã được khá nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến. Bài viết Lê
Đạt với giấc mộng cách tân thơ Việt của Nguyễn Việt Chiến đã
khẳng định cách tân trong thơ Lê Đạt thực chất là cách tân về chữ.
Nhà phê bình Đặng Tiến trong Thơ, thi pháp và chân dung đã phát
hiện thơ Lê Đạt là những chữ “lạ hơi nhà” [35, tr. 314].
Trong Mã thơ Lê Đạt, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy chỉ ra ở Lê
Đạt một sự khai nguyên ngôn ngữ mới, tìm ra cách phát nghĩa mới
cho chữ. Đỗ Lai Thúy còn dành tâm huyết của mình cho Lê Đạt với
bài viết Lê - Đạt - chữ. Với Cấu trúc cách ly trong Ngó lời của Lê
Đạt, Thụy Khuê nhấn mạnh đến tầm quan trọng của những biến tấu
sóng ngang, sóng chéo, xiên, trên, dưới, ngang, dọc giao nhau trong
thơ Lê Đạt. Ngoài ra, trong Cấu trúc thơ, ở chương XV, Thụy Khuê
cũng đi sâu nghiên cứu Bóng chữ, tuyên xưng đây là thơ tạo sinh.
Khám phá Quan niệm nghệ thuật của Trần Dần, Lê Đạt nhìn từ
phương diện tiếp nhận, Hoàng Thị Huế cũng nhấn mạnh nét mới
trong thơ Lê Đạt chủ yếu đến từ “trò chơi chữ thú vị nhưng đầy cạm
bẫy” [17].
Tất cả ý kiến trên đều khẳng định thơ Lê Đạt chủ yếu cách tân
chữ. Tuy vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những cách tân
nghệ thuật trong thơ Lê Đạt để khẳng định vị trí của nhà thơ trong
lịch sử văn học Việt Nam hiện đại vẫn còn là thử thách phía trước.
4
Từ những gợi dẫn quý báu trên, chúng tôi sẽ nỗ lực tìm hiểu tương
đối đầy đủ biểu hiện cũng như sự chi phối của những động lực dẫn
đến cách tân trong thơ Lê Đạt, đem lại cho người đọc cái nhìn toàn
diện về thơ ông.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những cách tân nghệ thuật trong thơ Lê Đạt, được biểu hiện
cụ thể ở các bình diện như: quan niệm nghệ thuật, cái tôi trữ tình, thế
giới biểu tượng, ngôn ngữ, thể loại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Bốn tập thơ Bóng chữ (NXB Hội nhà văn Hà Nội, 1994), Ngó
lời (NXB Văn học Hà Nội, 1997), U75 từ tình (NXB Phụ nữ Hà Nội,
2007) và Đường chữ (NXB Hội nhà văn Hà Nội, 2009).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp cấu trúc – hệ thống
4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
4.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lê Đạt – hành trình sáng tạo và những đổi mới
trong quan niệm nghệ thuật.
Chương 2: Cách tân nghệ thuật trong thơ Lê Đạt nhìn từ cái tôi
trữ tình và biểu tượng nghệ thuật.
Chương 3: Thơ Lê Đạt – cuộc trình diễn lạ mắt của ngôn ngữ
và thể loại.
5
CHƢƠNG 1
LÊ ĐẠT – HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ NHỮNG
ĐỔI MỚI TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
1.1. LÊ ĐẠT – NGƢỜI THƠ “KHÔNG BIẾT LỐI VỀ GIÀ”
1.1.1. Cuộc đời
Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, sinh ngày 10/09/1929, mất
ngày 21/4/2008 tại Hà Nội. Từ nhỏ, Lê Đạt đã lấy sách làm quê trong
tình thương của chữ. Mối tình chữ vì thế đã theo đuổi nhà thơ đến
suốt đời. Năm 12 tuổi, Lê Đạt về Hà Nội học nội trú trường Bưởi.
Năm 1945, Lê Đạt tham gia cách mạng. Năm 1948, ông là Bí thư
văn nghệ của Trường Chinh. Đến năm 1949, Lê Đạt về công tác tại
ban tuyên huấn của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam. Gần như
trong suốt quá trình hoạt động ông đều công tác ở ngành Tuyên
huấn, trực tiếp theo dõi phong trào văn nghệ, văn hóa và giáo dục. Vì
vậy, ông có dịp tiếp xúc với hầu hết giới văn nghệ Cách mạng Việt
Nam. Hòa bình lập lại năm 1954, ông về Hà Nội làm biên tập viên,
bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ.
Hành trình 30 năm ngồi dịch triền miên trong thư viện đã góp
phần kiến tạo nên một Lê Đạt uyên thâm và hiện đại đồng thời cũng
là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi thi pháp thơ của Lê Đạt sau này.
Sau hơn 30 năm bị cấm in, Lê Đạt được phục hồi tư cách hội viên
Hội Nhà văn và quyền xuất bản. Năm 2007, Lê Đạt nhận Giải
thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Ngày 21.04.2008, sau
chuyến đi thực tế ở Tây Nguyên, vừa về tới Hà Nội, Lê Đạt đột ngột
qua đời.
1.1.2. Những chặng đƣờng thơ
Đời thơ của ông có thể chia làm ba chặng. Từ năm 1955 đến
1958, thơ Lê Đạt thể hiện rõ thái độ dũng cảm đấu tranh cho cái mới
6
và sự thức nhận ngôn ngữ. Tác phẩm tiêu biểu: Thế giới này là của
chúng ta (1955), Bài thơ trên ghế đá (1957), Cửa biển (1958). Sau
năm 1958, tức là sau Nhân Văn - Giai Phẩm đến lúc được phục hồi
tư cách hội viên Hội nhà văn năm 1988, Lê Đạt chủ yếu thiền ngẫm,
nghiệm chữ và tích lũy được rất nhiều những tri thức từ các lĩnh vực
khoa học, triết học, văn học. Nhà thơ tập chơi chữ, ghép chữ và nỗ
lực tìm đến điểm tự do xa nhất mà chữ có thể đạt tới. Thể nghiệm
thành công đầu tiên của ông trong phương thức sáng tác là tác phẩm
Ông phó cả ngựa, Cửa hàng Lê Đạt sau này in trong tập thơ Đường
chữ. Từ 1988 đến 2008, tác phẩm của Lê Đạt bắt đầu được phát hành
rộng rãi. Các tập thơ cho thấy Lê Đạt đã sử dụng tiếng Việt một cách
thông minh, khoái hoạt, hiệu quả, tạo ra một không gian thẩm mĩ
mới cho thơ. Có thể kể đến: Bóng chữ (1994), Ngó lời (1997),
Truyện cổ viết lại (2006), U75 từ tình (2008), Đường chữ (2009).
1.2. NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
1.2.1. Làm thơ là làm chữ
Lê Đạt cho rằng “làm thơ tức là làm chữ”. Ông xem chữ là
chuẩn giá trị để khẳng định những cách tân của một nhà thơ. Đối với
nhà thơ, việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ cũng là bảo tồn và mở
rộng sự đa dạng về cách tri nhận thế giới. Lê Đạt thường xuyên cung
cấp cho ngôn ngữ những nghĩa mới, tạo ra sự kết hợp “siêu hình”
(Đào Duy Hiệp) giữa các từ ngữ và giải thoát ngôn ngữ khỏi tính võ
đoán thông thường. Mỗi chữ trong thơ ông luôn có một diện mạo
riêng, lưu giữ kí ức lịch sử và luôn cựa quậy, không ngừng vận động.
Lê Đạt đã “đè một ngôn từ khác lên tiếng nói sẵn có của cộng đồng”
[16, tr. 299] và lao động cật lực để tạo ra một thứ “phương ngữ mang
dấu ấn, thương hiệu riêng” [16, tr. 298].
Lê Đạt đặt chữ trước nghĩa và xem ngôn ngữ là mục đích, có
giá trị tự thân. Ngôn ngữ có trước, tư tưởng đến sau. Chữ là tính thứ
7
nhất so với nghĩa. Nhà thơ cần chủ động tạo nghĩa mới cho chữ đồng
thời giải phóng chữ khỏi thân phận cũ. Chữ là hệ quy chiếu để định
vị sự hiện tồn của nhà thơ và những cách tân trong thơ.
Lê Đạt lấy chữ làm trung tâm phát nghĩa, không lệ thuộc vào
nghĩa từ điển hay nghĩa tiêu dùng. Nghĩa này do thi nhân khai
nguyên, trở thành nghĩa nguyên sinh, trở thành sáng tạo ngôn ngữ
của thi sĩ. Mỗi bài thơ của ông đều trú ẩn những con chữ vận động.
Nó xê dịch, biến đổi và tự nhân lên, chữ này trở thành bóng của
những chữ khác.
Với Lê Đạt, “Chữ bầu lên nhà thơ” [11, tr.508]. Mỗi lần làm
một bài thơ, nhà thơ phải chờ đợi cuộc bầu chọn khắt khe của chữ.
Vẫn là những chữ cũ trong kho tàng tiếng Việt, nhưng đến Lê Đạt,
nó đã được sống trong một thân phận khác, kì lạ và quyến rũ hơn. Lê
Đạt còn khẳng định chữ có liên quan mật thiết đến cá tính, phong
cách tác giả “Mỗi công dân có một dạng vân tay. Mỗi nhà thơ thứ
thiệt cũng có một dạng vân chữ. Trộn không lẫn” [11, tr. 510].
1.2.2. Thơ phải là tác phẩm mở (The open work)
Thơ của Lê Đạt luôn mời gọi người đọc cũng tham gia trò chơi
chữ với nhà thơ. Ông không trực tiếp cầm tay độc giả truy nguyên
nguồn cội ý nghĩa tác phẩm mà tạo ra những chỉ dấu, những mã văn
bản để họ tự tham gia phát nghĩa. Nhà thơ đề cao đặc tính mở của
thơ ca và khẳng định tầm quan trọng của người đọc. Vì lẽ ấy, Lê Đạt
đã tạo ra những bài thơ có tính sản xuất (productivity), luôn vận
động, tương tác. Mỗi bài thơ của ông là những chuỗi từ ngữ dẫn đến
một không gian đa kích thước và không gian này nảy sinh chính từ
những dòng trắng (between lines) trong tác phẩm. Từ đó, mỗi bài thơ
trở thành một tác phẩm mở (the open work), đi từ tính đối thoại
(dialogue) sang tính liên văn bản (intertetuality). Cấu trúc mở và tác
dụng của nó trong thơ Lê Đạt có thể được biểu diễn thành sơ đồ sau:
8
Như vậy, khi đi sâu khám phá thơ Lê Đạt, người đọc không
chỉ dừng lại ở việc truy tìm cấu trúc nội tại của bài thơ mà chủ yếu
lần tìm mã biểu đạt, mã văn hóa (cultural codes) từ những dòng trắng
hay khoảng giữa của từ (between-ness) trong thơ. Đó là cuộc đối
thoại bình đẳng giữa tác giả và người đọc theo nguyên lý bổ sung
(vừa là…vừa là). Từ đó, người đọc nhận thức theo cách riêng đồng
thời sáng tạo ra những sinh thể mới từ mẫu gốc tác phẩm. Cấu trúc
nội tại của tác phẩm tạo ra lớp nghĩa thứ nhất còn lớp nghĩa thứ hai,
thứ ba, thứ tư được hình thành do sự tiếp xúc giữa người đọc và tác
phẩm. Chữ này dẫn chiếu đến chữ kia và dẫn chiếu đến kí ức của
người đọc. Chúng ta có thể hình dung nguồn mở vô tận trong thơ Lê
Đạt như sau:
CBĐ – CĐBĐ
CBĐ (1) – CĐBĐ (1)
CBĐ (2) – CĐBĐ (2)
CBĐ (n) – CĐBĐ (n)
……………………
9
1.2.3. Nhà thơ là “phu chữ”
Lê Đạt tự nhận mình là “phu chữ”, một đời nhọc nhằn lao
động trên cánh đồng chữ, cần mẫn gieo mầm. Ông xem thơ là một
nghề, đòi hỏi một kỉ luật nghiệt ngã và gian khổ. Theo Lê Đạt, nghề
thơ là nghề của bề sâu, giống như nghề giếng, càng đi sâu thì càng
tìm được những nguồn mạch thanh khiết nhất. Lê Đạt đã sống như
“kiếp tằm”, tự xem mình là “lá dâu, còn lại trơ gân, xác xơ thân xác”
[35, tr. 315].
Lê Đạt cho rằng làm thơ là một lao động rất nghiêm túc. Đối
với ông, mỗi một câu thơ hay đều là kết quả của quá trình dài thành
tâm kiên trì, đa mang đắm đuối với nghiệp thơ. Vì thế, nhà thơ đã
học tập chuyên cần, kiên trì đọc sách, tích lũy chất liệu thơ từng
ngày. Ông còn học thêm ngoại ngữ, dịch sách để dễ dàng viễn du
trên con đường thiên lí của nhân loại.
Để có thể gánh vác nghiệp thơ một cách nghiêm túc, “phu
chữ” Lê Đạt nhấn mạnh người cầm bút cần phải có “văn đức”. Ông
đề cao “những người lao động có tri thức một nắng hai sương trên
cánh đồng chữ bận tâm những vụ mùa cao sản” [12, tr. 103]. Nhà thơ
khẳng định người làm thơ phải như thợ thủ công, nhốt mình trong
phòng gọt đẽo, mài dũa, nạm dát con chữ để làm bật nảy nghệ thuật.
Suốt đời mình, Lê Đạt xem lao động nghệ thuật là mục đích mỹ học.
10
CHƢƠNG 2
CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ LÊ ĐẠT
NHÌN TỪ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ BIỂU TƢỢNG
NGHỆ THUẬT
2.1. CÁI TÔI TRỮ TÌNH
2.1.1. Kiến tạo những biến tấu mới cho cái tôi sử thi
Cái tôi trữ tình trong thơ Lê Đạt vẫn vận động theo quán tính
và quỹ đạo văn học thời chiến nhưng cũng đã có những chuyển biến
nhất định. Cái nhìn sử thi trong thơ ông được bổ sung bằng những
trải nghiệm cá nhân, hiện thực được đặc tả với xu hướng khái quát,
chiêm nghiệm. Hiện thực của chiến tranh không chỉ là hiện thực nhìn
thấy mà còn là hiện thực cảm thấy với bao nhức nhối khó lành. Đây
là điều mà văn học Việt Nam sau 1986 mới bắt đầu khám phá. Lê
Đạt vẫn xưng ta, vẫn đại diện cho cộng đồng nhưng thơ ông không
rộn rã mà tiết chế những tiếng reo nồng nhiệt, không nguôi trăn trở
về một “chân trời tua tủa mảnh gai” (Hoàng Cầm). Ông đặc biệt
quan tâm, trăn trở, lo âu về sự sống và nhu cầu được sống giản dị
nhất của mỗi con người Việt Nam. Đằng sau thắng lợi vĩ đại và niềm
phấn khởi, tự hào của cuộc chiến là những bất an của nhà thơ trước
thực tại cuộc sống khắc nghiệt. Thơ Lê Đạt hé mở góc nhìn đa dạng
và nhiều chiều về chiến tranh từ hậu phương (Chúng ta quyết giữ đất
này, Cứu lúa).
Không chỉ thể hiện nỗi đau chiến tranh, Lê Đạt còn cảm nhận
sâu sắc sự mất mát, tan nát của cái đẹp văn hóa (Hà Nội B52). Những
vần thơ của ông gắn chặt với hồn quê, bao trùm nội dung đời sống
rộng lớn ở hậu phương nhưng không xóa bỏ cái tôi cá nhân (Nhận
trâu, Cứu lúa, Đường chúng ta đi, Ý chúng ta, Bát nước chè xanh).
11
Nếu những tác phẩm cùng thời, miêu tả chiến tranh từ góc độ
cộng đồng thì Lê Đạt lại miêu tả chiến tranh từ góc độ cá nhân, thân
phận con người, đi sâu vào những nỗi niềm cá nhân thầm kín mà
trước đó chưa nhà thơ nào nói được. Số phận của đất nước được đo
ướm bằng nỗi đau cá nhân (Cha tôi). Trong thơ của ông, người đọc
vừa bắt gặp âm hưởng trầm hùng thời khói lửa như là tiếng vọng của
cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi, vừa thấy được xu
hướng đưa thơ trở về với cuộc sống riêng tư.
2.1.2. Tạo sinh cái tôi trữ tình đa ngã
Lê Đạt luôn dằn vặt trên hành trình tìm kiếm bản thể và lựa
chọn tự do. Chính vì thế, thơ ông ẩn chứa cái tôi chiêm nghiệm, giác
ngộ, nhận thức về sự hiện hữu của chính mình. Thơ Lê Đạt, nếu nhìn
từ bên trong, có thể nhận thấy cái tôi luôn di động, đi tìm tự do, đi
tìm cái đẹp, truy tầm bản thể. Nhà thơ thường xuyên nhận thức về sự
tồn tại, hiện hữu của chính mình đồng thời hướng đến tương lai, tự
tạo cho mình những dự phóng, “tự tồn tại chủ quan chứ không như
một đám rêu” [34, tr.916]. Ông ý thức về tính chủ thể của mình trong
mọi hoàn cảnh tồn tại (Cửa hàng Lê Đạt, Khuyết điểm).
Vì nhận thức rõ nỗi đau và giới hạn mong manh của phận
người nên cái tôi nhận thức về hiện hữu trong thơ Lê Đạt còn thể
hiện ở thái độ sống tận hiến trong từng khoảng khắc (Địa đầu XXI).
Càng ý thức đào sâu vào bản thể, bộc lộ sự hiện hữu của mình càng
khiến cái tôi Lê Đạt tiến dần đến vô thức, ẩn ảo. Lê Đạt đã giải
phóng ngôn ngữ không chỉ dựa trên ý thức mà còn nhờ vào vô thức
sáng tạo. Lê Đạt đi vào miền hoang dã trong tâm hồn mình, tạo ra
những phiến đoạn trong cảm xúc và ngôn từ, tạo ra trạng thái phân
ly, kỳ ảo, tạo ra những giấc mơ trong thơ. Từ đây, thơ ông có khả
năng biểu hiện những cảm giác mơ hồ thuộc tầng sâu tâm hồn con
người. Những câu thơ của ông tả thực nhưng đều nhuốm màu siêu