Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật sáng tạo trong ngôn từ của nhà báo Phan Khôi
PREMIUM
Số trang
198
Kích thước
1.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1280

Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật sáng tạo trong ngôn từ của nhà báo Phan Khôi

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

PHẠM ANH NGUYÊN

BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT SÁNG TẠO

TRONG NGÔN TỪ CỦA NHÀ BÁO PHAN KHÔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

THÁI NGUYÊN, NĂM 2013

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

PHẠM ANH NGUYÊN

BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT SÁNG TẠO

TRONG NGÔN TỪ CỦA NHÀ BÁO PHAN KHÔI

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60220102

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS HOÀNG CAO CƢƠNG

THÁI NGUYÊN, NĂM 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc i -tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Tác giả luận văn tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Cao Cƣơng đã tận

tình giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô giáo Khoa Ngữ văn, Khoa Sau Đại học

– trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên, các Thầy/Cô giáo Viện Ngôn ngữ học,

Viện Từ điển và Bách khoa thƣ Việt Nam đã tận tình giảng dạy và giúp tôi hoàn

thành luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 10 năm 2013

Tác giả luận văn

Phạm Anh Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc ii -tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả trong luận văn là trung thực và chƣa từng ai công bố trong bất kỳ công trình

nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHẠM ANH NGUYÊN

XÁC NHẬN CỦA KHOA XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc iii -tnu.edu.vn

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 2

2.1. Về tƣ liệu 2

2.2. Các công trình nghiên cứu 3

3. Phƣơng pháp nghiên cứu 8

4. Đối tƣợng nghiên cứu 8

5. Các đóng góp chính kỳ vọng 8

6. Bố cục luận văn 9

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 10

1.1. Giới thiệu Phan Khôi và thời ông sống 10

1.2. Các thành tựu chính của Phan Khôi trong lĩnh vực báo chí tân văn 13

1.3. Các khái niệm Ngôn ngữ học liên quan 17

1.3.1. Từ vựng học 17

1.3.1.1. Các thành phần từ vựng học tiếng Việt 17

1.3.1.2. Từ Hán – Việt 20

1.3.1.3. Điển cố 21

1.3.1.4. Thành ngữ 23

1.3.2. Cú pháp học 25

1.3.2.1. Cụm từ 25

1.3.2.2. Câu 26

1.3.3. Diễn ngôn 26

1.3.3.1. Câu trong diễn ngôn 26

1.3.3.2. Dụng học 28

1.3.3.3. Phân tích diễn ngôn 31

1.4. Khoa học thông tấn 35

1.4.1. Thể loại 35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc iv -tnu.edu.vn

1.4.2. Diễn ngôn chính trị - xã hội 36

1.4.3. Cấu trúc bài thông tấn 36

1.4.4. Sự khác biệt giữa tạp văn và khảo luận học thuật 40

1.5. Tiểu kết 42

Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM NGÔN TỪ CỦA PHAN KHÔI TRONG BÁO

CHÍ

43

2.1. Dẫn nhập 43

2.2. Phân loại các bài báo của Phan Khôi 43

2.2.1. Tiêu chí phân loại 43

2.2.2. Kết quả phân loại 47

2.2.2.1. Tạp văn 48

2.2.2.2. Tranh luận 48

2.2.2.3. Khảo luận (nghiên cứu) 49

2.2.2.4. Bình luận 50

2.2.2.5. Các thể tài Thông tấn khác 50

2.2.3. Nhận xét 52

2.3. Các đặc điểm chính của ngôn ngữ báo chí Phan Khôi 53

2.3.1. Tạp văn 53

2.3.2. Khảo luận học thuật 56

2.3.3. Tranh luận và bút chiến 60

2.4. Tiểu kết 61

Chƣơng 3. NHỮNG ĐÓNG GÓP CHÍNH VỀ NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ

CỦA PHAN KHÔI

63

3.1. Dẫn nhập 63

3.2. Cấu trúc văn bản độc đáo 63

3.3. Tiêu đề sáng tạo 67

3.3.1. Tiêu đề ngắn gọn 68

3.3.2. Con số trong tiêu đề 70

3.3.3. Tận dụng tục ngữ, thành ngữ 70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc v -tnu.edu.vn

3.3.4. Tên riêng + đặc điểm tạo nên tiêu đề 71

3.3.5. Tiêu đề có cấu tạo bất thƣờng, lặp chữ, chơi chữ 72

3.3.6. Từ trái nghĩa đứng cạnh nhau 72

3.4. Xử lý câu phi truyền thống 75

3.4.1. Độ dài câu và kiểu câu tùy thuộc lƣợng tin và ý đồ ngƣời viết 75

3.4.2. Nghệ thuật chơi chữ, lối nói ví von so sánh 78

3.4.3. Tính đa thanh 80

3.4.4. Thái độ với văn biền ngẫu 81

3.5. Bao dung với từ ngữ 84

3.5.1. Vốn từ đa dạng 84

3.5.2. Vốn từ Hán Việt 86

3.5.2.1. Đặc điểm phân bố từ ngữ Hán Việt 86

3.5.2.2. Dùng từ Hán Việt chính xác 90

3.5.2.3. Trân trọng tiếng mẹ đẻ, khẩu ngữ 93

3.6. Sức hấp dẫn của văn hóa 98

3.6.1. Tri thức dân gian phong phú 98

3.6.2. Tri thức bác học và từ chƣơng uyên bác 101

3.6.3. Không kỳ thị văn hóa phƣơng Tây 104

3.7. Tiểu kết 106

KẾT LUẬN 108

TÀI LIỆU THAM KHẢO 110

iv

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ĐPTB: Đông Pháp thời báo

ĐT: Đông Tây

PCVC: Phụ chƣơng văn chƣơng

PNTV: Phụ nữ Tân Văn

PT: Phổ thông

TC: Thần Chung

TL: Trung Lập

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Báo chí Việt Nam ở giai đoạn đầu (những năm 20, 30 của thế kỷ trƣớc) là

giai đoạn Đông Tây đụng độ, tân cựu giao tranh, giai đoạn tƣ tƣởng là văn hóa dân

tộc đang cần xác định phƣơng hƣớng đúng đắn để tiến lên cho kịp thời đại.

Ở giai đoạn giao thời ấy đòi hỏi phải có những ngƣời “mở đƣờng” khai phá.

Trong đó có Phan Khôi (1887 – 1959) với tƣ cách là tên tuổi lớn của báo chí, văn

học và tƣ tƣởng Việt Nam thế kỷ XX. Ngòi bút Phan Khôi tung hoành ngang dọc,

đƣợc coi là bƣớng bỉnh ngang tàng nổi tiếng một thời. Ông viết mỗi năm hàng trăm

bài báo, bút chiến, khảo luận thể hiện một cá tính, một phong cách khác thƣờng.

Nói tới báo chí Việt Nam ở giai đoạn đầu không thể không nói tới Phan Khôi.

Trong chừng mực tƣ liệu mà hôm nay chúng ta có đƣợc, chủ yếu do Lại

Nguyên Ân sƣu tầm và công bố, chỉ tính riêng từ năm 1928 đến 1932 Phan Khôi

viết trên dƣới 2000 bài báo lớn nhỏ. Với lƣợng bài báo đồ sộ nhƣ thế cùng phong

cách đa dạng mà Phan Khôi đã thể hiện, ngƣời ta có thể khẳng định đƣợc vai trò

“mở đƣờng” của ông trong báo chí hiện đại đặc biệt trong phong cách nghị luận báo

chí thông tấn. Nói cách khác, phong cách nghị luận trên báo chí đã đƣợc Phan Khôi

thể hiện một cách rõ ràng, dứt khoát mà những ngƣời làm báo trƣớc ông cũng nhƣ

cùng thời với ông chƣa làm đƣợc.

Điều làm nên sự khác biệt không thể lẫn giữa phong cách viết của Phan Khôi

với các nhà báo khác là Phan Khôi đã bộc lộ ra một tƣ duy sắc sảo trong lập luận,

phản biện bằng một cấu trúc ngôn từ hiện đại, mới mẻ. Các bài báo của ông không

chỉ phản ánh đƣợc những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc mà còn tạo ra một phong

cách viết báo cách tân, đặc sắc gây đƣợc sự ảnh hƣởng chú ý cho dƣ luận đƣơng

thời. Ông viết báo ở nhiều loại, thể và chuyên mục khác nhau từ tạp văn, phê bình

văn học, bút chiến, tranh luận, khảo luận khoa học, dịch thuật, “Câu chuyện hàng

ngày”, “Những điều nghe thấy”, “Văn Uyển”, “Hán Văn độc tu” ... đến những mẩu

tạp trở “Giấy thừa, mực vụn” viết vốn chỉ để lấp đầy các trang báo thì đều luôn thú

vị. Thú vị vì sự cẩn trọng của một ngƣời uyên thâm Nho học, vì tinh thần duy lý với

2

cách phân tích sắc sảo, vì tƣ tƣởng duy tân mạnh mẽ, vì tinh thần phê phán thấm

đầy qua từng trang viết ... Các tác phẩm của Phan Khôi đến nay vẫn còn đọng lại

nhiều giá trị, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử báo chí, nghiên cứu các vấn

đề liên quan đến thể loại báo chí, kỹ năng viết báo và đặc biệt là khả năng khai thác

ngôn từ sáng tạo theo lối của riêng ông.

Chúng tôi qua luận văn này muốn tìm hiểu một vài đặc điểm chính về nghệ

thuật sáng tạo ngôn từ của Phan Khôi trên các bài báo của ông.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Về tƣ liệu

Ngoài các sáng tác văn học, dịch thuật tiêu biểu nhƣ: các bài thơ Dân quạ

đình công (1909), Đƣa chồng, Nhớ chồng (1919), Tình già (1932); tập truyện Trở

lửa vỏ ra (1939); dịch Kinh Ky-tô ra chữ Quốc ngữ (1926); dịch bộ tiểu thuyết Bá

tƣớc Monte Cristo của Alecxandre Dumas (1929), bản dịch Thù làng (1951), Tuyển

tập tiểu thuyết Lỗ Tấn (1955), Tuyển tập tạp văn Lỗ Tấn (1956) ... Cho đến nay

ngoài 2 cuốn sách “Chƣơng Dân thi thoại” (Tên lúc đầu là Nam Âm thi thoại) và

“Việt ngữ nghiên cứu” đƣợc Nxb Đà Nẵng tái bản năm 2006 thì di sản báo chí của

Phan Khôi mới chỉ đƣợc sƣu tầm và công bố một phần chƣa đầy đủ. Cụ thể là:

- Nhà nghiên cứu Thanh Lãng sƣu tầm và giới thiệu một phần di sản báo chí

của Phan Khôi trên tờ Phụ nữ tân văn giai đoạn 1929 – 1934, đã đƣợc in trong cuốn

“13 năm tranh luận văn học 1932 – 1945” (tập 3, Nxb.Tp Hồ Chí Minh, 1995).

- Các tác phẩm báo chí của Phan Khôi do Lại Nguyên Ân sƣu tầm và biên

soạn:

+ Phan Khôi: tác phẩm đăng báo 1928, Nxb Đà Nẵng, 2003

+ Phan Khôi: tác phẩm đăng báo 1929, Nxb Đà Nẵng, 2005

+ Phan Khôi: tác phẩm đăng báo 1930, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006

+ Phan Khôi: tác phẩm đăng báo 1931, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006

+ Phan Khôi: tác phẩm đăng báo 1932, Nxb Trí thức, Hà Nội, 2009

+ Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006

3

Có thể khẳng định tất cả những di sản đã đƣợc công bố ở trên chỉ là một

phần rất nhỏ, thậm chí chƣa phải là nội dung chủ yếu trong sự nghiệp sáng tác của

Phan Khôi. Nói nhƣ nhà nghiên cứu Thanh Lãng:

“Sự nghiệp của ông (tức Phan Khôi) hầu hết hãy còn nằm rải rác trên mặt

báo. Mà có lẽ những gì tinh túy nhất của ông, linh lợi nhất nơi ông, “Phan Khôi

nhất” trong ông ... hình nhƣ đều chƣa đƣợc in thành sách mà hãy còn cất giấu kín

dƣới những chồng báo”

(Thanh Lãng, Phê bình văn học thế hệ 1932, Sài Gòn, 1973)

2.2. Các công trình nghiên cứu

Qua công trình Việt ngữ nghiên cứu của Phan Khôi, GS.Hoàng Tuệ từng

đánh giá rất cao những đóng góp của Phan Khôi đối với Việt ngữ học và hơn thế

nữa, còn nhận định:

“Phan Khôi là nhà văn hóa rất quý trọng tiếng Việt, quyết tâm bảo vệ ngôn

ngữ dân tộc. Ông theo đuổi sự nghiệp này khi hoạt động ở Sài Gòn, Huế, Hà Nội,

rồi đi theo cách mạng giải phóng dân tộc, hoạt động cho tới cuối đời. Và Phan

Khôi có trí tuệ của một nhà Việt ngữ học. Trí tuệ của ông hình thành từ một văn

hóa rộng mở, những hiểu biết không chỉ về tiếng Việt, tiếng Hán mà còn về tiếng

Pháp, tiếng Anh” [57,tr.11]

Một nhân vật nổi bật nhƣ vậy nhƣng sau này lại rất ít đƣợc biết tới. Nguyên

cớ của tình trạng này là các sự việc mà Phan Khôi mắc phải về sau, nhất là vụ Nhân

văn – Giai phẩm. Trong rất nhiều năm, giới nghiên cứu miền Bắc gần nhƣ không

quan tâm tới Phan Khôi, trong khi một số tờ tạp chí lớn của Sài Gòn trƣớc 1975

từng dành các số chuyên đề để viết về ông. Đặc biệt, đầu năm 1959 Phan Khôi qua

đời ở miền Bắc thì chỉ vài tháng sau đó tại Sài Gòn tờ Giáo dục phổ thông (số 38)

đã có một số bài đặc biệt về Phan Khôi, trong đó có bài viết quan trọng “Ông Phan

Khôi với nhân văn chủ nghĩa” của nhà văn Thiếu Sơn, và để khẳng định địa vị

“ngôi sao” của Phan Khôi còn đƣợc Thiếu Sơn nói cụ thể hơn:

“Ông Diệp Văn Kỳ là con ngƣời sành điệu đã để ý tới ông, mời ông hợp tác

nhƣng lúc đó nhiều ngôi sao sáng đã gặp nhau ở một chỗ nên Phan Khôi chƣa nổi

4

bật. Ông chỉ nổi bật khi ông đƣợc mời tới viết cho PNTV của ông bà Nguyễn Đức

Nhuận. Hồi đó, vào khoảng năm 1930 một bài văn đƣợc trả 5 đồng là hậu lắm rồi.

Vậy mà PNTV dám trả 25 đồng cho một bài cho ông Phan. Một tháng 4 bài 100

đồng tức là hơn lƣơng công chức ngạch cao cấp ở huyện, phủ. Nhƣ vậy thì đâu phải

văn chƣơng hạ giới rẻ nhƣ bèo. Phải nói là mắc nhƣ vàng mới đúng. Nhƣng cũng

phải nói thêm là chỉ có văn chƣơng của Phan Khôi mới đƣợc giá thế và chỉ có ông

bà Nguyễn Đức Nhuận mới dám trả tới giá đó mà thôi. Trả nhƣ vậy mà tôi còn cho

rằng chƣa tới mức vì hầu hết độc giả bỏ 15 xu ra mua PNTV đều chỉ muốn đƣợc coi

bài của Phan Khôi hay Chƣơng Dân, những bài viết gãy gọn, sáng sủa, đanh thép

với những đề tài mới mẻ, những lý luận thần tình làm cho ngƣời đọc say mê mà

thống khoái. Cái đặc biệt ở Phan Khôi là chống công thức (non conformiste)”

[52,tr354]

- Tại Sài Gòn năm 1973, Linh mục Thang Lãng trong công trình Phê bình

văn học thế hệ 1932 đánh giá Phan Khôi là nhân vật nổi bất nhất trƣớc giai đoạn

1945 góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển văn học, văn hóa và tƣ tƣởng của Việt

Nam. Thanh Lãng đặc biệt quan tâm tới các cuộc tranh luận về học thuật và tƣ

tƣởng nên đã liệt kê 10 cuộc tranh luận nổi bật giai đoạn 1932 – 1945, thì trong đó

có tới 5 cuộc tranh luận có liên quan tới Phan Khôi: tranh luận Phan Khôi – Trần

Trọng Kim xung quanh bộ Nho giáo; cuộc tranh luận giữa Tản Đà – Phan Khôi về

cách hiểu Tống Nho và truyền thống; các cuộc tranh luận lớn xung quanh vấn đề

“quốc học” với sự tham biện của Lê Dƣ, Trình Đình Rƣ, Phạm Quỳnh, Phan Khôi,

Nguyễn Trọng Thuật; cuộc tranh luận về Thơ Mới với rất đông thành phần, nổi bật

nhất là Phan Khôi, Lƣu Trọng Lƣ; tranh luận về duy tâm – duy vật giữa Phan Khôi

với Hải Triều ... Qua đó thấy đƣợc Phan Khôi luôn ở vị trí trung tâm trong các cuộc

tranh luận này, nếu không phải là ngƣời châm ngòi thì cũng là ngƣời tham gia hết

sức tích cực và có tiếng nói hết sức có trọng lƣợng. Vậy nên trong cuốn sách Phụ

Nữ Tân Văn – Phấn son tô điểm sơn hà, tác giả Thiện Mộc Lan đánh giá ông là

nhân vật đứng đầu trong “tứ đại” của báo giới Sài Gòn trƣớc 1945: “Hồi thập niên

30 của thế kỷ vừa qua, tại Sài Gòn có bốn nhân vật lừng danh: Phan Khôi, Đào

5

Trinh Nhất, Diệp Văn Kỳ và Bùi Thế Mỹ đƣợc kể là nhóm “Tứ đại” của làng báo

Nam Kỳ” [60,tr.249]

Tuy vậy, có một thực tế cần phải nhấn mạnh rằng giới nghiên cứu ở Việt

Nam chƣa thực sự quan tâm xử lý tài liệu báo chí; ngay cả khi nhà nghiên cứu Lại

Nguyên Ân bỏ công phu sƣu tầm tập 4 quyển Phan Khôi: tác phẩm đăng báo từ

năm 1928 – 1932 thì bộ sách quý giá này gần nhƣ không gây đƣợc sự chú ý gì trên

báo chí ngày nay. Dƣờng nhƣ nhiều ngƣời không còn để ý tới lịch sử và sự lộ diện

trở lại của các nhân vật bấy lâu nay bị chìm lấp đầy bất công. Càng bất công hơn

nữa khi mà Phan Khôi là một trong những bộ óc độc đáo nhất, uyên bác nhất, tỉ mỉ

nhất từng hiện diện trong lịch sử trí thức Việt Nam1

.

Ở bất cứ hƣớng tiếp cận nào cũng cho thấy sự hiện diện của Phan Khôi là rất

độc đáo. Sự độc đáo là cái mới, cái lạ trong chiều sâu tƣ duy và cách thể hiện của

Phan Khôi. Nhiều ngƣời vẫn nói Phan Khôi hay cãi, “gàn” nhƣng nếu xem xét và

đọc về Phan Khôi một cách có hệ thống thì thấy rõ cá tính và khả năng sản sinh

sáng tạo của Phan Khôi đƣợc trải dài, sâu trên nhiều lĩnh vực từ văn hóa – tƣ tƣởng,

lịch sử - triết học, văn học – nghệ thuật, nhân chủng học – y dƣợc, kiến thức Đông

Tây – Kim cổ, chính trị - thời cuộc, nội ngữ - ngoại ngữ ... Tất cả đều đƣợc ông thể

hiện theo một đƣờng hƣớng độc lập “rất Phan Khôi”, ít chịu sự ảnh hƣởng bên

ngoài vì ông luôn nhất quán trong việc chống chủ nghĩa hình thức, kinh viện – giáo

điều, cổ súy duy tân – đổi mới.

Riêng thời kỳ làm báo tại Sài Gòn những năm 20, 30 là thời kỳ Phan Khôi

hoạt động sôi nổi nhất: cùng một lúc ông viết bài cho nhiều tờ báo khắp trong Nam

ngoài Bắc nhƣ Phụ nữ Tân Văn, Thần Chung, Đông Pháp thời báo, Trung lập,

1

Sau khi Hồ sơ Phan Khôi đƣợc tác giả Lại Nguyên Ân công bố thì cũng chỉ xuất hiện những bài viết nhỏ

của tác giả Nguyễn Đăng Mạnh, Cao Việt Dũng, Nguyễn Đăng Điệp, Vƣơng Trí Nhàn, Hà Linh, Phan Thanh

Minh, Nguyễn Hƣng Quốc, Đỗ Ngọc Thạch, Phạm Xuân Thạch … đăng rải rác trên Tạp chí nghiên cứu văn

học, Thể thao và Văn hóa, Điện tử kiến thức, Thesaigontimes.vn … Đây mới chỉ là các bài viết với nội dung

khái quát, nêu nhận định hoặc phản ánh một mặt nào đó than thế - sự nghiệp của Phan Khôi. Trong loạt các

bài viết này nổi bật hơn cả là các bài viết của các tác giả Lại Nguyên Ân, Nguyễn Đăng Mạnh và Cao Việt

Dũng. Tác giả Lại Nguyên Ân trong tập tiểu luận “Mênh mông chật chội” có hai bài viết: “Phan Khôi và

cuộc thảo luận sử học năm 1928 trên Đông Pháp thời báo” và “Liệu có thể xem Phan Khôi (1887 – 1959)

nhƣ một tác gia văn học Quốc ngữ Nam Bộ?” theo đánh giá của chúng tôi là rất có giá trị, gợi mở cho nhiều

hƣớng tiếp cận khi nghiên cứu về học giả Phan Khôi bao gồm từ sử liệu, lịch sử báo chí, nghiên cứu văn hóa

– văn học, triết học – tƣ tƣởng, ngôn ngữ …

6

Đông Tây, Phổ thông ... trong đó có những tờ báo Phan Khôi là trụ cột có tầm ảnh

hƣởng quyết định nhƣ ở tờ Phụ nữ Tân Văn, Trung lập.

Xét về mặt thể loại báo chí và ngôn ngữ thể hiện thì Phan Khôi có những

đóng góp cụ thể:

a) Ngoài phong cách nghị luận trên báo chí thì Phan Khôi là nhà báo định

hình rõ nét nhất thể loại Hài đàm trên báo chí. Đó là những bài viết theo lối tạp văn

và đƣợc coi là “đặc sản” và chiếm số lƣợng rất lớn trong các sáng tác báo chí của

ông: “Lƣợng bài Phan Khôi viết và đăng trên Trung lập có lẽ là lớn nhất so với

lƣợng vài của ông đăng trên bất cứ tờ báo nào ... Trƣớc hết là mục hài đàm

“Những điều nghe thấy” mà tòa soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông

reo (10 ngày đầu lấy là Tha Sơn)”. Từ 2/5/1930 đến 30/5/1933, ngày Trung lập bị

đóng cửa, Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho mục “Những điều nghe thấy” [9,tr.9]

b) Về ngôn ngữ thể hiện Phan Khôi đã có sự chuyển biến về chất. “Ông bắt

đầu viết đƣợc lối văn sát sóng nhƣ lối văn hiện giờ từ hồi ông làm cho Đông Pháp

thời báo ở Nam” [9,tr.2]. Cũng chính Hoàng Tích Chu – ngƣời mở đầu cho lối viết

văn dây thép ngắn gọn mà ngƣời cùng thời cọi là lối viết cụt lủn “tỏ ra thích thú nét

tinh quái của ngòi bút Thông Reo ở mục Những điều nghe thấy” [5,tr.11]. GS.

Nguyễn Đăng Mạnh trong bài nghiên cứu về Phong cách nghị luận, bút chiến của

Phan Khôi (Tạp chí Văn học, số 9/2010) đã có nhiều nhận định tinh tế, chính xác về

lối viết của Phan Khôi:

Ngoài “cảm hứng gây sự” – một thủ pháp nhằm gây sự chú ý trong hoạt

động thông tấn – báo chí, “Hễ dƣ luận nói xuôi thì ông nói ngƣợc ...vì xem chừng

ông rất khoái chí gây ra đƣợc những cú sốc nhƣ thế với dƣ luận. Mà có nhƣ vậy,

văn Phan Khôi mới nổi góc cạnh lên đƣợc”. Đã bƣớc đầu đề cập tới cách lập luận,

hàm ngôn của Phan Khôi, đó là thiên về tƣ duy lôgic “chỉ nói lý, không nói tình”.

Trong nghị luận, bút chiến Phan Khôi kiên quyết dứt bỏ tình cảm và đề cao lí trí.

Đề cao lý trí tất phải coi trọng luận lý học. “Muốn cho thông thì chúng ta viết văn

cốt phải đúng theo văn pháp và luận lý học”. Với nguyên tắc của luận lý học đòi

hỏi phải xác định chính xác nội hàm của các khái niệm, ý nghĩa của các thuật ngữ,

7

các ngôn từ. Cũng chính từ việc vận dụng cẩn trọng luận lý học trong viết văn, làm

báo mà Phan Khôi sẵn sàng đứng ra làm Ngự sử văn đàn , viết hàng loạt các bài

đính chính những sai phạm trong nhận thức và sử dụng các thuật ngữ, ngôn từ,

cách dùng hình ảnh của nhiều nhà văn, nhà báo cùng thời. Nguyên tắc phát ngôn

của Phan Khôi là nói điều gì cũng phải tra xét cho phân minh, có chứng cứ rõ ràng

rồi mới nói. Văn phong của ông trƣớc hết các khái niệm, các thuật ngữ đều đƣợc

định nghĩa rõ ràng “theo tam đoạn luận thì phải xét rõ mạng đề (proposition).

Muốn xét rõ mạng đề phải biện từng danh từ (terme) cho rành rẽ. Vậy bƣớc đầu

lôgic là tế nhận danh từ, bƣớc này sai là hỏng bét”. Tuy vậy Phan Khôi thƣờng

hay dùng thành ngữ, tục ngữ và có lối nói khẩu ngữ rất phóng túng thoải mái

[65,tr.90-94]

Ngoài ra trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ học, Phan Khôi cũng để lại

nhiều dấu ấn riêng. Nguyễn Hiến Lê (Tuyển tập Nguyễn Hiến Lê, tập III, Ngữ học)

khi bàn về Loại từ đi với thể trở động vật [61, tr.328]; Quan hệ từ của câu [61,

tr.558]; Ảnh hƣởng về ngữ pháp, Dùng thể từ thay cho trạng từ [61, tr.623] ... đều

có viện dẫn các ví dụ của Phan Khôi và đồng quan điểm với cách lý giải của tác giả

Việt ngữ học nghiên cứu.

Khi luận giải về Sự phát triển ngôn ngữ và ngôn ngữ đã phát triển trƣờng

hợp tiếng Việt, Hoàng Cao Cƣơng đã nhắc tới Phan Khôi với một thái độ đặc biệt

kính trọng:

“Hơn một ngàn năm học chữ Hán, vẫn có nhờ nó lập cho ta một nền văn hóa

khả quan, nhƣng nếu nói ta đã lập trên thứ chữ ấy một nền văn hóa xứng đáng thì

tôi tƣởng rằng chƣa chắc. Bởi một thứ chữ mà ta viết hãy còn chƣa nhã thuần, chƣa

đúng văn pháp, thì làm sao cho thành văn học đƣợc” [24,tr.2]

Tóm lại Phan Khôi là nhân vật nổi trội đặc biệt nhất trong giới trí thức, trong

làng văn, làng báo Việt Nam đầu thế kỷ XX, nhƣng các công trình nghiên cứu về

ông chƣa nhiều, chƣa thật tƣơng xứng với tài năng và học thuật của ông, nhất là ở

lĩnh vực báo chí thì hầu nhƣ thiếu vắng hoàn toàn. Nguyên nhân của tình trạng này

đƣợc nhấn mạnh là bởi giới nghiên cứu ở Việt Nam chƣa thực sự quan tâm tới xử lý

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!