Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch bản văn học và truyện ngắn)
PREMIUM
Số trang
114
Kích thước
1.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
919

Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch bản văn học và truyện ngắn)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

--------------------------------

NGUYỄN THUÝ QUỲNH

BƢỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU SỰ NGHIỆP VĂN

CHƢƠNG CỦA NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC

(Ở HAI THỂ LOẠI: KỊCH BẢN VĂN HỌC VÀ TRUYỆN NGẮN)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS – TS Trần Thị Việt Trung

THÁI NGUYÊN – 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

MỤC LỤC

Phần mở đầu:…………………………………………………………………..2

Chƣơng I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn

đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc…………………9

1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh hưởng

đến việc hình thành ngòi bút Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………...9

1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của tác giả Nam Xương

- Nguyễn Cát Ngạc………………………………………………………… 17

Chƣơng II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản

của Nam Xƣơng -NguyễnCát Ngạc……………………………………...26

2.1.Tóm tắt các kịch bản của Nam Xương…………………………………....26

2.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung tư tưởng của

kịch Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………..31

2.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật

của kịch Nam Xương- Nguyễn Cát Ngạc……………………………………49

Chƣơng III. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật

truyện ngắn của Nam Xƣơng -Nguyễn Cát Ngạc………………………...67

3.1. Vài nét về tình hình sáng tác truyện ngắn

của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………..67

3.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung truyện ngắn

của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc…………………………………………69

3.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật truyện ngắn của

Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc……………………………………………..93

Kết luận ………………………………………………………….. ……….107

Tài liệu tham khảo………………………………………………………. ..110

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Với hai kịch bản nổi tiếng một thời (giai đoạn đầu thế kỷ XX) là Ông

Tây An Nam và Chàng Ngốc, trong mấy chục năm qua, Nam Xương - Nguyễn

Cát Ngạc đã được các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam khẳng định là một

trong những tác giả đầu tiên tham gia xây dựng nền móng của nền kịch nói

Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, ngoài sự khẳng định trên, cho đến nay, sự

nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chưa được nghiên cứu một cách

hệ thống và đầy đủ, cho dù sau khi hy sinh ở miền Nam vào năm 1958, ông

đã để lại một di sản văn chương khá phong phú. Trên thực tế, ngoài việc giới

thiệu khái quát tên tuổi của Nam Xương trong một số công trình nghiên cứu

về văn học và sân khấu Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, tên tuổi ông ít

được nhắc tới, và các nhà nghiên cứu cũng thường xem xét ông trong tư cách

tác giả kịch bản. Nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát

Ngạc không chỉ có vậy. Với lòng yêu nước sâu sắc, ngay từ đầu, ông đã dấn

thân vào phong trào yêu nước, rồi gia nhập đội ngũ của những người cộng

sản, ông đã hai lần nhận án tử hình của Nhật và Pháp, và cuối cùng ông đã hy

sinh ở miền Nam năm 1958 với cương vị là chiến sĩ tình báo của cách mạng.

Trên bước đường hoạt động ấy, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc vẫn tiếp tục

sáng tác trên nhiều thể loại, từ kịch bản tới tiểu thuyết, truyện ngắn, một vài

thể loại khác và bộ phận chủ yếu của di sản này vẫn chưa được công bố. Vì

thế, giới nghiên cứu vẫn chưa có điều kiện tiếp xúc và khảo sát toàn bộ những

sáng tác của ông, và đó là lý do giải thích vì sao sự nghiệp văn chương của

ông lại chỉ được nghiên cứu một cách hạn hẹp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc bắt đầu sáng tác từ đầu những năm ba

mươi của thế kỷ trước. Trong giai đoạn này, công cuộc hiện đại hoá văn học

Việt Nam, như một yêu cầu khách quan của lịch sử, được hình thành từ giai

đoạn giao thời, đã phát triển một cách toàn diện. Sự ra đời của Thơ mới, của

tiểu thuyết và truyện ngắn, của nghệ thuật tạo hình, sân khấu kịch nói…đã tạo

nên một diện mạo mới của nền văn học - nghệ thuật nước nhà, tạo đà cho các

bước phát triển sau này. Chính vì thế, việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, đầy

đủ hơn về bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa, về các tác giả đã đi tiên phong

trong giai đoạn đầu của công cuộc hiện đại văn học Việt Nam là hết sức quan

trọng và cần thiết. Nam Xương – Nguyễn Cát Ngạc là một trong những tác

giả như vậy. Nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn

Cát Ngạc, chúng tôi mong muốn được khám phá và khẳng định vị trí của ông

đối với việc góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam

đầu thế kỷ XX.

Do sẵn lòng kính trọng và yêu mến những sáng tác của Nam Xương -

Nguyễn Cát Ngạc, đặc biệt là có may mắn được tiếp xúc với di cảo ông mà

gia đình ông còn lưu giữ, chúng tôi chọn đề tài Bước đầu nghiên cứu sự

nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch

bản và truyện ngắn) để bước đầu khảo sát về ông, với ý muốn phục dựng một

gương mặt văn học còn ít người biết tới. Sự phục dựng ấy có mục đích giới

thiệu và đưa ra một số nhận định bước đầu về đặc điểm sáng tác của Nam

Xương - Nguyễn Cát Ngạc, qua đó khẳng định những đóng góp của ông ở hai

thể loại: kịch bản và truyện ngắn. Ngoài hai thể loại này, ông còn sáng tác ở

các thể loại văn xuôi khác, nhưng trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn

cao học và do khả năng còn có giới hạn, nên chúng tôi chỉ đi sâu vào 2 thể

loại trên để nghiên cứu.

2. Lịch sử vấn đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

Là người tham gia hoạt động văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại từ

khá sớm và để lại dấu ấn qua hai kịch bản Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc

(trong đó, "ông Tây An Nam" đã trở thành một kiểu thành ngữ của người Việt

Nam khi đề cập tới những người Việt vọng ngoại, bắt chước phương Tây một

cách lố lăng), nhưng do nhiều biến cố của cuộc đời ông mà sự nghiệp của

Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chưa được giới nghiên cứu chú ý. Hơn nữa,

do sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chủ yếu công bố trong vùng

tạm chiếm khi ông hoạt động công khai trong nội thành Hà Nội và sau đó vào

miền Nam hoạt động với danh nghĩa trí thức, nên việc sưu tầm tác phẩm của

Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là rất khó khăn. Theo khảo sát bước đầu của

chúng tôi, cho tới nay đã có những công trình nghiên cứu sau đề cập đến tác

giả Nam Xương :

1. Bước đầu tìm hiểu Lịch sử kịch nói Việt Nam trước cách mạng tháng

Tám (Phan Kế Hoành - Huỳnh Lý, NXB Văn hoá, H.1978)

2. Từ điển Văn học, mục từ Nam Xương (bản in năm 1984)

3. Từ điển Văn học (bộ mới), mục từ Nam Xương (bản in năm 2005)

4. Văn học Việt Nam thế kỷ XX, GS Phan Cự Đệ chủ biên, NXB Giáo

dục, H.2004 (phần về kịch bản do PGS TS Phan Trọng Thưởng thực hiện).

5. Tổng tập văn học Việt Nam, tập 23, GS Đinh Gia Khánh chủ biên,

NXB Khoa học xã hội, H.1997.

6. Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, GS Hà Minh Đức chủ biên,

NXB Sân khấu, H.1997.

7. Bài báo Về tác giả vở kịch nói Ông Tây An Nam (Nguyễn Hòa, Tạp

chí Nghiên cứu văn học - Viện Văn học, số 7 năm 2001)

Trong các nguồn tư liệu này, thì ở 2 bộ từ điển chỉ giới thiệu về cuộc đời

và sự nghiệp của Nam Xương một cách khá sơ lược. Trong Từ điển Văn học,

mục từ Nam Xương, Trần Hữu Tá giới thiệu: "Nam Xương tham gia cách

mạng từ tháng Tám năm 1945, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

1948, làm công tác bí mật ở các thành phố Nam Định và Hà Nội. 1954, ông

được phái vào Sài Gòn công tác và hy sinh 1958. Thời gian hoạt động trong

vùng Hà Nội tạm bị chiếm (1948 - 1954), ông viết một tập truyện ngắn có giá

trị phê phán tích cực (Bụi phồn hoa), hai cuốn tiểu thuyết lịch sử đậm đà tinh

thần dân tộc (Bách Việt, Hùng Vương) và một vở kịch (Tây Thi). Dưới danh

nghĩa một nhà xuất bản tưởng tượng "Quê hương", ông đã in được hai cuốn

Bụi phồn hoa và Bách Việt nhằm động viên bạn đọc thành phố hướng về

chính nghĩa" [5, tr.11].

Chúng tôi xin giới thiệu một số đánh giá của các nhà nghiên cứu trong

các công trình trên:

Trong bài mở đầu cuốn Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX , có nhan

đề “Kịch nói Việt Nam, thời kỳ đầu hình thành và phát triển”, GS Hà Minh

Đức viết: “Nam Xương không trực tiếp đả kích vào bọn thực dân xâm lược,

mà phê phán đả kích vào cái hình bóng của nó qua những quái thai như Cử

Lân, một trí thức du học ở Pháp về và hoàn toàn mất gốc” “Chất hài trong

kịch Ông Tây An Nam của Nam Xương bộc lộ trong chiều sâu của xung đột

và tác giả biết dẫn dắt để nhân vật tự phơi bày những nghịch lý, những trò lố

lăng. Có thể xem đây là vở hài kịch thành công trong không khí chung của

thời kỳ này” [22, tr.12]

Trong công trình “ Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam” của

Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý, có viết: “Ở cuối thời kỳ này (thời kỳ 1927 -

1930, theo cách phân kỳ của 2 tác giả trên - NTQ), Nam Xương cũng để lại

hai vở kịch đáng chú ý là vở Chàng Ngốc và vở Ông Tây An Nam. Qua vở

Ông Tây An Nam, Nam Xương đả kích một bọn trí thức vong bản. Cũng qua

hai vở ấy, người ta thấy Nam Xương là người am hiểu về nghệ thuật kịch cổ

điển và có sở trường về lối hài kịch”.[13, tr42] Cũng trong cuốn sách trên,

Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý nhấn mạnh vị trí của kịch Nam Xương trong

sân khấu kịch nói đương thời: “... trong sự phát triển có thể nói là xô bồ của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

mấy năm 1929, 1930, 1931, người ta ít tìm thấy những vở có tiếng vang trong

kịch trường, trừ mấy vở của Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền

và nhất là của Nam Xương” [13, tr. 44].

Bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà viết: “Bằng hai vở

kịch nói Ông Tây An Nam (1930) và Chàng Ngốc (1931), Nam Xương -

Nguyễn Cát Ngạc đã cùng với Vi Huyền Đắc, Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu

Kim…trở thành những nghệ sĩ đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời của

nghệ thuật kịch nói Việt Nam. Dù chỉ là đôi dòng, nhưng tên tuổi của Nam

Xương - Nguyễn Cát Ngạc thường được nhắc tới trong các công trình

nghiên cứu lịch sử văn học, nghiên cứu lịch sử sân khấu Việt Nam trong

những thập kỷ đầu của thế kỷ XX.”, “Có thể nói không quá lời rằng

Nguyễn Cát Ngạc, là một trong số ít các tác giả đầu tiên có những sáng tác

văn học về một gia đoạn lịch sử cách chúng ta rất xa là thời đại Hùng

Vương - một thời đại mà sử liệu hiện chỉ còn chủ yếu trong truyền

thuyết…Cho đến nay, truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc chưa được khảo

sát kỹ lưỡng. Có thể nhận xét, đây là những truyện ngắn được viết khá

công phu, được tổ chức theo lối kịch bản, có thắt nút cởi nút, đặc biệt tác

giả thường khai thác một cách tinh tế những tình huống có khả năng khắc

họa hình ảnh lố bịch của những kẻ bán nước hại dân. ”[14]

Có thể thấy rằng: hầu hết các công trình nghiên cứu trên đây chỉ mới

dừng ở những đánh giá ngắn gọn và khái quát về Nam Xương - Nguyễn

Cát Ngạc, chủ yếu ở vai trò một tác giả kịch bản giai đoạn đầu thế kỷ XX

trong một tổng thể chung của cả nền văn học hoặc riêng lĩnh vực kịch nói;

và mới chỉ có một bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà viết về

cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương. Toàn bộ sự nghiệp văn học của

Nam Xương nói chung và phần văn xuôi nói riêng chưa được khảo sát,

nghiên cứu. Bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà - tuy đã đề

cập tới phần văn xuôi của ông, nhưng cũng mới chỉ dừng ở việc đưa ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

những nhận định ban đầu. Chưa có công trình nào nghiên cứu sự nghiệp

văn chương của Nam Xương một cách hệ thống và hoàn chỉnh. Do đó,

việc nghiên cứu về Nam Xương là rất cần thiết.

3. Mục đích nghiên cứu

- Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong các

sáng tác của Nam Xương ở hai thể loại: kịch bản và truyện ngắn.

- Khẳng định các đóng góp của Nam Xương đối với sự hình thành và

phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại trong giai đoạn đầu thế kỷ XX ở

hai thể loại trên.

4. Đối tƣợng nghiên cứu

- Toàn bộ các tác phẩm của Nam Xương, tập trung nghiên cứu các tác

phẩm kịch bản và truyện ngắn.

- Các tài liệu liên quan: các tác phẩm kịch bản, truyện ngắn cùng thời với

ông; các công trình nghiên cứu có đề cập đến sáng tác của Nam Xương.

- Các tài liệu lý thuyết, lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Nam

Xương trong thể loại kịch bản văn học.

- Chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Nam

Xương trong thể loại truyện ngắn.

- Khẳng định vị trí, vai trò cùng những đóng góp quan trọng của Nam

Xương trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hoá nền văn học nước nhà ở

hai thể loại trên.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Để thực hiện luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên

cứu:

- Phương pháp phân tích và tổng hợp

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

9

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

- Phương pháp nghiên cứu hệ thống

7. Bố cục của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận

văn gồm 3 chương.

Chương I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn

đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng.

Chương II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản của

Nam Xƣơng.

Chƣơng III. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn

của Nam Xƣơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

10

Chƣơng I

ĐỜI SỐNG XÃ HỘI – VĂN HOÁ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ

XX VÀ TÁC GIẢ NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC

1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh

hƣởng đến việc hình thành ngòi bút Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc

1.1.1. Sự xâm nhập của văn hoá phương Tây và những biến động

trong đời sống xã hội - văn hoá Việt Nam

Cuối thế kỷ XIX, về cơ bản người Pháp đã hoàn tất quá trình xâm lược

Việt Nam. Chính sách chia để trị và sự hình thành về mặt hình thức của ba xứ

Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ đã cho phép người Pháp xúc tiến công cuộc

khai thác thuộc địa ở “xứ Đông Dương thuộc Pháp” một cách triệt để, nhằm tận

thu của cải vật chất từ thuộc địa, và nhằm một mặt bù vào những thiệt hại nặng

nề từ các cuộc chiến tranh mà nước Pháp tham gia, một mặt tăng cường thêm

nguồn lực tạo ra sức mạnh của nước Pháp trong quan hệ quốc tế. Kết quả của

chính sách kinh tế đó là nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp hàng nghìn năm đã

bị phá vỡ, kinh tế tư bản hình thành và phát triển; nước ta trở thành một thuộc

địa bị khai thác đến tận cùng các của cải vật chất, đồng thời trở thành thị trường

tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu cho tư bản công nghiệp và thương nghiệp

Pháp. Đi cùng với tình trạng này là việc giai cấp nông dân Việt Nam bị bần

cùng hoá, tầng lớp tiểu tư sản, thợ thủ công không có điều kiện để phát triển,

trở thành nguồn nhân công đông đảo và rẻ mạt cho các hãng buôn, chủ đồn

điền, chủ thầu của Pháp.

Về mặt chính trị, chế độ thực dân nửa phong kiến chưa từng có trong

lịch sử Việt Nam từng bước hình thành trên khắp lãnh thổ. Nó tiếp tục kìm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

11

hãm sự phát triển của đất nước dưới một hình thức khác, tuy nhiên chính sự

có mặt của nó lại phá vỡ và gây nên những biến động lớn trong xã hội Việt

Nam vốn hàng nghìn năm “bế quan toả cảng” dưới chế độ phong kiến kiểu

phương Đông.

Để bóc lột sức lao động và vơ vét tài nguyên ở nước thuộc địa, người

Pháp mở mang giao thông, thị trường buôn bán, phát triển nền kinh tế hàng

hoá thống nhất trong cả nước. Kèm theo sự phát triển ấy là việc mở rộng các

đô thị cũ, hình thành các khu công nghiệp mới “kiểu phương Tây”, rồi các

tỉnh lỵ, phủ, huyện lỵ được xây dựng như những trung tâm kinh tế - văn hóa

địa phương để phục vụ hoạt động, sinh hoạt của tầng lớp “Tây thuộc địa”, là

trung tâm hành chính để cai trị, đồng thời là nơi sơ chế, buôn bán và tiêu thụ,

sản phẩm có được trong quá trình bóc lột tài nguyên và tận dụng nguồn nhân

công rẻ mạt.

Quá trình đô thị hoá dẫn đến sự phá vỡ kết cấu xã hội. Hệ thống các giai

tầng đã có tuổi đời hàng nghìn năm, được tổ chức theo mô hình “tứ dân” (sĩ -

nông - công - thương ) dần dần bị phá vỡ do trong xã hội xuất hiện những dấu

hiệu sơ khai của quan hệ sản xuất kiểu mới mà nền kinh tế tư bản từ nước

Pháp mang lại. Những ngành nghề chưa từng có trong lịch sử dân tộc như

thông ngôn, ký lục, ký giả,... cho đến thợ cơ khí, thợ in ấn, phu mỏ,… lần lượt

xuất hiện, và tình trạng này cũng góp phần làm thay đổi cơ cấu nghề nghiệp

trong xã hội. Đông đảo nông dân bị bần cùng hoá do mất ruộng đất phải tha

hương ra các đô thị kiếm sống, hình thành một tầng lớp tiểu tư sản nghèo

ngày càng tăng mãi lên trong các đô thị; một số khác không nhiều trở thành

lực lượng phu mỏ, phu đồn điền, từng bước hình thành nên những bộ phận

đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Và do đó, cuộc xâm lăng của

người Pháp đã đẩy tới sự thoát thai ra khỏi cách thức tổ chức xã hội kiểu cũ,

từng bước làm nên một xã hội Việt Nam kiểu mới với sự xuất hiện của một số

tầng lớp xã hội mới.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!