Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thông qua sử dụng bài tập sáng tạo trong dạy học chương “các định luật bảo toàn” vật lí 10 thpt
PREMIUM
Số trang
282
Kích thước
9.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
802

Bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thông qua sử dụng bài tập sáng tạo trong dạy học chương “các định luật bảo toàn” vật lí 10 thpt

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

HOÀNG THỊ HIỀN

BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

THÔNG QUA SỬ DỤNG BÀI TẬP SÁNG TẠO

TRONG DẠY HỌC CHƢƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO

TOÀN’’ VẬT LÝ 10 THPT

Chuyên ngành : Lý luận và PPDH Bộ môn Vật lí

Mã số : 8.14.01.11

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Đà Nẵng – Năm 2019

Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THANH HẢI

Phản biện 1: GS.TS. Đỗ Hương Trà

Phản biện 2: TS. Phùng Việt Hải

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt

nghiệp thạc sĩ Khoa học giáo dục họp tại Trường Đại học Sư phạm

vào ngày 12 tháng 07 năm 2019.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Thư viện Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN

- Khoa Vật lý, Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại

đang tạo ra sự biến đổi sâu sắc, toàn diện; nền kinh tế đang từng

bước chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Cùng với

sự phát triển của các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội, giáo dục

cần phải có những định hướng mang tính tiên phong. Trong những

định hướng đó, dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh

đang là vấn đề được quan tâm lớn của xã hội nói chung và các nhà

nghiên cứu giáo duc nói riêng.

Trong sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ và

hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh ngày càng gay

gắt thì khả năng phát hiện sớm, giải quyết nhanh, sáng tạo và hợp lý

những vấn đề phát sinh trong thực tiễn là năng lực rất cần thiết đối

với mỗi cá nhân. Trong dạy học ở trường phổ thông, việc rèn luyện

cho học sinh biết phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề trong học tập,

trong cuộc sống không chỉ có ý nghĩa trong dạy học mà được đặt ra

như một mục tiêu giáo dục và đào tạo cần phải đạt được.

Thực tế dạy hiện nay nói chung và DH vật lí nói riêng hầu hết

GV chỉ chú trọng đến việc cung cấp khối lượng kiến thức cho HS

hơn là tổ chức các hoạt động DH theo hướng bồi dưỡng năng lực

GQVĐ cho HS. Trong khi đó yêu cầu đổi mới của Bộ Giáo dục và

Đào tạo hiện nay là phải điều chỉnh từ tiếp cận nội dung chuyển dần

sang hướng tiếp cận năng lực (HS làm được gì thông qua việc học).

Đối với môn Vật lý, một trong những hoạt động giúp rèn

luyện tư duy và phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh là hoạt

động giải bài tập; tuy nhiên phương pháp suy nghĩ chủ yếu vẫn là

phương pháp thử và sai, thiếu định hướng, thiếu phương pháp khoa

học. Hơn nữa hệ thống bài tập vật lý trong chương trình hầu hết là

những bài toán đã được phát biểu đúng, với những dữ kiện cho sẵn

đủ gợi ý cho học sinh sử dụng một vài công thức hay định luật nào

đó. Các bài tập như thế chỉ mang tính luyện tập giúp học sinh tái

hiện các kiến thức và phương pháp đã biết, không phải là bài tập

thực tế trong cuộc sống đa dạng mà các em có thể gặp. Do đó việc

2

giải bài tập như thế chưa rèn luyện và khơi gợi được tư duy sáng tạo

cho học sinh, chưa làm học sinh hứng thú trong học tập và thấy

được ích lợi của việc học vật lý trong đời sống. Đa số học sinh sau

khi ra trường thường lúng túng khi gặp các vấn đề thực trong cuộc

sống, không biết cách suy nghĩ, áp dụng kiến thức nào, áp dụng như

thế nào để giải quyết, không liên kết được kiến thức đã học vào

thực tế công việc và cuộc sống.

Việc đưa BTST vào DHVL giúp học sinh phát triển được

năng lực GQVĐ khi giải bài tập, có cách nhìn tổng quát hơn, chương

trình hóa những bước giải bài toán thật tối ưu, tiết kiệm thời gian,

chủ động xử lý các tình huống xảy ra… đồng thời học sinh có thể

vận dụng để giải quyết những vẫn đề thường gặp trong cuộc sống.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên

cứu:“Bồi dƣỡng năng lực giải quyết vấn đề thông qua sử dụng

bài tập sáng tạo trong dạy học chƣơng “Các định luật bảo toàn”

Vật lý 10 THPT

2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Đối với môn Vật lý một số luận văn thạc sỹ nghiên cứu về

năng lực GQVĐ như:

Trong luận án tiến sĩ “Tổ chức hoạt động nhận thức cho

HS trong dạy học chương “Từ trường” và “Cảm ứng từ” Vật lý

11 THPT theo hướng phát triển năng lực giải quyết vấn đề với sự hỗ

trợ của máy vi tính” (2013), tác giả Lương Thị Lệ Hằng [15]; tác giả

Dương Đức Giáp (2014): “Bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề cho

học sinh trong dạy học một số kiến thức phần cơ học Vật lí lớp 10

với sự hỗ trợ của bài tập vật lí” đã làm rõ được cơ sở khoa học và

thực tiễn của việc bồi dưỡng năng lực GQVĐ cho học sinh thông qua

bài tập vật lí [9]…

Với việc sử dụng BTST, một số tác giả đã tiếp cận theo

nhiều hướng khác nhau, chú trọng đến việc xây dựng các BTST

theo các chủ đề kiến thức khác nhau như: tác giả Vũ Thị Minh

(2011) với “Nghiên cứu xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập

sáng tạo trong dạy học phần cơ học lớp 10 THPT” [22]; tác giả Võ

Đình Bảo (2011) đã nghên cứu đề tài: “Tổ chức dạy học chương

3

động học chất điểm vật lý 10 theo phương pháp nhóm thông qua

việc xây dựng và sử dụng bài tập sáng tạo” [3]; tác giả Võ Thị

Hoàng Anh (2010), Xây dựng hệ thống bài tập sáng tạo dùng cho

dạy học chương “Tĩnh học vật rắn” Vật lí 10 Trung học phổ thông,

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học, Đại học Vinh [1].

Tuy nhiên, do những mục tiêu nghiên cứu của mình, các tác

giả nêu trên chưa đặt vấn đề sử dụng loại BTST nhằm bồi dưỡng

NLGQVĐ cho HS.

Thông qua những tài liệu mà chúng tôi được biết, thì chúng

tôi chưa phát hiện thấy đề tài nghiên cứu nào về việc bồi dưỡng

năng lực GQVĐ cho học sinh thông qua việc sử dụng bài tập sáng

tạo trong dạy học chương “Các định luật bảo toàn” Vật lí10 THPT.

3. Mục tiêu của đề tài

- Xác định được quy trình lựa chọn BTST và quy trình tổ chức

dạy học có sử dụng BTST theo hướng phát triển năng lực GQVĐ của

học sinh.

- Xây dựng và vận dụng được các tiến trình dạy học cụ thể có

sử dụng BTST trong dạy học chương “Các định luật bảo toàn” theo

hướng bồi dưỡng năng lực GQVĐ của học sinh.

4. Giả thuyết khoa học

Nếu thiết kế được quy trình tổ chức dạy học có sử dụng các

BTST theo hướng bồi dưỡng năng lực GQVĐ và tổ chức dạy học

chương “Các định luật bảo toàn” theo đúng quy trình đã đề xuất thì

sẽ bồi dưỡng được năng lực GQVĐ của HS, góp phần nâng cao chất

lượng dạy học VL.

5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

- Hoạt động dạy học chương “Các định luật bảo toàn” Vật lý

10 THPT có sử dụng các BTST theo hướng bồi dưỡng năng lực

GQVĐ cho HS.

- Nội dung kiến thức: tập trung vào chương “Các định luật

bảo toàn” Vật lý 10.

- Địa bàn TNSP: tại trường THPT Nguyễn Hiền, TP Đà Nẵng

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng BTST

4

để phát triển năng lực GQVĐ của học sinh.

- Tiến hành điều tra để đánh giá thực trạng của việc sử dụng

BTST theo hướng phát triển năng lực GQVĐ của HS trong dạy học

vật lý (DHVL) ở một số trường THPT hiện nay

- Đề xuất quy trình tổ chức dạy học có sử dụng BTST để phát

triển năng lực GQVĐ cho HS.

- Xác định các tiêu chí đánh giá sự phát triển năng lực GQVĐ

của học sinh thông qua các kỹ năng cụ thể.

- Thiết kế một số bài giảng cụ thể của chương “Các định luật

bảo toàn” Vật lý 10 THPT có sử dụng các BTST theo hướng phát

triển năng lực GQVĐ cho HS

- Thực nghiệm sư phạm (TNSP) để đánh giá tính khả thi của

đề tài.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu lí thuyết; Phương pháp điều tra, quan

sát thực tiễn; Phương pháp thực nghiệm sư phạm; Phương pháp

thống kê toán học.

8. Đóng góp của đề tài

Về mặt lý luận

Góp phần làm phong phú them cơ sở lý luận của việc sử dụng

BTST trong dạy học vật lý theo hướng bồi dưỡng NLGQVĐ.

Đề xuất biện pháp bồi dưỡng năng lực GQVĐ cho HS thông

qua hệ thống BTST phần “Các định luật bảo toàn” Vật lý 10 THPT.

Về mặt thực tiến:

Xây dựng hệ thống BTST phần “Các định luật bảo toàn” Vật

lý 10 theo hướng bồi dưỡng NLGQVĐ .

Thiết kế tiến trình dạy học một số kiến thức cụ thể trong

chương “Các định luật bảo toàn” theo hướng bồi dưỡng NLGQVĐ

cho học sinh.

9. Cấu trúc luận văn

Đề tài gồm 03 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.

Trong phần nội dung được trình bày 03 chương:

- Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc bồi dưỡng

năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh trong dạy học vật lý thông

5

qua việc sử dụng BTST

- Chương 2. Lựa chọn và sử dụng BTST trong dạy học

chương “Các định luật bảo toàn” Vật lý 10 theo hướng bồi dưỡng

năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh

- Chương 3. Thực nghiệm sư phạm

Ngoài ra, còn có phần Tài liệu tham khảo và phụ lục

Chƣơng 1CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BỒI

DƢỠNG NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHO HỌC SINH

TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ THÔNG QUA VIỆC SỬ DỤNG

BÀI TẬP SÁNG TẠO

1.1. Năng lực giải quyết vấn đề

1.1.1. Năng lực học sinh

Chúng tôi cũng thống nhất với quan niệm về năng lực học

sinh đã được trình bày trong “Chương trình Giáo dục phổ thông tổng

thể” do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành tháng 12/2018 [7]:

a) Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông

qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự

học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và

sáng tạo;

b) Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ

yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định:

năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực

công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất.

Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi,

chương trình giáo dục phổ thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng

năng khiếu của học sinh

1.1.2. Năng lực giải quyết vấn đề

1.1.2.1. Khái niệm

Năng lực GQVĐ là khả năng của một cá nhân huy động, kết

hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ,

tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,…để hiểu và giải quyết vấn đề

trong tình huống nhất định một cách hiệu quả và với tinh thần tích

cực.

6

1.1.2.2. Cấu trúc của năng lực giải quyết vấn đề

* Cấu trúc của một năng lực: Năng lực được cấu thành từ

các thành tố năng lực, trong mỗi thành tố chứa đựng các kỹ năng, để

nhận biết các kỹ năng thì ta quan sát các biểu hiện trong các hoạt

động cụ thể.

Cấu trúc của năng lực GQVĐ: gồm có 6 thành tố [6]

+ Nhận ra ý tưởng mới

+ Phát hiện và làm rõ vấn đề

+ Hình thành và triển khai ý tưởng mới

+ Đề xuất, lựa chọn giải pháp

+ Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề

+ Tư duy độc lập

1.1.2.3. Các kỹ năng cần rèn luyện để bồi dưỡng năng lực

GQVĐ

Kỹ năng phát hiện vấn đề

Kỹ năng xác định bản chất của vấn đề

Kỹ năng xác định thông tin cần thu thập

Kỹ năng phân tích thông tin

Kỹ năng biểu đạt vấn đề

Kỹ năng xác định mục tiêu của vấn đề

Kỹ năng đề xuất giải pháp

Kỹ năng lựa chọn giải pháp tối ưu

Kỹ năng tổ chức thực hiện giải pháp đã lựa chọn Kỹ năng

kiểm tra, đánh giá kết quả, hiệu quả của phương án đã thực hiện

1.1.2.4. Các tiêu chí đánh giá năng lực giải quyết vấn đề

Khi muốn đánh giá một năng lực, ta cần làm rõ nội hàm năng

lực đó bằng cách chỉ ra những kiến thức, kĩ năng và thái độ cần có

làm nền tảng cho việc thể hiện, phát triển năng lực đó, sau đó xây

dựng các công cụ đo kiến thức, kĩ năng, thái độ thông qua các tiêu

chí (chỉ số hành vi).

1.2. Bài tập sáng tạo

1.2.1. Khái niệm

BTST đó là loại bài tập mà dữ kiện được cho ở đề bài không

tường minh hoặc là bị ẩn đi. Trong loại BT này, ngoài việc phải

7

vận dụng một số kiến thức đã học, HS bắt buộc phải có những ý

kiến độc lập, mới mẻ, không thể suy ra một cách logic từ những

kiến thức đã học.

1.2.2. Phân loại và phƣơng pháp giải BTST

1.2.2.1. Phân loại

+ Bài tập có nhiều cách giải

+ Bài tập có hình thức tương tự nhưng có nội dung biến đổi

+ Bài tập về đề xuất phương án thí nghiệm

+ Bài tập có dữ kiện không tường minh

+ Bài tập nghịch lý, ngụy biện

+ Bài toán hộp đen

1.2.2.2. Phương pháp giải BTST

Bài tập vật lý nói chung và BTST vật lý nói riêng đã có nhiều

tác giả đề cập đến chiến lược giải tổng quát. Theo chúng tôi thì kế

hoạch tổng thể để giải BTST vật lý gồm sáu bước như sau [21]:

Bƣớc 1: Diễn đạt thành lời bài tập.

Bƣớc 2: Xác định rõ tính chất bài tập, tức là phân tích thông

tin đề bài cung cấp xác định cái gì đã biết, cái gì cần biết để giải

được bàitập.

Bƣớc 3: Khám phá, tức là động não tìm các chiến lược tổ chức

thông tin từ cái đã cho để tìm được cái cần biết.

Bƣớc 4: Kế hoạch, tức là quyết định chọn một chiến lược

hoặc một nhóm chiến lược và lập các bước phụ cho chiến lược đã

chọn.

Bƣớc 5: Thực thi kế hoạch Trong quá trình giải bài tập thì các

kĩ năng tính toán, kĩ năng thực hành vật lí quyết định sự thành công

của công việc giải bài tập. Mỗi bài tập là một dịp tốt giúp HS rèn

luyện kĩ năng.

Bƣớc 6: Đánh giá, tức là khẳng định điều đã làm được, khẳng

định đã giải xong bài tập và tại sao giải được hoặc tại sao không giải

được. Trong kế hoạch tổng thể gồm sáu bước giải bài tập vật lí luôn có

mặt có chiến lược chung giải bài tập hiểu như là những phương pháp

chung của vật lí học vận dụng vào việc giải các bài tập vật lí đa dạng.

8

1.2.3. Vị trí của BTST trong hệ thống bài tập vật lý

Bài tập là phương tiện DH giữ một vai trò nổi trội trong quá

trình DHVL. BTVL giúp GV hoàn thành chức năng giáo dưỡng,

giáo dục và phát triển tư duy HS. Việc giải BTVL giúp HS ôn tập,

đào sâu và mở rộng kiến thức một cách vững chắc rèn luyện khả

năng logic cũng như nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ khác nhau

từ đó giúp HS rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, vận dụng lí thuyết vào thực

tiễn, thói quen vận dụng kiến thức giúp học sinh làm việc với tinh

thần tự lực cao, đồng thời thúc đẩy khả năng tư duy, tư duy sáng tạo

cho HS.

BTST được xây dựng nhằm mục đích rèn luyện bồi dưỡng

năng lực GQVĐ cho HS. Phân loại BTST có nhiều cách..

Razumốpxki chia BTST thành hai loại:

BT nghiên cứu đòi hỏi trả lời câu hỏi “Tại sao? ” nó tương tự

như “phát minh” trong sáng tạo khoa học.

BT thiết kế đòi hỏi trả lời câu hỏi “Làm thế nào?” nó tương tự

như “sáng chế” trong khoa học kỹ thuật.

1.2.4. Vai trò của BTST đối với việc bồi dƣỡng năng lực

giải quyết vấn đề

Thứ nhất: Khi giải các BTST, HS phải tiến hành các thao

tác phân tích bài toán, phát hiện những tình huống có vấn đề từ đó

giúp HS phát triển được khả năng phát hiện và làm rõ được vấn đề

cần nghiên cứu.

Thứ hai: Khi giải các BTST, nếu HS vận dụng một cách máy

móc các công thức, hay những phương pháp quen thuộc thì sẽ bị bế

tắc và giải sai. Từ đó cho thấy giải các BTST sẽ giúp HS phát triển

được khả năng tìm tòi, đề xuất được một số các giải pháp GQVĐ

và đồng thời lựa chọn được phương pháp tối ưu nhất để giải quyết

BT đó.

Thứ ba: Đối với một số BT cho những dữ kiện không tường

minh, để giải được BT này thì HS phải biết phát hiện ra những điều

chưa hợp lý, tự suy luận, hoàn thiện các dữ kiện còn chưa rõ ràng, tự

loại trừ những dữ kiện thừa. Nếu bài toán thiếu hoặc thừa dữ kiện thì

HS phải biết khoanh vùng, liên kết các kiến thức đã học từ đó tìm lời

9

giải xác đáng.

Thứ tư: BTST thường được xây dựng có nội dung gắn liền

với thực tế cuộc sống, có nội dung thí nghiệm nên có tác dụng phát

triển khả năng đề xuất, xây dựng, thiết kế các phương án thí nghiệm

giúp HS nhận ra được nhiều ý tưởng mới.

Thứ năm: Giải BTST sẽ làm phát triển tư duy sáng tạo của

HS và đây là vai trò quan trọng nhất của BTST nó giúp cho HS

hình thành và triển khai những ý tưởng mới trong học tập và cuộc

sống.

1.3.Thực trạng về vấn đề sử dụng bài tập sáng tạo để bồi năng

lực GQVĐ cho học sinh trong dạy học vật lý ở trƣờng phổ thông

hiệnnay

1.3.1.Đánh giá thực trạng

Qua kết quả khảo sát ở trường THPT Nguyễn Hiền và một số

trường trên TP Đà Nẵng [Phụ lục 2] cho thấy việc sử dụng BTST để

bồi dưỡng năng lực GQVĐ của HS hiện nay còn nhiều hạn chế cần

được quan tâm và giúp đỡ kịp thời để hướng tới việc giáo dục toàn

diện cho HS.

Qua phiếu điều tra về thái độ của HS đối với việc sử dụng

BTST trong dạy học bồi dưỡng NLGQVĐ, có 41,67% HS yêu thích

với việc học có sử dụng BTST. Một số ý kiến cho rằng không thích

việc học có sử dụng BTST dạy học bồi dưỡng NLGQVĐ vì đôi lúc

những tình huống thực tiễn đưa ra quá khó, trừu tượng ,không phù

hợp với nội dung bài học. Khoảng 27,50% HS cho rằng năng lực

GQVĐ được hình thành và phát triển chủ yếu trong hoạt động và

thông qua hoạt động trong khi đó có 72,50% HS lại cho rằng năng

lực có được do yếu tố bẩm sinh. Phần lớn HS chưa nắm được

phương pháp chung để giải quyết một vấn đề (có tới 56,67% HS) kỹ

năng giải quyết vấn đề của các em còn yếu và chậm. Do đó, Khi gặp

phải các vấn đề phức tạp các em thường dễ bị mất phương hướng,

không biết nên làm gì trước, làm gì sau và làm như thế nào?

Về môn vật lí, có (69,17% HS) cho rằng vật lí là môn học khô

khan, chủ yếu là học lí thuyết suông và giải bài tập, không có gì thú

vị hay cần thiết cho cuộc sống, không liên quan đến công việc sau

10

này của các em. Khi nói về sự cần thiết của năng lực GQVĐ đối với

mỗi người trong học tập cũng như trong cuộc sống hằng ngày thì có

54,17 % HS cho rằng năng lực GQVĐ không cần thiết, không có

cũng chẳng sao, nó không ảng hưởng đến kết quả học tập. Điều này

gây trở ngại rất lớn tổ chức, thu hút sự chú ý, nổ lực của các em vào

hoạt động GQVĐ.

1.3.2. Những thuận lợi và khó khăn của việc sử dụng

BTST để bồi dƣỡng năng lực giải quyết vấn đề cho HS trong dạy

học vật lý hiện nay.

* Thuận lợi

- Sự đổi mới trong chương trình giáo dục phổ thông, sự phân

hóa trình độ học sinh là một tín hiệu vui cho việc đưa BTST vào dạy học.

Các tài liệu tham khảo cho GV và HS rất đa dạng, phong phú

như: Những bài tập định tính về vật lí cấp ba của M.E. Tultrinxi, NXB

giáo dục năm 1978. Hỏi đáp vật lí 10 của Nguyễn Văn Thuận (chủ

biên) và nhóm tác giả, NXB giáo dục năm 2006…

* Khó khăn

Việc tuyển chọn, xây dựng hệ thống BTST phù hợp với nội

dung từng bài và việc thiết kế bài giảng phù hợp đòi hỏi GV phải

đầu tư khá nhiều thời gian và công sức. Trong SBT thì số lượng

BTST có nhiều hơn nhưng vẫn còn hạn chế, SBT cơ bản, số lượng

BTST chỉ chiếm khoảng 5%, còn SBT nâng cao thì tỉ lệ có cao hơn,

chiếm khoảng 10%.

Trong thi cử và kiểm tra các BT chủ yếu kiểm tra khả năng

học thuộc công thức và các BTLT . Việc dạy học hiện nay thường

chủ yếu phục vụ mục đích thi cử nên cũng góp phần dẫn đến việc

GV chưa coi BTST là thật sự cần thiết.

Công nghệ thông tin là một phương tiện có rất nhiều ưu điểm

nhưng GV chưa khai thác tốt trong DH. Hiện nay, một bộ phận lớn

GV hiện nay còn xa lạ với công nghệ thông tin, ít khi khai thác các

thông tin trên mạng hay sử dụng máy vi tính trong DHVL. Đây là

một hạn chế rất lớn, khiến cho việc đưa BTST vào DH gặp nhiều khó

khăn.

Các tài liệu hướng dẫn, tham khảo đối với việc dạy học có sử

11

dụng BTST không đủ độ tin cậy khiến cho GV gặp nhiều khó khăn

trong việc xác định sử dụng BTST như thế nào để có hiệu quả cao.

1.4. Tổ chức dạy học gắn sử dụng bài tập sáng tạo và bồi

dƣỡng năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh

1.4.1 Tổ chức hoạt động dạy học

Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là dạy học sinh thói

quen tìm tòi giải quyết vấn đề theo cách cẩu các nhà khoa học, không

những tạo nhu cầu, hứng thú học tập, giúp học sinh chiếm lĩnh được

kiến thức, mà còn phát triển được năng lực sáng tạo của học sinh.

1.4.2. Quy trình lựa chọn các bài tập sáng tạo gắn với

việc bồi dƣỡng năng lực giải quyết vấn đề trong dạy học vật lý

Để xây dựng hệ thống BTST đa dạng, phong phú góp phần

thực hiện mục tiêu giáo dục hiện nay thì BTST được xây dựng trong

một bài học hay một chương phải thỏa mãn các yêu cầu sau:

- BTST đảm bảo tính hệ thống và góp phần thực hiện mục tiêu

giáo dục.

- BTST góp phần phát triển tư duy tích cực và sáng tạo

* Qui trình xây dựng hệ thống bài tập sáng tạo trong

một bài học

Bƣớc 1: Xác định nội dung kiến thức

Bƣớc 2: Phân tích mối quan hệ giữa lí thuyết và thực hành,

kiến thức và kĩ năng.

Bƣớc 3: Thu thập thông tin để biên soạn hệ thống bài tập

Bƣớc 4: Tiến hành biên soạn bài tập

Bƣớc 5: Kiểm tra, rà soát lại nội dung bài tập

* Qui trình xây dựng hệ thống bài tập sáng tạo trong một

chƣơng

Bƣớc 1: Xác định nội dung kiến thức

Bƣớc 2: Phân tích mối quan hệ giữa lí thuyết và thực hành,

kiến thức và kĩ năng.

12

Bƣớc 3: Thu thập thông tin để biên soạn hệ thống bài tập

Bƣớc 4: Tiến hành biên soạn bài tập

Bƣớc 5: Kiểm tra, rà soát lại nội dung bài tập

1.4.3. Quy trình tổ chức dạy học theo hƣớng sử dụng bài

tập sáng tạo bồi dƣỡng năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh

Bƣớc 1: Xác định mục tiêu của bài học

Bƣớc 2: Xác định nội dung kiến thức cơ bản, trọng tâm của

mỗi bài

Bƣớc 3: Xác định phương pháp dạy học

Bƣớc 4: Dự kiến tổ chức các hoạt động dạy học

Bƣớc 5: Lựa chọn BT liên quan trong hệ thống BTST

Bƣớc 6: Xác định hình thức củng cố và tập vận dụng các kiến

thức mà học sinh vừa tiếp nhận, giao nhiệm vụ về nhà

Bƣớc 7: Thiết kế giáo án và xây dựng bài giảng sử dụng

BTST đã chọn

Kết luận chƣơng 1

Trong chương này chúng tôi đã tập trung nghiên cứu và làm rõ

những vấn đề sau:

- Làm rõ được các khái niệm năng lực và năng lực giải quyết vấn

đề, khái niệm về BTST, đặc điểm và phương pháp giải BTST vị trí

và vai trò của BTST trong DHVL.

- Chúng tôi làm rõ qui trình lựa chọn và tổ chức dạy học sử dụng

BTST nhằm bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh.

- Nêu rõ những thuận lợi và khó khăn trạng DH có sử dụng BTST

trong thực tế trường THPT hiện nay.

- Trình bày rõ sự cần thiết khi sử dụng BTST trong DHVL, cũng

như đưa ra những quan điểm riêng về sự hiệu quả, lợi ích trong

DH có sử dụng BTST nhằm bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề cho

học sinh trong DHVL hiện nay.

13

Đây là những cơ sở lí luận soi đường cho chúng tôi trong

việc đề ra các biện pháp phù hợp nhằm phát triển NLGQVĐ cho HS

qua việc sử dụng các bài tập sáng tạo.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!