Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Biểu tượng “trời - đất” trong ca dao, tục ngữ người việt.
PREMIUM
Số trang
75
Kích thước
704.3 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1339

Biểu tượng “trời - đất” trong ca dao, tục ngữ người việt.

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA NGỮ VĂN

----------------

KHÓA LUÂN T ̣ ỐT NGHIÊP ĐẠI HỌC ̣

NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Đề tài:

BIỂU TƯỢNG “TRỜI – ĐẤT” TRONG CA DAO, TỤC

NGỮ NGƯỜI VIỆT

Người hướng dẫn:

TS Lê Đức Luận

Người thực hiện:

Lê Thị Thu Trang

Đà Nẵng, tháng 5/2013

2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới từ hàng ngàn năm trước đây

đã nảy sinh, phát triển và lưu truyền các sáng tác ngôn từ của quần chúng nhân

dân. Trải qua nhiều biến động của lịch sử văn học, ngày nay các nhà nghiên cứu

gọi các sáng tác dân gian bằng thuật ngữ “Văn học dân gian”. Cuộc sống vốn là

dòng chảy vô cùng tận, con người ta chỉ là một hạt cát nhỏ bé khi đứng trước vũ

trụ mênh mông, vì thế nhiều khi ta chỉ mải miết trốn chạy cái chết mà quên mất

mình đang sống. Tìm đến về với văn học dân gian, ta cho mình những phút giây

ngừng nghỉ trên đường đời, để được tiếp thêm sức lực, để thu nhận kiến thức làm

hành trang cho con đường phía trước.

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao, tục ngữ là những viên

ngọc sáng. Nó thể hiện tâm tư, tình cảm, nguyện vọng cũng như những kinh

nghiệm sống của ông cha. Đến với ca dao, tục ngữ, là ta đến với thế giới lung

linh sắc màu, ở đó ta được ngụp lặn trong nền văn hóa dân gian, ta bắt gặp

những đều giản dị nhưng lại là chân lí của cuộc sống, và để rồi ta tìm thấy mình

đâu đó giữa dòng chảy của văn hóa Việt.

Ca dao, tục ngữ là vùng đất mà ở đó chỉ với những chất liệu bình thường từ

cuộc sống, những người lao động tài hoa đã gieo trồng những biểu tượng được

cả cộng đồng chấp nhận. Có thể nói biểu tượng trong ca dao, tục ngữ là một sáng

tạo độc đáo của các tác giả dân gian, nó thể hiện quan niệm thẩm mĩ, tư tưởng

của nhân dân ta. Đến với thế giới biểu tượng trong ca dao, tục ngữ để ta biết rằng

có những giá trị không bao giờ tan biến, con người và sự vật nói chung, một khi

đã xuất hiện trên thế gian, bằng cách này hay cách khác đều sẽ để lại dấu ấn của

mình.

Qua việc tìm hiểu bước đầu, chúng tôi nhận thấy thế giới biểu tượng trong

ca dao, tục ngữ thật sự rất cuốn hút. Đặc biệt là biểu tượng “trời - đất”. Trong số

3

những tài liệu mà chúng tôi bao quát được từ trước đến nay, chúng tôi nhận thấy

chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Vì thế để có thể hiểu sâu hơn ý

nghĩa của biểu tượng nói chung và đặc biệt là ý nghĩa của biểu tượng “trời - đất”

trong ca dao tục ngữ nói riêng, chúng tôi chọn đề tài: Biểu tượng “trời - đất”

trong ca dao, tục ngữ người Việt.

2. Lịch sử vấn đề

Văn học dân gian mang vẻ đẹp bình dị nhưng lại có sức hút kỳ diệu, từ lâu

các nhà nghiên cứu đã ưu ái đối với nền “văn học mẹ” này và dành nhiều tâm

huyết cho nó. Trong văn học dân gian thì ca dao, tục ngữ là hai mảng thành công

nổi trội của các tác giả dân gian. Vì thế, ca dao, tục ngữ là một phần không thể

thiếu trong các công trình nghiên cứu về văn học dân gian nói chung, bên cạch

đó còn có các công trình đi sâu nghiên cứu riêng ca dao, tục ngữ. Ngoài các công

trình có tính chất sưu tầm thì có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như:

Cuốn “Vũ Ngọc Phan tác phẩm” (tập 3) do nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn

hành là tập hợp công trình của Vũ Ngọc Phan về tục ngữ, ca dao, dân ca Việt

Nam được biên soạn lại. Đến với “Vũ Ngọc Phan tác phẩm” (tập 3) là đến với

thế giới của văn học dân gian Việt Nam, ở đó không chỉ ghi lại những câu tục

ngữ, những bài ca dao, dân ca tiêu biểu mà ta còn bắt gặp những nhận xét tinh tế,

những kiến thức bổ ích về văn học dân gian Việt Nam.

Cuốn “Thi pháp ca dao” của tác giả Nguyễn Xuân Kính là một công trình

nghiên cứu về ca dao dưới góc độ của thi pháp học. Công trình này là kết quả

của quá trình học tập và nghiên cứu nhiều năm của tác giả. Đây là công trình

nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, công phu về thi pháp ca dao từ trước đến nay.

Về phần biểu tượng trong ca dao, tác giả cũng nêu một số biểu tượng, hình ảnh

thường xuyên xuất hiện trong ca dao như: cây trúc, cây mai, hoa nhài, con bống,

con cò. Theo tác giả, trúc, mai thường được dùng với ý nghĩa tượng trưng cho

đôi bạn trẻ, cho tình duyên, hoa nhài trong ca dao được hiểu là một thứ hoa đẹp,

hoa quý. Biểu tượng con bống, con cò trong ca dao cũng được tác giả đi sâu tìm

4

hiểu, về con cò tác giả cho rằng: “Trong kho tàng ca dao người Việt có hai bộ

phận nhắc đến con cò. Ở bộ phận thứ nhất, như Vũ Ngọc Phan quan niệm, con

cò là hình ảnh của người nông dân xưa. Những lời thuộc bộ phận thứ hai là loại

ca dao thanh mà tục, tục mà thanh. Trong những lời đó, con cò không phải là

hình ảnh của người nông dân, cũng không phải là phong kiến thống trị” [6,

tr.214]. Ở phần kết luận, tác giả đã nêu những ý kiến gây được sự chú ý nơi

người đọc, trong đó có ý kiến cho rằng: “Tuy cùng xây dựng các biểu tượng trên

cơ sở là hiện thực khách quan nhưng nhiều ý nghĩa của các biểu tượng trong ca

dao khác hẳn so với thơ bác học…” [6, tr.234].

Cuốn “Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt” của tác giả Lê Đức Luận, ở

công trình này tác giả đã di sâu nghiên cứu về cấu trúc của ca dao trữ tình. Ở

phần nội dung, tác giả đã lần lượt trình bày: cấu trúc ngôn ngữ và đặc trưng cấu

trúc ngôn ngữ trong ca dao; hệ thống đơn vị ngôn liệu tạo lời trong ca dao trữ

tình; phương thức tạo lời trong ca dao trữ tình. Công trình này của tác giả Lê

Đức Luận đã cho ta một cách tiếp cận khá thú vị, đồng thời giúp ta hiểu hơn giá

trị, những nét đẹp văn hóa của ca dao trữ tình người Việt. Trong phần kết luận

tác giả khẳng định: “Ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ thuần Việt, mang đậm phong

cách phong cách ngôn ngữ địa phương, gắn liền với phong tục tập quán khu vực

dân cư, còn lưu giữ nhiều yếu tố cổ. Ngôn ngữ ca dao cũng là ngôn ngữ của biểu

tượng, ngôn ngữ giàu hình ảnh và hình tượng, giàu tính biểu cảm và đa nghĩa”

[12, tr.306].

Cuốn “Ca dao Việt Nam và những lời bình” do tác giả Vũ Thu Hương

tuyển chọn đã tập hợp những công trình nghiên cứu được đánh giá cao của nhiều

tác giả, qua đó làm rõ những điểm nổi bật của ca dao rồi đi đến những bài ca dao

tiêu biểu. Trong bài viết “Từ những chất liệu bình thường trong đời sống dân dã,

ca dao đã tạo nên những hình tượng xúc động” tác giả Minh Hiệu đã nhận xét:

“Ca dao thường rất ngắn: có khi toàn bài lại chỉ có một câu lục bát, đâu còn chỗ

để từ số lượng mà tạo chất lượng? Nhưng cũng chính vì khuôn khổ rất hạn hẹp

5

như vậy mà bản thân ca dao càng cần phải lấy hình tượng điển hình hóa làm cứu

cánh” [10, tr.76]. Tác giả Trương Thị Nhàn trong bài viết: “Giá trị biểu trưng

nghệ thuật của các vật thể nhân tạo trong ca dao cổ truyền Việt Nam” đã cho ta

một cái nhìn khái quát về thế giới vật thể nhân tạo trong ca dao cũng như cơ chế

hình thành nghĩa biểu trưng nghệ thuật của các vật thể nhân tạo trong ca dao.

Tác giả kết luận: “Khản năng biểu trưng hóa nghệ thuật của các vật thể nhân tạo

trong ca dao góp phần tạo nên một nét đặc trưng rất cơ bản trong nghệ thuật

ngôn ngữ của ca dao: ngôn ngữ nghệ thuật ca dao mang tính khái quát cao điển

hình của tính hàm súc và “ý tại ngôn ngoại” trong những sáng tác văn học. [10,

tr.121].

Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu khác như: “Văn học dân gian

Việt Nam” của tác giả Đinh Gia Khánh (chủ biên); “Tìm hiểu thi pháp tục ngữ

Việt Nam” của tác giả Phan Thị Đào; “Văn học dân gian người Việt góc nhìn thể

loại” của tác giả Kiều Thu Hoạch… Đến đây, ta có thể thấy việc nghiên cứu văn

học dân gian Việt Nam, đặc biệt là ca dao, tục ngữ đã được nhiều nhà nghiên

cứu quan tâm và gặt hái được không ít thành quả. Tuy nhiên, việc nghiên cứu

chuyên về biểu tượng “trời - đất” trong ca dao, tục ngữ lại là cánh cửa đang còn

bỏ ngõ. Từ thành tựu của các công trình nghiên cứu đi trước và niềm đam mê

với văn học dân gian, chúng tôi xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: Biểu tượng

“trời - đất” trong ca dao, tục ngữ người Việt.

3. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về biểu tượng trời đất trong ca dao, tục ngữ, trước hết chúng tôi

muốn nắm bắt được ý nghĩa của biểu tượng “trời - đất” và qua đó có cứ liệu để

hiểu sâu sắc hơn về thế giới biểu tượng trong ca dao, tục ngữ. Tiếp cận đề tài với

cái nhìn khoa học, chúng tôi muốn bạn đọc có thể thấy được vẻ đẹp văn hoá Việt

thông qua lớp trầm tích biểu tượng trong ca dao, tục ngữ.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4. 1. Đối tượng

6

Đối tượng nghiên cứu của công trình này là biểu tượng “trời - đất” trong

ca dao, tục ngữ.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi đi vào tìm hiểu một số biểu tượng tiêu

biểu trong ca dao, tục ngữ để có thể thấy được nét đặc sắc của biểu tượng nói

chung, qua đó, đi sâu tìm hiểu biểu tượng “trời - đất”, nắm bắt được ý nghĩa và

giá trị của biểu tượng “trời - đất” trong ca dao, tục ngữ.

5. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn

Công trình nghiên cứu khoa học này sẽ làm rõ biểu tượng “trời - đất” trong

ca dao, tục ngữ và những giá trị của nó đối với nền văn học dân gian. Dù còn

khiêm tốn về tri thức nhưng cũng mong công trình nghiên cứu này có thể góp

phần phát hiện thêm những nét đẹp của biểu tượng trong kho tàng văn học dân

gian Việt Nam nói chung và ca dao, tục ngữ nói riêng, đồng thời có thể là tư liệu,

làm điểm tựa các công trình nghiên cứu về sau.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp

trong đó có ba phương pháp cơ bản được sử dụng:

- Phương pháp thống kê, phân loại.

- Phương pháp phân tích, đánh giá.

- Phương pháp so sánh, tổng hợp.

7. Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, đề tài gồm ba chương:

Chương 1: Khái quát về biểu tượng và biểu tượng trong ca dao, tục ngữ

người Việt

Chương 2: Đặc trưng của biểu tượng “trời - đất” trong ca dao, tục ngữ

người Việt

Chương 3: Thi pháp thể hiện biểu tượng “trời - đất” trong ca dao, tục ngữ

người Việt

7

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ BIỂU TƯỢNG VÀ BIỂU TƯỢNG TRONG CA DAO,

TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT

1.1. Khái niệm biểu tượng và các loại biểu tượng

1.1.1. Khái niệm biểu tượng

Mỗi dân tộc tồn tại trên thế giới đều có những đặc sắc riêng về văn hoá và

yếu tố tạo nên sắc diện văn hoá chính là các biểu tượng. Các biểu tượng góp

phần làm nên bộ mặt của một nền văn hóa ở những đường nét cơ bản nhất,

những ý nghĩa hàm ẩn mà biểu tượng khơi gợi ra như một quy ước thẩm mỹ của

cộng đồng. Nghiên cứu biểu tượng trong văn học là hành trình khám phá con

đường trở về cội nguồn văn hoá cũng là cuộc hành trình tìm kiếm những giá trị

chân, thiện, mỹ của dân tộc. Về khái niệm biểu tượng, có một số nhà nghiên cứu

đã đưa ra những ý kiến, định nghĩa như sau:

Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ Điển thuật

ngữ văn học thì: “Trong nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống

bằng hình tượng của văn học nghệ thuật. Còn trong nghĩa hẹp, biểu tượng là một

phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặc

biệt có khản năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện

tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa

về con người và cuộc đời” [18, tr.24].

Nguyễn Xuân Kính trong Thi pháp ca dao quan niệm: “biểu tượng là hình

ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thể hiện quan điểm thẩm mĩ, tư tưởng của

từng nhóm tác giả (có khi của riêng một tác giả), từng thời đại, từng dân tộc và

từng khu vực cư trú ” [6, tr.185].

Như vậy, có thể thấy rằng các định nghĩa trên đều có một quan điểm khá

chung và thống nhất về biểu tượng. Tóm lại, có thể hiểu biểu tượng là một loại

hình ảnh nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!