Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Biển Đông: Quản lý tranh chấp và định hướng giải pháp
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BIỂN ĐÔNG:
QUẢN LÝ TRANH CHẤP VÀ
ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP
2
3
TS. Đặng Đình Quý - Nguyễn Minh Ngọc
(Đồng chủ biên)
BIỂN ĐÔNG:
QUẢN LÝ TRANH CHẤP VÀ
ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP
4
Các bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả chứ không phản ánh quan điểm của các cơ
quan, tổ chức nơi tác giả đang công tác, cũng như quan điểm của chủ biên và nhà xuất bản.
ISBN: 978-604-77-0797-3
5
MỤC LỤC
Lời giới thiệu .................................................................................................................. 7
TS. Đặng Đình Quý
ThS. Nguyễn Minh Ngọc
Chương I: NHỮNG ĐÁNH GIÁ VỀ DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG ....... 13
1. TÍNH LIÊN TỤC VÀ SỰ THAY ĐỔI TRONG DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH
Ở BIỂN ĐÔNG ...................................................................................................... 15
PGS. Alice Ba và TS. Ian Storey
2. CĂNG THẲNG HAY HÒA DỊU TRONG TRANH CHẤP
Ở BIỂN ĐÔNG....................................................................................................... 45
NCS. Hà Anh Tuấn
3. QUÁ TRÌNH CHIẾM ĐOẠT BIỂN ĐÔNG CỦA TRUNG QUỐC
THÔNG QUA VIỆC HIỆN THỰC HÓA ĐƯỜNG CHÍN ĐOẠN.............. 67
Tướng (nghỉ hưu) Daniel Schaeffer
4. SỰ THAY ĐỔI CHIẾN THUẬT CỦA TRUNG QUỐC
TRÊN BIỂN ĐÔNG.............................................................................................. 75
Stephanie Kleine-Ahlbrandt
Chương II: CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ QUỐC TẾ Ở BIỂN ĐÔNG ............................... 83
5. BIỂN ĐÔNG TRÊN KHÍA CẠNH PHÁP LÝ................................................... 85
ĐS. Hasjim Djalal
6. PHÂN ĐỊNH TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN: CÁC YÊU SÁCH
QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI “CẤU TRÚC ĐẤT” Ở BIỂN ĐÔNG................ 91
Đại tá Hải quân Azhari Abdul Aziz
7. VAI TRÒ CỦA QUY CHẾ VỀ CÁC THỰC THỂ ĐỊA LÝ XA BỜ
ĐỐI VỚI CÁC YÊU SÁCH VÙNG BIỂN Ở BIỂN ĐÔNG ........................... 99
GS. Robert Beckman
8. VÌ SAO “QUYỀN LỊCH SỬ” BỊ CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982
ĐƯA VÀO LỊCH SỬ? .......................................................................................... 121
TS. Nguyễn Thị Lan Anh
9. “NGHĨA VỤ” HỢP TÁC CỦA CÁC QUỐC GIA
TRONG VÙNG BIỂN KÍN HOẶC NỬA KÍN .............................................. 135
GS. Erik Frankx và Marco Benatar
Mục lục
6
Chương III: HỢP TÁC, QUẢN LÝ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRÊN BIỂN ĐÔNG ............................................................................................ 149
10. PHỨC TẠP TRÊN BIỂN ĐÔNG:
NHÌN TỪ QUÁ KHỨ TỚI TƯƠNG LAI ........................................................ 151
TS. Mark Valencia
11. BIỂN ĐÔNG: MƯỜI LẦM TƯỞNG VÀ MƯỜI SỰ THẬT ......................... 163
ĐS. Rodolfo Severino
12. QUẢN LÝ HOẶC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP BIÊN GIỚI BIỂN
Ở BIỂN ĐÔNG: NHỮNG THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI............................. 173
TS. Richard P. Cronin và Zachary Dubel
13. VIỆC THỰC THI HIỆP ĐỊNH HỢP TÁC NGHỀ CÁ
GIỮA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM:
GÓC NHÌN TỪ TRUNG QUỐC..................................................................... 191
GS. Yao Huang và Mingming Huang
14. BẢO TỒN VÀ QUẢN LÝ CHUNG NGUỒN TÀI NGUYÊN HẢI SẢN
Ở BIỂN ĐÔNG: NHỮNG THỂ CHẾ HIỆN HÀNH,
CÁC THÔNG LỆ QUỐC GIA VÀ CÁC ĐỀ XUẤT HỢP TÁC .................. 223
GS. Yann-huei Song
15. HỢP TÁC Ở BIỂN ĐÔNG: TỪ QUẢN LÝ TRANH CHẤP
ĐẾN QUẢN TRỊ ĐẠI DƯƠNG......................................................................... 245
TS. Nguyễn Đăng Thắng
Phụ lục: Tiểu sử tác giả ...................................................................................................... 259
7
LỜI GIỚI THIỆU
TS. Đặng Đình Quý - Giám đốc Học viện Ngoại giao
ThS. Nguyễn Minh Ngọc - Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Tư liệu,
Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao
Các bài viết trong cuốn sách thứ nhất “Biển Đông: Địa chính trị, Lợi ích, Chính
sách và Hành động của Các bên liên quan” cho thấy một thực tế rằng giá trị địa chiến
lược của Biển Đông và cuộc đua giành tài nguyên, ảnh hưởng ở Châu Á-Thái Bình
Dương đã làm gia tăng cọ xát và va chạm giữa các quốc gia, đặc biệt là giữa các nước
lớn. Những toan tính vị kỷ khiến tranh chấp Biển Đông ngày càng trở nên phức tạp
hơn và khó giải quyết bởi sự nghi kỵ lẫn nhau và chuỗi hành động-phản ứng diễn ra
liên tục. Việc thường xuyên đánh giá lại tình hình để tìm ra không gian hợp tác, giảm
thiểu căng thẳng, đồng thời phân tích các khía cạnh pháp lý của vấn đề Biển Đông có
thể đưa ra những gợi ý hữu ích cho việc giải quyết tranh chấp. Đây là nội dung trọng
tâm của cuốn sách thứ hai “Biển Đông: Quản lý tranh chấp và Định hướng giải pháp”,
được biên soạn trên cơ sở tập hợp tham luận của các đại biểu tham dự Hội thảo Khoa
học quốc tế lần thứ tư “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực” do
Học viện Ngoại giao phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam tổ chức từ ngày 19-21/11/2012
tại TP. Hồ Chí Minh.
Cuốn sách được chia làm ba chương. Chương Một “Những đánh giá về diễn biến
tình hình Biển Đông” cung cấp những nhận định đa chiều của các học giả về những
phát triển mới trong tranh chấp Biển Đông. Bài viết của PGS. Alice D. Ba (Đại học
Delaware, Mỹ) và TS. Ian Storey (Nghiên cứu viên cao cấp, Viện Nghiên cứu Đông Nam
Á, Singapore) tập trung xem xét những diễn biến ở Biển Đông trong năm 2012 để chỉ ra
những nét liên tục và thay đổi trong tình hình so với các năm trước. Hai tác giả kết luận
rằng nhìn chung các tác nhân gây ra xung đột vẫn không thay đổi, đó là (i) nỗ lực tăng
cường yêu sách của các bên tranh chấp; (ii) cạnh tranh tài nguyên biển và (iii) các yếu tố
chính trị nội bộ và chủ nghĩa dân tộc. Những nhân tố này đã tác động trực tiếp đến tình
hình trong năm 2012, dẫn đến cuộc đối đầu nhiều tháng giữa Trung Quốc-Philippines
tại bãi cạn Scarborough và sự thất bại của ASEAN trong việc đưa ra Thông cáo chung
tại Hội nghị Ngoại trưởng tháng 7/2012 do những bất đồng về Biển Đông. Nhiều khả
TS. Đặng Đình Quý và ThS. Nguyễn Minh Ngọc
8
năng tình hình các năm tới vẫn diễn ra theo chiều hướng tiêu cực, với đặc trưng là các
chuỗi hành động-đáp trả vì dù ASEAN-Trung Quốc có khởi động đàm phán Bộ Quy
tắc ứng xử thì đây chắc chắn là một quá trình rất dài để đi đến thống nhất được về nội
dung chi tiết.
Cũng phân tích các diễn biến tình hình trong năm 2012, NCS. Hà Anh Tuấn
(Trường Khoa học Xã hội, Đại học New South Wales, Úc) cho rằng số lượng các vụ
tranh cãi, đối đầu có xu hướng giảm đi từ tháng 7/2012. Nguyên nhân chính là sự thay
đổi hành vi của Trung Quốc, bắt nguồn bốn nhân tố sau: thứ nhất, phản ứng mạnh
mẽ từ cộng đồng quốc tế và khu vực khiến lãnh đạo Trung Quốc nhận ra rằng cách
tiếp cận quá hung hăng trong tranh chấp Biển Đông có thể không có lợi cho chính
Trung Quốc và tìm các biện pháp xoa dịu. Thứ hai, sau thời kỳ mở rộng, Trung Quốc
chuyển sang củng cố yêu sách bởi nó ít mang tính khiêu khích hơn. Thứ ba, căng
thẳng nổ ra với Nhật Bản trên quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư khiến Trung Quốc phần
nào hành xử ôn hòa hơn ở Đông Nam Á để tránh phải đối đầu ở cả Biển Đông và Hoa
Đông. Thứ tư, Trung Quốc bước vào giai đoạn chuyển giao lãnh đạo nên cần một môi
trường ổn định để quá trình này diễn ra suôn sẻ. Những phân tích trên càng làm rõ
thực tế rằng hành xử của Trung Quốc là nhân tố quan trọng nhất quyết định nhiệt độ
của tranh chấp Biển Đông.
Về yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc, Tướng (nghỉ hưu) Daniel Schaeffer
(Viện Nghiên cứu Châu Á 21, Pháp) nhận định rằng những diễn biến trong năm 2011-
2012 cho thấy Trung Quốc đang dần hiện thực hóa đường này bằng nhiều biện pháp
khác nhau như: gây áp lực lên các công ty dầu khí nước ngoài có hợp đồng với Việt
Nam hay Philippines, chèn ép và bắt giữ ngư dân các nước, củng cố các biện pháp hành
chính như thành lập thành phố cấp đặc khu Tam Sa, và công khai hóa bản đồ đường
chín đoạn… Theo đánh giá của Tướng Schaeffer, sở dĩ Trung Quốc kiên quyết như vậy
đối với yêu sách đường chín đoạn, ngoài tham vọng về dầu và cá thì nguyên nhân sâu xa
hơn chính là bảo đảm lối ra an toàn tuyệt đối cho các tàu ngầm hạt nhân chiến lược từ
căn cứ Tam Á ở đảo Hải Nam. Đây có thể gọi là “học thuyết Monroe kiểu Trung Quốc”
bởi nước này đang muốn biến Biển Đông thành “nơi trú ẩn” hay “pháo đài” cho các tàu
ngầm hạt nhân của mình.
Trong bài viết của mình, Stephanie Kleine-Ahlbrandt (Giám đốc Dự án Đông Bắc Á
và cố vấn về Trung Quốc của Nhóm Khủng hoảng Quốc tế, ICG) đã chỉ ra ba xu hướng
trong cách tiếp cận đối với tranh chấp biển của Trung Quốc. Xu hướng thứ nhất là sự
phối hợp chặt chẽ hơn trong bộ máy hành chính cồng kềnh bao gồm nhiều cơ quan
được hưởng lợi trực tiếp từ những căng thẳng ở Biển Đông, và điều đó góp phần tăng
cường sự hiện diện của Trung Quốc trên Biển Đông. Xu hướng thứ hai là Trung Quốc
ngày càng trở nên quả quyết hơn đối với tranh chấp lãnh thổ, thường viện cớ là do hành
động của các bên tranh chấp nhằm triển khai các biện pháp làm thay đổi nguyên trạng
theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Cuối cùng, Trung Quốc ngày càng tỏ ra sẵn sàng sử
dụng sức mạnh quân sự, chính trị và kinh tế để chia rẽ các nước Đông Nam Á. Về lâu
dài, giải pháp cho Biển Đông sẽ phụ thuộc vào tầm nhìn của lãnh đạo mới Trung Quốc
Tập Cận Bình, nhưng bản thân các bên trong khu vực cũng cần tìm ra một cơ chế giảm
Lời giới thiệu
9
nhẹ hoặc hạn chế khả năng leo thang xung đột ngay cả khi chưa thống nhất được về
biện pháp tổng thể giải quyết tranh chấp.
Chương Hai “Các vấn đề pháp lý quốc tế ở Biển Đông” tập trung vào những vấn đề
gây tranh cãi nhất hiện nay trên phương diện pháp lý. Bài viết của ĐS. Hasjim Djalal
(Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Indonesia) giới thiệu một cái nhìn
khái quát như đâu là những vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, đâu là những bên tranh
chấp và có những công cụ pháp lý nào để giải quyết tranh chấp. Qua nghiên cứu các
cơ chế hiện nay đang xử lý vấn đề Biển Đông, ĐS. Djalal kết luận rằng việc đưa ra các
chương trình hợp tác về những vấn đề “khoa học và kỹ thuật” tương đối dễ dàng hơn
so với việc giải quyết các vấn đề “nguồn tài nguyên” và càng khó khăn hơn để giải quyết
các vấn đề về quyền tài phán và yêu sách lãnh thổ.
Đại tá Hải quân Azhari Abdul Aziz (Cục trưởng Cục Pháp lý, Hải quân Hoàng gia
Malaysia) nỗ lực giải đáp ba câu hỏi trong bài viết của mình: (i) quốc gia nào sở hữu
hoặc có chủ quyền đối với các đảo tranh chấp ở Biển Đông? (ii) các đảo đó có tạo ra
thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế không và (iii) chúng tác động như thế nào đến
việc phân định biên giới biển giữa các quốc gia liền kề và các quốc gia khác? Dựa trên
việc nghiên cứu án lệ đã và đang phát triển trong hơn tám thập kỷ qua và qua hai vụ
việc cụ thể đã được đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế là Sipadan-Ligitan (2002) và Pedra
Branca (2008), tác giả cho rằng cơ sở để xác định quyền sở hữu đối với đảo là các nước
phải kiểm soát đảo hiệu quả, thực hiện quyền chủ quyền một cách hòa bình, liên tục
và được công nhận, quản lý về mặt hành chính, thực thi các hoạt động lập pháp và tư
pháp trong một khoảng thời gian và được biết đến rộng rãi là có chiếm hữu hiệu quả.
Bài viết của GS. Robert Beckman (Giám đốc Trung tâm Luật Quốc tế, Đại học Quốc
gia Singapore) phân tích địa vị pháp lý của các hình thái địa chất ngoài khơi Biển Đông
(như đảo, đảo đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm, bãi chìm và các công trình/ đảo nhân tạo)
bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định quyền và quyền tài phán đối với tài nguyên
ở Biển Đông. GS. Beckman kết luận rằng theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
1982 (UNCLOS) và phán quyết của các tòa án quốc tế, chủ quyền chỉ có thể được yêu
sách từ lãnh thổ đất liền và đảo; bãi cạn lúc chìm lúc nổi và bãi chìm không phải là đối
tượng yêu sách chủ quyền. Tùy theo vị trí của chúng, các thực thể chìm và bãi cạn lúc
chìm lúc nổi sẽ được điều chỉnh bởi các phần khác nhau trong UNCLOS. Một nhận
định quan trọng khác của ông là cho đến nay, các quốc gia ít có tiển triển trong việc giải
quyết quy chế pháp lý của các thực thể xa bờ bởi nếu đúng theo quy định của UNCLOS,
chỉ có khoảng 30% thực thể ở Trường Sa đáp ứng tiêu chuẩn định nghĩa về đảo.
TS. Nguyễn Thị Lan Anh (Phó Trưởng khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao Việt
Nam) xem xét giá trị của quyền lịch sử trong bối cảnh luật quốc tế đã có những quy
định rõ ràng về phạm vi và giới hạn của quyền của các quốc gia ven biển trong Công
ước Luật Biển năm 1982. Theo TS. Lan Anh, xét trên số lượng hạn chế các thực tiễn
quốc gia và án lệ của tòa án quốc tế về quyền lịch sử, để thiết lập được quyền này các
quốc gia ít nhất phải đáp ứng được các yêu cầu ngặt nghèo về thực thi quyền lịch sử
trong một thời gian lâu dài và được sự công nhận của các quốc gia hữu quan. Vì thế,
quyền lịch sử mới chỉ được thiết lập ở quyền đánh cá thủ công và truyền thống. Cùng
TS. Đặng Đình Quý và ThS. Nguyễn Minh Ngọc
10
với sự phát triển của luật biển quốc tế, đa số các quyền lịch sử hiện nay đã được thay
thế bởi quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền
kinh tế; quyền lịch sử nếu có cũng phải nhường hiệu lực cho các quyền mà Công ước
Luật Biển 1982 đã quy định cho quốc gia ven biển. Vì vậy, yêu sách biển rộng lớn của
Trung Quốc đối với vùng nước nằm trong đường chín đoạn, dựa trên thực tiễn biển
chưa lâu dài và vượt quá phạm vi của quyền lịch sử, chưa từng được các quốc gia hữu
quan công nhận đã đi ngược lại các quy định của Công ước 1982 và do đó không thể là
cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách các vùng biển ở Biển Đông.
Bài viết của GS. Erik Franckx (Thành viên Tòa Trọng tài thường trực, Trưởng Khoa
Luật Quốc tế và Luật Châu Âu, Đại học Vrije Brussel, Bỉ) và TS. Marco Benatar (Quỹ
Nghiên cứu Flanders, Thành viên Khoa Luật Quốc tế và Luật Châu Âu, Đại học Vrije
Brussel, Bỉ) nghiên cứu nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia tiếp giáp những vùng biển kín
hay nửa kín như trong quy định của Điều 123 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
1982 và xem xét khả năng áp dụng của nó cho Biển Đông. Hai tác giả lập luận rằng Điều
123 của Công ước 1982, được giải thích với những kỹ thuật diễn giải của Công ước Viên
về Luật điều ước quốc tế, không phải là một nguồn độc lập tạo nên các nghĩa vụ đầy đủ
yêu cầu các quốc gia ven biển kín/ nửa kín hợp tác vì một số điều khoản chỉ mang tính
đề nghị. Điều này càng làm tăng thêm rủi ro cho các vùng biển, bao gồm Biển Đông,
hơn trong bối cảnh cạnh tranh tài nguyên và tình trạng ô nhiễm có xu hướng tăng lên.
Chương Ba “Hợp tác, quản lý và giải quyết tranh chấp trên Biển Đông” đánh giá các
điều kiện, thách thức, cơ hội cho việc hợp tác quản lý Biển Đông và thảo luận một số
mô hình cụ thể. TS. Mark J. Valencia (Nghiên cứu viên cao cấp, Viện Nautilus, Mỹ) nhìn
lại những phức tạp ở Biển Đông từ quá khứ đến hiện tại để dự báo các kịch bản trong
tương lai. Ông cho rằng tương lai chính trị của Biển Đông có khả năng nằm đâu đó
giữa hai kịch bản xấu nhất là đối đầu Mỹ-Trung và kịch bản tốt nhất là Trung Quốc và
ASEAN thỏa thuận được một Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) ràng buộc. Trong khi đó, một
số tình huống có thể dẫn đến xung đột nghiêm trọng như sự can thiệp của Trung Quốc
vào hoạt động khai thác dầu khí của vùng thềm lục địa do Việt Nam và Philippines yêu
sách hoặc đối đầu giữa tàu tình báo Mỹ và Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế
của Trung Quốc. Vì vậy, bên cạnh việc tiếp tục các nỗ lực hướng tới COC, TS. Valencia
cho rằng các nước nên tìm ra các biện pháp quản lý xung đột tạm thời như tạm dừng
các hoạt động thu thập tình báo mang tính chất khiêu khích trong khu vực tranh chấp,
phi quân sự hóa tại các thực thể đảo và một số cơ chế tạm thời nhằm giải quyết các
tranh chấp nghề cá hay ít nhất là thỏa thuận về cách thức cư xử có đi có lại khi một quốc
gia đối mặt với tình huống vi phạm nội luật tại khu vực tranh chấp…
Bài viết của ĐS. Rodolfo Severino (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ASEAN, Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore) chỉ ra mười điều lầm tưởng thường thấy trong
tranh chấp Biển Đông và cố gắng làm rõ những câu chuyện này. Ông cho rằng một số
câu chuyện ảo tưởng có nguồn gốc từ tình cảm chủ nghĩa dân tộc tại các quốc gia nơi
nó hình thành, bất chấp sự thật và thực tế của vấn đề và do đó, tranh chấp chủ quyền và
quyền tài phán ở Biển Đông không thể sớm được giải quyết bởi sự chi phối của các lực
lượng chính trị trong nước, cản trở con đường thỏa hiệp của các quốc gia. Tuy nhiên,
Lời giới thiệu
11
ĐS. Severino cũng khẳng định rằng để bàn và tìm hướng ra cho những rối rắm ở Biển
Đông, bắt buộc tất cả chúng ta phải hiểu rõ những thực tế này.
TS. Richard P. Cronin (Giám đốc chương trình Đông Nam Á, Trung tâm Stimson,
Mỹ) và Zachary Dubel (Nghiên cứu viên, Trung tâm Stimson, Mỹ) đánh giá những trở
ngại và thời cơ cho việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Mặc dù còn nhiều khó khăn
tồn tại nhưng hai tác giả cho rằng vẫn còn nhiều lợi ích chung khiến Trung Quốc và các
nước nếu muốn có thể tìm ra cơ hội thỏa hiệp, đó là tránh để bế tắc cản trở việc tiếp tục
thăm dò và khai thác dầu, quản lý các nguồn cá đang bị cạn kiệt một cách nghiêm trọng
và tránh sử dụng vũ lực bởi sẽ không bên nào có lợi. Vì thế, các nước liên quan cần nỗ
lực theo đuổi các giải pháp chính thức và không chính thức để quản lý tranh chấp và
ASEAN cần duy trì một lập trường thống nhất hướng tới Bộ Quy tắc Ứng xử.
Bài viết GS. Yao Huang (Phó Trưởng khoa Luật, Đại học Tôn Trung Sơn, Quảng
Châu, Trung Quốc) và Mingming Huang (Đại học Tôn Trung Sơn, Quảng Châu, Trung
Quốc) nghiên cứu Hiệp định hợp tác nghề cá Việt Nam – Trung Quốc với tư cách là một
công cụ hợp pháp quan trọng để quản lý, bảo tồn và sử dụng nguồn lợi hải sản trong khu
vực Vịnh Bắc Bộ. Nhìn chung, Hiệp định đã đem lại rất nhiều kết quả tích cực như tăng
cường hợp tác giữa hai nước, giảm bớt đáng kể các xung đột về nghề cá, chia sẻ và khai
thác nguồn lợi hải sản một cách hòa bình... So sánh với việc thực thi Hiệp định Nghề cá
giữa Trung Quốc và Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc, thì Hiệp định Nghề cá giữa
Trung Quốc và Việt Nam được đánh giá diễn ra khá suôn sẻ. Tuy vẫn còn những vấn đề
tồn tại trong công tác quản lý nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ song hai tác giả cho rằng việc tóm
tắt lại các kinh nghiệm thành công từ việc thực thi Hiệp định nghề cá Trung-Việt là một
việc làm hữu ích, giúp cho các quốc gia duyên hải tham khảo một mô hình về hợp tác
nghề cá trong vùng đặc quyền kinh tế, theo một cách thức tuân thủ UNCLOS.
Trong bài viết của mình, GS. Yann-huei Song (Viện Nghiên cứu Châu Âu và Mỹ,
Đài Loan) xem xét khả năng thiết lập một tổ chức khu vực có trách nhiệm quản lý và
bảo tồn tài nguyên hải sản ở Biển Đông như là cách để thúc đẩy hợp tác biển và kiểm
soát xung đột. Tác giả cho rằng ý chí chính trị là chìa khóa và là điều kiện tiên quyết để
thiết lập các cơ chế quản lý chung. Nếu không có ý chí chính trị, ý tưởng về một cơ chế
quản lý chung hay tổ chức quản lý cá của khu vực chắc chắn không thể trở thành hiện
thực. Ý chí đó phải được thể hiện trong chính sách, luật pháp và hành động cụ thể đối
với ngành cá, cũng như trong chính sách và sự ủng hộ về mặt pháp lý của chính phủ
nói chung.
Trước việc các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông thường được chú ý quá mức, TS.
Nguyễn Đăng Thắng (Hội Luật gia Việt Nam) kêu gọi một cách tiếp cận toàn diện
hơn trong quản lý và sử dụng Biển Đông bằng cách áp dụng khái niệm về quản trị đại
dương, nhấn mạnh đến nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia ven biển, đặc biệt vì mục đích
sử dụng bền vững Biển Đông. Xét ở khía cạnh này, cần có sự thay đổi quan niệm về lý
do cần hợp tác ở Biển Đông: đó là hợp tác không hoàn toàn chỉ để quản lý các tranh
chấp lãnh thổ mà là để sử dụng một cách lâu dài, bền vững Biển Đông.
Nhìn chung, các bài viết trong cuốn sách này đều chỉ ra được những nguồn gốc của
căng thẳng Biển Đông thời gian gần đây, phân tích đa chiều các khía cạnh chính trị,
TS. Đặng Đình Quý và ThS. Nguyễn Minh Ngọc
12
pháp lý của vấn đề, đồng thời nỗ lực đề xuất những lĩnh vực mà các quốc gia liên quan
cần nhanh chóng triển khai hợp tác để giảm thiểu khả năng mâu thuẫn lan ra thành
xung đột, đối đầu. Phần lớn các tác giả đều thống nhất rằng vẫn tồn tại những lợi ích
chung ở Biển Đông, vẫn còn không gian rộng mở cho hợp tác nhưng điều quan trọng là
các quốc gia phải thể hiện ý chí chính trị hướng đến việc dàn xếp hòa bình tranh chấp,
đạt được một kết quả cùng có lợi cho tất cả các bên thay vì bị chi phối bởi tình cảm dân
tộc và những toan tính vị kỷ. Chỉ khi đó, Biển Đông mới có thể tiếp tục là không gian
phát triển hòa bình, thịnh vượng – không chỉ cho thế hệ hôm nay mà còn các thế hệ
tương lai.
13
Chương I
NHỮNG ĐÁNH GIÁ VỀ
DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG