Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bi kịch trong văn học Việt Nam hiện đại
PREMIUM
Số trang
161
Kích thước
955.9 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1144

Bi kịch trong văn học Việt Nam hiện đại

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BI KỊCH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

(Qua một số tác phẩm tiêu biểu)

Chuyên ngành: Lí luận văn học

Mã số: 62 22 32 01

Họ và tên nghiên cứu sinh: PHẠM THỊ CHIÊN

Họ và tên ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Tôn Thảo

Miên

Cơ sở đào tạo: Học viện Khoa học Xã hội

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,

các số liệu và kết quả trong Luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố

nơi khác

Tác giả luận án

Phạm Thị Chiên

MỤC LỤC

Trang phụ bìa ..................................................................................................... i

Lời cam đoan......................................................................................................ii

Mục lục..............................................................................................................iii

MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................................1

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................................2

3. Mục đích nghiên cứu..................................................................................................3

4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu............................................................3

5. Những đóng góp mới của luận án .............................................................................4

6. Cấu trúc luận án...........................................................................................................5

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BI KỊCH

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI.........................................................6

1.1. Bàn về sự tồn tại của thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam...........................6

1.1.1. Xu hƣớng phủ nhận sự tồn tại của thể loại bi kịch............................................6

1.1.2. Xu hƣớng thừa nhận sự tồn tại của thể loại bi kịch..........................................7

1.2. Các ý kiến luận bàn về tác phẩm Kim Tiền của Vi Huyền Đắc ..........................9

1.3. Các ý kiến luận bàn về tác phẩm Yêu Ly của Lƣu Quang Thuận ......................14

1.4. Các ý kiến luận bàn về tác phẩm Vũ Nhƣ Tô của Nguyễn Huy Tƣởng.................15

1.5. Các ý kiến luận bàn về tác phẩm Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt của Lƣu

Quang Vũ .......................................................................................................................18

1.6. Tiểu kết..................................................................................................................22

CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN BI KỊCH.

KHÁI QUÁT VỀ BI KỊCH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI........24

2.1. Giới thuyết về bi kịch ............................................................................................24

2.1.1. Quan niệm về bi kịch qua các thời kỳ từ cổ đại đến thế kỷ XX......................24

2.2.2. Bi kịch trong tƣơng quan với chính kịch và hài kịch .......................................37

2.1.3. Khái niệm bi kịch................................................................................................47

2.2. Khái quát về bi kịch trong văn học Việt Nam hiện đại.......................................55

2.2.1. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển văn học kịch................................55

2.2.2. Các tác phẩm bi kịch tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại...................58

2.3. Tiểu kết ....................................................................................................................75

CHƢƠNG 3. VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT QUA CÁC TÁC PHẨM BI KỊCH

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI.......................................................76

3.1. Khái niệm xung đột bi kịch....................................................................................76

3.2. Các kiểu xung đột...................................................................................................81

3.2.1. Xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh...............................................................81

3.2.2. Xung đột giữa cái đẹp và cái thiện....................................................................85

3.2.3. Xung đột giữa sự sống và cái chết .....................................................................87

3.2.4. Xung đột giữa tiền bạc, giàu có và đạo đức, hạnh phúc ..................................91

3.3. Cách giải quyết xung đột........................................................................................93

3.3.1. Giải quyết xung đột kịch do tác động bên ngoài ..............................................93

3.3.2. Giải quyết xung đột do sự vận động nội tại của hành động kịch....................96

3.3.3. Giải quyết xung đột do sự tự ý thức của nhân vật............................................98

3.4. Tiểu kết .................................................................................................................. 101

CHƢƠNG 4. NHÂN VẬT VÀ SỰ THANH LỌC QUA CÁC TÁC PHẨM

BI KỊCH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI.................................... 103

4.1. Khái niệm nhân vật bi kịch .................................................................................. 103

4.2. Các kiểu nhân vật bi kịch trong một số tác phẩm kịch tiêu biểu của văn học

Việt Nam hiện đại ........................................................................................................ 104

4.2.1. Kiểu nhân vật cao cả mang lỗi lầm bi kịch ..................................................... 104

4.2.2. Kiểu nhân vật bi kịch không đƣợc là chính mình........................................... 108

4.2.3. Kiểu nhân vật đam mê mù quáng .................................................................... 112

4.2.4. Kiểu nhân vật chấp nhận hi sinh, đối nghịch hóa các giá trị ......................... 120

4.2.5. Con ngƣời bình dân trong thể loại bi kịch....................................................... 123

4.3. Vấn đề thanh lọc qua các tác phẩm bi kịch trong văn học Việt Nam hiện đại.... 129

4.3.1. Khái niệm về sự thanh lọc ................................................................................ 129

4.3.2. Biểu hiện của cảm xúc sợ hãi và xót thƣơng, sự thanh lọc và giác ngộ qua

các tác phẩm bi kịch trong văn học Việt Nam hiện đại........................................... 137

4.4. Tiểu kết .................................................................................................................. 144

KẾT LUẬN................................................................................................................. 146

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 151

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1.Vào đầu thế kỷ XX, kịch nói xuất hiện đƣợc xem là sản phẩm mới

của lịch sử văn học, khẳng định mạnh mẽ ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây

vào nƣớc ta. Kịch tỏ ra có ƣu thế đặc biệt, thích ứng kịp với cuộc sống đang

thay đổi, với xã hội Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới.

Với kịch nói, văn học nghệ thuật nƣớc ta có thêm một thể loại mới, hòa nhập

tích cực vào tiến trình văn học hiện đại của thế giới.

Kịch nói là sản phẩm của nền văn minh đô thị, tác phẩm kịch do lớp trí

thức Tây học và tiểu tƣ sản sáng tác để đáp ứng nhu cầu tinh thần, tâm lí, thị

hiếu của tầng lớp thị dân. Kịch nói từ thú chơi tài tử của những trí thức tân

học, dần dần trở thành một bộ môn kịch nghệ thu hút cả những nghệ sĩ, những

nhà văn có tên tuổi, chiếm số đông khán giả thành thị, tạo lập một phong trào

làm thay đổi hẳn tập quán thƣởng thức, mang đến cho đời sống đô thị một

sinh hoạt văn hóa nghệ thuật mới.Vì vậy, ngoài giá trị tạo nên một thể loại

mới, kịch đã tạo nên một lớp nhà văn, nghệ sỹ và công chúng mới có thẩm mĩ

của xu hƣớng Âu hóa.

Một thế kỷ hình thành và phát triển, thể loại kịch đã thực hiện nhiệm vụ

lịch sử giao cho trong việc tiên phong thể hiện thực tiễn xã hội đa dạng và

phức tạp, miêu tả đƣợc những mâu thuẫn của đời sống xã hội và cảm thức con

ngƣời hiện đại trong từng thời kì.

1.2. Về bi kịch, từ thời cổ đại, thể loại này đã đƣợc nghiên cứu khá sâu

và có tầm ảnh hƣởng cho tới tận ngày nay (tiêu biểu là Aristote). Về sau,

nhiều học giả nổi tiếng (Gorasi, Shakespeare, Lessing, Rousseau …) đã có

những bàn luận sâu sắc về kịch nói chung, bi kịch nói riêng ở nhiều góc độ

khác nhau. Ở Việt Nam, bi kịch là thể loại quan trọng cần nhiều tâm huyết

nghiên cứu để tìm ra những đặc điểm chung mang tính thời đại cũng nhƣ

những đặc trƣng mang tính dân tộc của thể loại văn học đặc thù này. Tuy vậy,

thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam còn khá mới mẻ và trong một thời

2

gian dài bị chìm lắng hoặc quên lãng cả trong nghiên cứu cũng nhƣ sáng tác.

Thành tựu của bi kịch Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với các thể loại khác

hoặc ngay với các chủng loại khác của kịch. Những vấn đề lý thuyết bi kịch,

bản chất và thi pháp của thể loại bi kịch tuy đã đƣợc đề cập và bàn luận ít

nhiều nhƣng vẫn còn nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, cần phải tìm hiểu, nghiên cứu

một cách chuyên sâu hơn.

1.3. Với những tiền đề lí luận và thực tiễn trên, Luận án mong muốn góp

phần tìm hiểu bi kịch, nhằm minh định các đặc trƣng của thể loại, làm rõ thêm

những giá trị về nội dung, nghệ thuật của bi kịch. Từ đó, khẳng định sự tồn tại

của thể loại bi kịch nhƣ một thể loại trong nền văn học Việt Nam hiện đại với

những đặc điểm về xung đột bi kịch, về nhân vật, về biểu hiện của sự thanh

lọc trong cấu trúc hình tƣợng nhân vật và hiệu ứng thanh lọc trong nhận thức

của khán giả trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Những kết quả đạt đƣợc của

luận án sẽ góp phần làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu bi kịch cũng nhƣ

cung cấp những cứ liệu thực tiễn cho việc giảng dạy học tập về kịch nói

chung và bi kịch nói riêng trong nhà trƣờng.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng

Đối tƣợng của đề tài là nghiên cứu bi kịch từ góc độ thi pháp thể loại qua

khảo sát các tác phẩm kịch trong văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm bi

kịch thuộc văn học nƣớc ngoài, kịch bản sân khấu truyền thống Việt Nam nhƣ

tuồng, chèo, cải lƣơng…không thuộc đối tƣợng nghiên cứu trong đề tài này.

2.2. Phạm vi:

Kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Kịch vừa để biểu diễn đồng

thời vừa để đọc. Sân khấu là không gian sinh tồn của một vở diễn. Tuy vậy,

trong giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ nghiên cứu tác phẩm kịch ở phƣơng

diện kịch bản văn học.

Một thế kỷ bi kịch ra đời và trƣởng thành có nhiều tác phẩm, tác giả góp

phần làm nên diện mạo nền văn học kịch, nhƣng do đối tƣợng và phạm vi của

3

luận án, chúng tôi chỉ khảo sát những tác phẩm bi kịch tiêu biểu, cụ thể là: Kim

tiền (Vi Huyền Đắc), Yêu Ly (Lƣu Quang Thuận), Vũ Nhƣ Tô (Nguyễn Huy

Tƣởng), Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt (Lƣu Quang Vũ). Ngoài ra, nhằm làm

sáng rõ hơn các đặc trƣng của bi kịch trong văn học Việt Nam, luận án mở rộng

diện khảo sát các tác phẩm có chứa đựng yếu tố bi kịch trong một số vở kịch

Con nai đen, Rừng trúc, Cái bóng trên tƣờng, Ngƣời đàn bà hóa đá, Trƣơng

Chi của Nguyễn Đình Thi, Quỷ ở với ngƣời của Nguyễn Huy Thiệp...

3. Mục đích nghiên cứu

Luận án nhằm đạt những mục đích sau đây:

3.1. Bƣớc đầu khái quát đƣợc tiến trình phát triển bi kịch Việt Nam thế

kỷ XX, qua việc tìm hiểu đánh giá một số tác phẩm tiêu biểu.

3.2. Rút ra đƣợc hệ thống nhận định, đánh giá về bi kịch trong văn học Việt

Nam thế kỷ XX trên các yếu tố cơ bản: Xung đột, nhân vật và sự thanh lọc.

3.3. Tìm hiểu vấn đề bi kịch trong văn học Việt Nam nhằm minh định

các đặc trƣng của thể loại, làm rõ thêm những giá trị về nội dung, nghệ thuật

của các tác phẩm bi kịch tiêu biểu trong văn học hiện đại...

4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý thuyết

a) Về cơ sở lý thuyết, luận án vận dụng lý thuyết Thi pháp học thể loại.

Đặc trƣng thể loại bi kịch đƣợc xác định gồm: Xung đột bi kịch, nhân vật bi

kịch, hành động bi kịch, ngôn ngữ bi kịch…trong sự khu biệt với hài kịch và

chính kịch.

b) Về giả thuyết nghiên cứu, với đề tài Bi kịch trong văn học Việt Nam

hiện đại, Luận án nhằm giải đáp những vấn đề sau:

- Trong văn học Việt Nam có tồn tại những tác phẩm bi kịch hội đủ các

đặc trƣng để trở thành một thể loại hay chỉ là tác phẩm kịch có yếu tố cái bi?

- Nếu văn học Việt Nam có thể loại bi kịch thì bi kịch mang những đặc

trƣng gì?

4

- Thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam có gì độc đáo, mang bản sắc

riêng?

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Về mặt phƣơng pháp luận, để thực hiện đề tài, chúng tôi thiên về hƣớng

tiếp cận từ góc độ thi pháp để làm rõ đặc trƣng thể loại, đó là xung đột bi

kịch, nhân vật bi kịch và sự thanh lọc. Để triển khai đề tài này, chúng tôi sử

dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:

- Phƣơng pháp thống kê phân loại: Phƣơng pháp này là để có đƣợc các dẫn

liệu có tính thuyết phục cao qua việc khảo sát thống kê và sắp xếp các dẫn liệu,

tổng hợp thành những luận điểm lớn, tạo cơ sở đáng tin cậy cho việc nghiên cứu.

- Phƣơng pháp so sánh: Phƣơng pháp này nhằm làm rõ sự giống nhau

và khác nhau giữa các tác phẩm bi kịch từ đó khái quát đƣợc những đóng góp

và hạn chế của mỗi vở bi kịch.

- Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp: Phƣơng pháp này để đánh giá các

hiện tƣợng và rút ra các nhận định trên một số phƣơng diện: xung đột bi kịch,

nhân vật bi kịch và sự thanh lọc.

- Phƣơng pháp hệ thống: Phƣơng pháp này nhằm chỉ ra các đặc điểm

của xung đột bi kịch, nhân vật bi kịch và sự thanh lọc là những yếu tố trong

mối quan hệ với hệ thống các yếu tố khác của thể loại bi kịch trong văn học

Việt Nam hiện đại.

Ngoài ra, luận án còn vận dụng phƣơng pháp tiếp cận liên nghành (Mỹ

học, Văn hóa học, Sân khấu học) và các thủ pháp nghiên cứu (miêu tả, diễn

dịch, quy nạp)....để làm rõ đặc trƣng thi pháp thể loại bi kịch.

5. Những đóng góp mới của luận án

Trên phƣơng diện lí luận, từ trƣớc đến nay tình hình nghiên cứu vấn đề

bi kịch mới chỉ dừng lại ở việc dịch thuật các tài liệu nƣớc ngoài phục vụ cho

nghiên cứu giảng dạy, mà chƣa có công trình lí luận riêng biệt và hoàn thiện

về vấn đề này. Luận án là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu về bi

kịch trong văn học Việt Nam hiện đại.

5

Luận án có những đóng góp mới nhƣ sau:

- Bƣớc đầu, qua cứ liệu thực tiễn, chỉ ra sự tồn tại, sự thể hiện của bi

kịch trong các tác phẩm kịch; qua đó, về mặt lí luận, góp phần khẳng định:

trong văn học Việt Nam hiện đại, những tác phẩm thể hiện yếu tố bi kịch khá

đa dạng và mới mẻ, có những tác phẩm tiêu biểu đã hội đủ các điều kiện để

tạo nên thể loại bi kịch.

- Nghiên cứu đặc điểm xung đột bi kịch ở các phƣơng diện: Các kiểu

xung đột bi kịch, cách giải quyết xung đột trong thể loại bi kịch; đặc điểm

nhân vật bi kịch, phân loại các kiểu nhân vật.

- Mặt khác, đề tài đã chứng minh đƣợc vấn đề tính dân chủ trong một

thể loại xem trọng tính giai tầng ở phƣơng diện nhân vật; làm rõ vấn đề về

con ngƣời bình dân trong các tác phẩm bi kịch Việt Nam, thể hiện sự cách tân

trong quan niệm nghệ thuật về xây dựng nhân vật ở thể loại bi kịch.

- Nghiên cứu vấn đề thanh lọc trong bi kịch trên hai phƣơng diện: sự

thanh lọc diễn ra ở quá trình tiếp nhận của khán giả qua sự lo sợ và thƣơng

cảm; sự thanh lọc diễn ra ngay trong chính cấu trúc tác phẩm, tức là sự thanh

lọc ở nhân vật bi kịch.

6. Cấu trúc luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án gồm có

bốn chƣơng:

Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu bi kịch trong văn học Việt

Nam hiện đại

Chƣơng 2. Những vấn đề lý thuyết liên quan đến bi kịch. Khái quát về bi

kịch trong văn học Việt Nam hiện đại

Chƣơng 3. Vấn đề xung đột qua các tác phẩm bi kịch trong văn học Việt

Nam hiện đại

Chƣơng 4. Nhân vật và sự thanh lọc qua các tác phẩm bi kịch trong văn

học Việt Nam hiện đại

6

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BI KỊCH

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

1.1. Bàn về sự tồn tại của thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam

Ở Việt Nam, nghiên cứu về bi kịch là một vấn đề mới, đang còn nhiều

tranh cãi. Cho đến nay ý kiến bàn bạc chƣa nhiều và chƣa hệ thống. Trong số

các tác giả nghiên cứu về bi kịch chúng ta thấy có hai xu hƣớng trái ngƣợc

nhau. Xu hƣớng thứ nhất, cho rằng trong văn học Việt Nam bi kịch chƣa phải

là một thể loại mà các tác phẩm kịch chỉ có yếu tố bi kịch. Xu hƣớng thứ hai

khẳng định bi kịch là một thể loại tồn tại độc lập bên cạnh hài kịch và chính

kịch. Ở xu hƣớng này, các nhà nghiên cứu ngoài việc chỉ ra sự tồn tại của bi

kịch nhƣ một thể loại còn khẳng định trong văn học Việt Nam hiện đại có tác

phẩm xứng đáng là bi kịch đích thực có thể sánh tầm với những bi kịch cổ

điển trên thế giới.

1.1.1. Xu hướng phủ nhận sự tồn tại của thể loại bi kịch

Trƣớc tiên là quan điểm cho rằng không có thể loại bi kịch trong văn

học Việt Nam, tiêu biểu là ý kiến của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,

Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học "Ở Việt Nam, không

có bi kịch nhƣ một thể loại văn học - sân khấu theo quan niệm cổ điển mà chỉ

có một số vở tuồng hoặc kịch hiện đại mà nội dung tƣ tƣởng nghệ thuật có

chứa yếu tố bi kịch. Có thể coi Vũ Nhƣ Tô của Nguyễn Huy Tƣởng là một ví

dụ." [31;Tr19]. Thực ra, ý kiến trên chỉ xuất hiện trong một cuốn sách chứ

chƣa đƣợc phát triển thành hệ thống bài nghiên cứu chứng minh vấn đề sự

không tồn tại của bi kịch nhƣ là một thể loại. Trong thƣ mục mà chúng tôi có

đƣợc, quan điểm phủ nhận sự tồn tại bi kịch mới chỉ dừng lại ở tài liệu này.

Từ đó đến nay chƣa có tác giả nào, công trình, hay bài viết nào phát triển

khẳng định và đồng tình với luận điểm trên. Tuy nhiên, cũng có những nhà

nghiên cứu coi các tác phẩm kịch là hiện tƣợng tiểu biểu của văn học Việt

Nam nhƣng chỉ mới dừng lại ở việc đánh giá nội dung tƣ tƣởng của các vở

7

trên mà chƣa bàn sâu về thi pháp bi kịch và đặc biệt là không chú ý vào vấn

đề sự tồn tại thể loại.

1.1.2. Xu hướng thừa nhận sự tồn tại của thể loại bi kịch

Chiếm đa số vẫn là quan điểm nhất quán khẳng định sự tồn tại của thể

loại bi kịch ở nƣớc ta, không chỉ có mặt nhƣ một thể loại mới làm phong phú

cho diện mạo văn học hiện đại mà hơn thế ngay từ khi mới xuất hiện đã có

những đỉnh cao về sáng tạo bi kịch.

Tất Thắng trong bài “Cuộc tao ngộ giữa kịch và văn”, khẳng định Vũ

Nhƣ Tô là một bi kịch : “Bi kịch của Vũ Nhƣ Tô là bi kịch của ngƣời nghệ sỹ

khát khao sáng tạo trong một xã hội không có chỗ cho sự khát khao đó. Cái

chết của Vũ Nhƣ Tô do đám đông quần chúng giết, cái đám đông nổi cơn

cuồng phong bạo động làm rung chuyển và quay đổi lịch sử khiến ta nhớ đến

những bi kịch lớn trong kho tàng kịch nhân loại nhƣ Juyliut Xeda của

Sechspia hay Borris Godunop của Puskin” [48;Tr 400 - 401].

Đỗ Đức Hiểu với bài “Bi kịch Vũ Nhƣ Tô”, đã khẳng định: “Với Vũ

Nhƣ Tô, Nguyễn Huy Tƣởng sáng tạo một bi kịch hiện đại ở Việt

Nam”[45;Tr 421]. “Vũ Nhƣ Tô là một bi kịch, kiểu bi kịch cổ điển Pháp thế

kỷ XVII, với tiêu đề vở là tên nhân vật trung tâm (Andromaque, Phedre, Vũ

Nhƣ Tô...), với những hồi, những cảnh (lớp) kế tiếp nhau, liên tiếp với nhau

chặt chẽ, với những xung đột đầy kịch tính, và cuối cùng kết thúc bằng những

cái chết...” [45;Tr424]. Nhƣ vậy, trong bài viết này Đỗ Đức Hiểu đã chỉ ra

đƣợc vở Vũ Nhƣ Tô là bi kịch, hơn thế là một bi kịch hiện đại của văn học

Việt Nam. Mặt khác, ông so sánh sự tƣơng đồng giữa vở Vũ Nhƣ Tô với các

vở bi kịch cổ điển Pháp trên các biểu hiện nhƣ tên tác phẩm, xung đột, và

philna cuối cùng là cái chết của nhân vật. Đỗ Đức Hiểu quan tâm nhiều đến

đối thoại kịch, nhân vật kịch, hình thức kịch bản và phân tích biểu hiện chi

tiết qua vở Vũ Nhƣ Tô.

Phan Trọng Thƣởng trong “Lời giới thiệu” cuốn sách Vũ Nhƣ Tô đã viết:

“Về mặt thể loại, các nhà nghiên cứu văn học và mĩ học đã tƣờng giải Vũ

8

Nhƣ Tô là một sáng tạo bi kịch xuất sắc có thể sánh ngang với những sáng tạo

bi kịch vào hàng cổ điển trong văn học thế giới. Với cống hiến quan trọng này

Nguyễn Huy Tƣởng đã nhanh chóng vƣợt trên Vi Huyền Đắc, đƣa nghệ thuật

kịch còn non trẻ ở Việt Nam vào thời điểm tác phẩm ra đời lên đỉnh cao vinh

quang của thể loại.” [93;Tr8]

Phạm Vĩnh Cƣ trong bài "Bàn thêm về bi kịch Vũ Nhƣ Tô", đã viết:

"Chúng tôi sẽ cố gắng chứng minh rằng Vũ Nhƣ Tô là tác phẩm bi kịch duy

nhất và đích thực của Nguyễn Huy Tƣởng. Nó đáp ứng đầy đủ và khá toàn

hảo mọi yêu cầu, mọi tiêu chí của một thể loại văn học mà mĩ học châu Âu

xƣa nay có lí do coi là thể loại cao quý nhất và khó nhất". Ông nhấn mạnh:

"Sáng tạo đƣợc những bi kịch thực thụ tức là sánh ngang với Eschyle,

Sophocle, Shakespeare, Corneille, Racine.…" [9;Tr50]. Và tác giả Phạm Vĩnh

Cƣ xem vở bi kịch Vũ Nhƣ Tô là "một trong những trái chín sớm tuyệt vời của

tiến trình văn hóa Việt Nam hội nhập văn hóa thế giới". "Với Vũ Nhƣ Tô,

Nguyễn Huy Tƣởng sáng tạo một bi kịch hiện đại ở Việt Nam". Tác giả Phạm

Vĩnh Cƣ trong bài "Thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam thế kỉ XX"

khẳng định sự tồn tại của thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam, dù số

lƣợng các tác phẩm bi kịch đích thực không nhiều nhƣng đều là những đỉnh

cao và góp phần xác lập một thể loại lớn. Ông viết: "Ba tác phẩm bi kịch - Vũ

Nhƣ Tô của Nguyễn Huy Tƣởng, Trƣờng hận - Dƣơng Quý Phi của Vi Huyền

Đắc - Thế Lữ, Yêu Ly của Lƣu Quang Thuận… cho phép ta nói không chỉ về

cảm hứng sáng tạo mãnh liệt, mà còn về khuynh hƣớng chín muồi gia tốc của

thể loại bi kịch trong văn học nƣớc ta thời ấy" [8;Tr102]

Tác giả Nguyễn Bích Thu cho rằng: “Vũ Nhƣ Tô là bi kịch hiện đại đầu

tiên của nền kịch Việt Nam, một thể loại ghi nhận tài năng, tƣ chất cùng

những đóng góp tích cực và hiệu quả của kịch tác gia Nguyễn Huy Tƣởng

trong quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam thế kỷ XX” [101]. Tác giả

khẳng định vị trí quan trọng của vở kịch Vũ Nhƣ Tô đó là “bi kịch hiện đại

9

đầu tiên” và đóng góp to lớn của Nguyễn Huy Tƣởng đối với tiến trình hiện

đại hóa của văn học.

Nhƣ vậy, điểm qua ý kiến của các nhà nghiên cứu bi kịch cho thấy sự

thống nhất cao trong việc xác định tên gọi thể loại bi kịch. Các nhà nghiên

cứu thừa nhận sự tồn tại của bi kịch trong văn học Việt Nam. Việc xác định

danh tính cho vở kịch đã rõ, và quan điểm cho rằng trong văn học Việt Nam

chỉ có “yếu tố bi kịch” mà không có “thể loại bi kịch” đã đƣợc xem xét lại.

1.2. Các ý kiến luận bàn về tác phẩm Kim Tiền của Vi Huyền Đắc

Nguyễn Tuân trong “Lời giới thiệu” viết cho vở Kim tiền, năm 1957 bàn

khá đầy đủ và sâu sắc các mặt của vở kịch, từ cốt truyện, xung đột, nhân vật,

ngôn ngữ, trên cả hai bình diện đóng góp và hạn chế của vở. Bàn về cốt

truyện ông viết: "Đúng nhƣ cái tên Kim Tiền nêu lên, từ đầu đến cuối vở Kim

Tiền, Vi Huyền Đắc đã chuyên nói về một câu chuyện tiền nong trong một cái

xã hội An Nam trọng thị đồng tiền. Đây là một cái chuyện của ngƣời Việt

Nam nhất định làm giàu, đòi phải làm giàu cho bằng đƣợc. Cái ngƣời có chí

làm giàu này là Trần Thiết Chung và cái lịch sử một đời triệu phú này tính từ

năm 1937 ngƣợc về trƣớc. Nguyên là một kẻ nghèo quý trọng khí tiết và sự

trong trắng của phẩm cách làm ngƣời, Trần Thiết Chung đã từ chỗ rất khái

với đồng tiền, rất phẫn vì vợ con thắng thúc mà đi tới chỗ chạy theo tiền, hùng

hục làm tiền, cuồng tín trong sự vận dụng và kinh doanh tiền, say sƣa mà điều

khiển tiền. Trần Thiết Chung là một ngƣời có chí, có cái chí và sự tự ái trở

nên giàu sụ cho đời biết tay ta. Cái ngƣời có chí ấy đã làm nên. Trƣớc vì khí

khái nên muốn cam phận nghèo, nay vì dỗi hờn với vợ con, phẫn với chính

mình mà Trần Thiết Chung lao vào đời làm tiền. Lão đi trƣng thuế đò, thuế

chợ, buôn tàu, buôn bè, mộ phu, khai mỏ, rồi lại gửi tiền vào nhà băng mua

đƣờng sắt và tàu tận bên Tây để khai mỏ nhiều hơn nữa. Từ một vợ nay Trần

Thiết Chung đã có ba vợ ở mỗi ngƣời một dinh cơ riêng: vợ cả ở quê gốc, vợ

hai ở đồn điền, vợ ba tân thời nhất thì tậu hàng dãy phố nhà gạch và trƣng

thầu thực phẩm cho phu vùng mỏ. Nhƣng mà cái ngƣời nhiều khả năng kinh

10

tế kia lại là một kẻ rất thiếu hạnh phúc. Chỉ thấy nhà tƣ sản Trần Thiết Chung

túi bụi rối rít vì điều khiển tiền bạc vừa cầm tiền vừa than vừa hoài nghi đồng

tiền không tạo ra đƣợc hạnh phúc thực sự. Rồi cuối cùng, nhà giàu này chƣa

hết của mà đã hết đời. Bên cái tủ két sắt oai nghi nọ, Trần Thiết Chung đã

chết vì một phát súng nào đó của cuộc đời " [23;Tr1,2]

Nguyễn Tuân xác định xung đột trong vở là sự mâu thuẫn sâu sắc: Xung

đột giữa đạo đức và phú quý; lòng nhân và tiền bạc (Vi phú bất nhân, vi nhân

bất phú). Ông viết "Tại sao Vi Huyền Đắc lại bắt ông chủ mỏ ấy phải có một

cái tiền thân là một nhà văn? … Có phải thâm ý của tác giả là muốn trong con

ngƣời Trần Thiết Chung đem ra thống nhất cái mâu thuẫn thanh cao nhiều tình

cảm với cái mâu thuẫn tiền bạc thô bạo của ông chủ không?" [23;Tr17]

Bàn về nhân vật, Nguyễn Tuân dành nhiều công sức để đánh giá về nhân

vật tƣ sản Trần Thiết Chung: "Tƣ sản Trần Thiết Chung trong vở kịch tiêu

biểu cho lớp tƣ sản của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn mất nƣớc. Trần Thiết

Chung không chỉ buôn bán mà còn sản xuất, có vai trò trong sản xuất than đá.

Trần Thiết Chung không găm tiền lại thành cái tiền chết mà phải làm cho cái

tiền đó thành vốn sống, y bảo vợ "đừng mua nhà, tậu đất, đặt lãi làm gì nữa…

để tiền lại làm mỏ…" và quyết chí: "cả cái cơ nghiệp này mất hết đi nữa, tôi

cũng vui lòng hả dạ rằng đã làm đƣợc một việc mà ngƣời An Nam chƣa ai

dám làm…" [23;Tr5]

Tính cách cao cả của nhân vật đƣợc tác giả phát hiện ra qua việc phân

tích tầm nhìn sâu rộng trong tƣ tƣởng và hoạch định công việc của nhân vật

Trần Thiết Chung: "Trần Thiết Chung là một nhà tƣ sản có chữ nghĩa nên đối

với những vấn đề thời cục, lão cũng có đƣợc cái nhìn rộng và đã đem những

cái nhìn ấy mà soi vào mọi việc kinh doanh: "Than xuất cảng mỗi tháng một

tăng… Thì cứ xem thời cục Viễn Đông, bề nào ngƣời Nhật Bản cũng phải

mua than, mỗi ngày một nhiều hơn lên. Nƣớc Nga đã hoàn thành công việc

kiến thiết ở Tây Bá Lợi Á cả hai bãi băng tuyết ấy ngày nay đã trở thành ra

một khu vực công nghệ thì phía bên này là Mãn Châu Quốc, nƣớc Nhật cũng

11

phải có một sự kiến thiết tƣơng đƣơng… Than Mãn Châu, than Sơn Đông

không thể nào đủ dùng đƣợc cũng vì tôi đoán quyết nhƣ vậy, nên…" [23;Tr7]

Vì quan tâm làm giàu bằng mọi giá nên Trần Thiết Chung đã nhanh

chóng tích luỹ đƣợc khối lƣợng tài sản khổng lồ trong thời gian không dài,

Nguyễn Tuân chỉ ra đƣợc bản chất tham tiền say mê tích luỹ, đầu cơ và sự tha

hoá nhân cách vì đồng tiền trong sự đối sánh các mối quan hệ với gia đình, xã

hội của nhân vật Trần Thiết Chung, Nguyễn Tuân viết: "Trần Thiết Chung đã

thuộc hẳn vào cái loại ngƣời mà "tiền là cái lò xo vĩ đại của sự sống"

(Balzac), và lão đã tuyên bố lên rằng "tiền của tôi, không phải là của tôi, nó là

công việc của tôi đƣơng làm". Cho nên nó đã xử sự đúng với cái phƣơng

châm đề ra từ vạn cổ: vi phú bất nhân, vi nhân bất phú. Nó dám chống lại mọi

thứ tình cảm có thể xảy đến cho nó. Hắn đã tự đắc mà triết lý rằng "tôi nói

thật, ấy hễ mình mà vấp ngã là họ xéo bừa lên lƣng lên đầu mình lập tức. Họ

ngã mình cũng làm nhƣ thế. Cái bí thuật là giữ thế nào cho đừng có ngã…".

Đồng tiền đã là ngƣời cố vấn tối cao bồi dƣỡng cho hắn có bạo lực trong cái

nhân sinh quan ngƣời chủ. Cái giá trị của ngòi bút Vi Huyền Đắc là đã vạch

đƣợc ra cái bản chất tàn bạo của triệu phú Trần Thiết Chung, nó cũng là cái

tính chất chung của giai cấp tƣ sản. Và kịch tác giả đã đem cái bản chất bất

nhân ấy ra mà đối chiếu với nhiều trƣờng hợp, để cho cái chất Trần Thiết

Chung hiện rõ hết lên. Đối với công nhân mỏ, tức là những ngƣời nai lƣng

oằn xƣơng ra mà đắp cho cơ nghiệp chủ mỏ, thì Trần Thiết Chung trắng trợn

bảo rằng: "một tên phu không thể coi là một ngƣời đƣợc… cũng chỉ là một cái

khí cụ thôi", đúng hệt cái giọng cái chữ của những tƣớng tá quân đội đế quốc

tƣ bản, trong việc sử dụng võ khí, trong việc điều động con ngƣời binh sĩ, vẫn

gọi ngƣời lính là nhân cụ" [23;Tr12]

Đối với thị phi, Trần Thiết Chung sẵn sàng đạp bằng dƣ luận và không

cần phải sự đánh giá đúng sai: "nếu làm việc gì mà cũng sợ dƣ luận, thì không

còn dám làm việc gì nữa…" [23;Tr13]

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!