Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Báo cáo hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính tại
MIỄN PHÍ
Số trang
118
Kích thước
498.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1118

Báo cáo hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính tại

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

Luận văn tốt nghiệp - 1 -

LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay, chúng ta đang sống trong thể kỷ 21, thế kỷ của hội nhập kinh

tế trong khu vực và trên toàn thế giới. Hội nhập kinh tế vừa là cơ hội để phát

triển đất nước vừa là thách thức lớn đối với nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch vụ

của Việt nam để có thể cạnh tranh với các hàng hoá trên thị trường trong và

ngoài nước.

Trong xu thế chung đó, lĩnh vực kiểm toán Việt Nam vẫn còn khá non

trẻ và đang đứng trước nhiều khó khăn. Các công ty kiểm toán độc lập ở Việt

Nam cũng đang nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ để từng bước chuẩn

bị hội nhập hoàn toàn với quốc tế và cạnh tranh với các công ty kiểm toán

nước ngoài.

Trong kiểm toán, kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất và

được thực hiện nhiều nhất trong các cuộc kiểm toán. Để nâng cao chất lượng

của các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, các công ty kiểm toán hiện nay

đang rất chú trọng đến các công việc được tiến hành trong một cuộc kiểm

toán. Công tác đánh giá rủi ro kiểm toán là một công việc hết sức phức tạp và

quan trọng vì nó sẽ giúp kiểm toán viên có kế hoạch kiểm toán hiệu quả, từ

đó xác định nội dung, lịch trình, phạm vi và các thủ tục kiểm toán để có thể

phát hiện ra các sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính.

Thấy được tầm quan trọng của công tác đánh giá rủi ro kiểm toán trong

kiểm toán báo cáo tài chính và qua thời gian thực tập tại công ty TNHH Kiểm

toán và Định giá Việt Nam, em đã chọn đề tài: “ Hoàn thiện quy trình đánh

giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại

Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu

và góp phần hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro kiểm toán.

2

Luận văn tốt nghiệp - 2 -

Luận văn tốt nghiệp gồm có 3 phần:

Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán

báo cáo tài chính

Phần 2: Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán

báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam

Phần 3: Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá trọng

yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty

TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam.

Cũng nhân dịp này, em xin chân thành cảm ơn Th.s Nguyễn Thị Hồng

Thúy khoa Kế toán cùng các anh chị kiểm toán viên trong công ty TNHH

Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt

thời gian thực tập vừa qua để em hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này.

3

Luận văn tốt nghiệp - 3 -

PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU VÀ

RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC

1.1 Trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính

1.1.1 Khái niệm trọng yếu

Theo từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu” là một tính từ để chỉ sự quan

trọng thiết yếu. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu lại có một ý nghĩa

cụ thể.

Trong Kế toán, trọng yếu là một trong những nguyên tắc kế toán chung

được chấp nhận rộng rãi. Kế toán chỉ nên quan tâm, chú trọng đến những vấn

đề có ảnh hưởng đến tính chính xác của báo cáo tài chính, ảnh hưởng đến

quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC, còn những khoản mục không

quan trọng, không ảnh hưởng trọng yếu đến tính chính xác của báo cáo tài

chính thì kế toán có thể toàn quyền xử lý theo cách thức tiện nhất cho công

tác kế toán.

Trong lĩnh vực kiểm toán BCTC, trọng yếu là một khái niệm thường

xuyên nhắc tới. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) về

“Tính trọng yếu trong kiểm toán” thì “ Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót

hoặc sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của

người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của

các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ

sót hoặc sai sót đó. Vì thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định

tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần phải có”

Theo Văn bản chỉ đạo Kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) do Liên đoàn kế

toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố thì: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ,

bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc đơn lẻ, hoặc từng

4

Luận văn tốt nghiệp - 4 -

nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ

không chính xác hoặc là sẽ rút ra kết luận sai lầm.”

Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm

toán” thì trọng yếu được định nghĩa như sau: “Thông tin được coi là trọng

yếu có nghĩa là nếu thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến

các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức trọng yếu tuỳ thuộc

vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá

trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ

không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu phải xét

trên cả phương diện định lượng và định tính”

Như vậy, trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay độ lớn) và bản chất của

các sai phạm kể cả bỏ sót của các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc là

từng nhóm nếu xét trong một bối cảnh cụ thể, những sai phạm đó làm cho

người sử dụng BCTC đưa ra các quyết định sai lầm hoặc hiểu sai bản chất

vấn đề.

1.1.2 Vai trò của trọng yếu

Tính trọng yếu có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn lập kế hoạch

kiểm toán, thực hiện kiểm toán (thiết kế phương pháp kiểm toán) và giai đoạn

kết thúc kiểm toán

 Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán:

Kiểm toán viên đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai sót

có thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh

hưởng của các sai sót lên BCTC từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi

các thử nghiệm kiểm toán.

Chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 300 (VSA 300) quy định: trong giai

đoạn lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, kiểm toán viên phải “Xác định mức độ

trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán”

5

Luận văn tốt nghiệp - 5 -

Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) quy định: “Khi lập kế

hoạch kiểm toán, chuyên gia kiểm toán phải cân nhắc xem những nhân tố có

thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong BCTC. Đánh giá của chuyên

gia kiểm toán về mức độ trọng yếu, liên quan đến các số dư tài khoản cụ thể

và các loại nghiệp vụ giúp họ xác định được khoản mục nào cần kiểm tra và

nên sử dụng phương pháp chọn mẫu hay áp dụng các thủ tục phân tích. Điều

này giúp chuyên gia kiểm toán lựa chọn những thủ tục kiểm toán; kết hợp

những thủ tục kiểm toán đó lại với nhau có thể sẽ giảm được rủi ro kiểm toán

tới một mức độ có thể chấp nhận được”

 Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán

Dựa vào đánh giá mức trọng yếu và mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi

ro, kiểm toán viên sẽ lựa chọn các phương pháp kiểm toán thích hợp (tăng

cường thử nghiệm cơ bản hay thử nghiệm kiểm soát…) đồng thời cũng có thể

thay đổi phương pháp kiểm toán nếu có sự thay đổi trong đánh giá mức trọng

yếu.

 Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán

Kiểm toán viên dựa vào mức trọng yếu để xác định mức độ trung thực,

hợp lý của các thông tin trên BCTC và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót đến

BCTC để đưa ra ý kiến cho phù hợp. Nếu kiểm toán viên phát hiện thấy một

sai phạm trọng yếu thì phải đề nghị khách hàng điều chỉnh. Nếu kiểm toán

viên cho là cần thiết mà khách hàng từ chối điều chỉnh thì kiểm toán viên sẽ

đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến ngoại trừ hoặc ý kiến trái ngược

tuỳ theo mức độ trọng yếu của sai phạm. Vì vậy, kiểm toán viên cần phải có

sự hiểu biết về tính trọng yếu và thực hiện đánh giá trọng yếu một cách đầy

đủ.

6

Luận văn tốt nghiệp - 6 -

1.1.3 Quy mô và bản chất của khoản mục nghiệp vụ trong mối quan hệ với

trọng yếu

Việc đánh giá trọng yếu là một công việc mang tính xét đoán nghề

nghiệp của kiểm toán viên. Hơn nữa, trọng yếu là một khái niệm tương đối và

gắn liền quy mô của khách hàng. Một sai phạm là trọng yếu với công ty này

nhưng có thể là không trọng yếu với công ty khác. Do đó, để đánh giá một

khoản mục, nghiệp vụ là trọng yếu hay không, kiểm toán viên cần xem xét

trên cả hai mặt định tính và định lượng của những sai phạm hay nói cách

khác, cần xem xét cả quy mô và bản chất nghiệp vụ trong quan hệ với tính

trọng yếu

1.1.3.1 Quy mô trong mối quan hệ với trọng yếu

Quy mô của sai phạm đối với một khoản mục hay nghiệp vụ là một

nhân tố quan trọng để xem xét sai phạm đó có trọng yếu hay không. Các chỉ

tiêu thường được dùng làm cơ sở đánh giá tính trọng yếu như: thu nhập trước

thuế, tổng tài sản, doanh thu, tài sản lưu động, nợ ngắn hạn… Trong các chỉ

tiêu đó thì chỉ tiêu thu nhập trước thuế thường là quan trọng nhất vì nó được

xem như một khoản mục thông tin then chốt nhất đối với người sử dụng

BCTC.

Ta xem xét hai mức độ khác nhau về quy mô của khoản mục, nghiệp vụ

là quy mô nhỏ và quy mô lớn để thấy được mối quan hệ giữa quy mô và tính

trọng yếu.

a. Quy mô nhỏ

Một khoản mục, nghiệp vụ sai phạm với quy mô nhỏ trong báo cáo tài

chính thì thường được coi là không trọng yếu bởi vì việc phản ánh đúng hay

sai khoản mục, nghiệp vụ này cũng không ảnh hưởng đến quy mô chung trên

BCTC và không ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng.

7

Luận văn tốt nghiệp - 7 -

Tuy nhiên, khi xem xét các sai phạm không nên xem xét nó một cách

cô lập vì chúng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ nhưng nếu kiểm toán viên

cộng dồn các sai phạm thì sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của

các sai phạm từ đó phát hiện ra tính trọng yếu của chúng.

Xét trên phương diện quy mô của nghiệp vụ, khoản mục để đánh giá

tính trọng yếu cần phải liên hệ với quy mô của doanh nghiệp. Ví dụ một

khoản mục có quy mô 5.000.000 VND có thể được đánh giá là không trọng

yếu khi tổng tài sản là 10.000.000.000 VND nhưng có thể được đánh giá là

trọng yếu khi tổng tài sản là 10.000.000 VND. Hoặc khoản mục nguyên vật

liệu phụ có thể không trọng yếu trong sản xuất dầu nhưng lại là trọng yếu

trong sản xuất thuỷ tinh, gốm sứ,…

b. Quy mô lớn

Các khoản mục có quy mô lớn thường được đánh giá là trọng yếu vì nó

ảnh hưởng đến nhận thức về thực trạng hoạt động tài chính và từ đó ảnh

hưởng đến các quyết định quản lý kinh tế và các kết luận kiểm toán. Ví dụ

khoản mục tài sản cố định thường có quy mô lớn trong bảng cân đối kế toán

do đó chúng thường được đánh giá là trọng yếu.

Tuy nhiên không phải khoản mục nào có quy mô lớn cũng sẽ ảnh

hưởng trọng yếu tới báo cáo tài chính vì còn phải xem xét mối quan hệ của

khoản mục với đối tượng kiểm toán cũng như mục tiêu kiểm toán. Vì vậy,

việc đánh giá trọng yếu chỉ dựa vào quy mô là không dễ dàng. Trong thực tế

để đánh giá trọng yếu, kiểm toán viên xem xét đánh giá cả về bản chất của

khoản mục, nghiệp vụ

1.1.3.2 Bản chất của khoản mục, nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu

Các khoản mục, nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các

khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và các

khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng

8

Luận văn tốt nghiệp - 8 -

a. Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hoặc chứa đựng khả năng

gian lận

Với cùng một quy mô tiền tệ, các gian lận thường được chú trọng hơn

sai sót bởi vì các gian lận thường ảnh hưởng đến tính trung thực và độ tin cậy

cảu Ban Giám đốc và những người có liên quan. Vì vậy, một hành vi gian lận

luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô là lớn hay nhỏ.

Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian

lận bao gồm:

 Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp. Các nghiệp

vụ này chứa đựng gian lận vì trong đấu thầu, việc lựa chọn chủ thầu nhiều khi

có sự móc nối, phối hợp giữa bên giao thầu và bên nhận thầu để thu lợi cho

một số cá nhân..

 Các nghiệp vụ thanh lý tài sản khi tài sản khấu hao hết hoặc chưa khấu hao

hết nhưng không còn sử dụng. Các nghiệp vụ này chứa đựng gian lận vì trong

nhiều trường hợp tài sản vẫn còn tốt và sử dụng được nhưng vẫn đem đi thanh

lý với giá rẻ do ban giám đốc không quản lý chặt chẽ và có sự liên kết giữa

người tiến hành thanh lý và người mua tài sản thanh lý.

 Các nghiệp vụ về tiền mặt: tiền mặt có đặc điểm gọn nhẹ, dễ di chuyển, cất

trữ và có biên độ dao động lớn do đó rất dễ có gian lận phát sinh

 Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: dễ có sự liên kết giữa người mua và

người bán để kiếm lợi cho bản thân

 Các nghiệp vụ bất thường: Đây là các nghiệp vụ xảy ra không thường xuyên,

không có dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít khi xảy ra. Các nghiệp vụ lại

có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó,

kiểm toán viên cần xem xét mức độ nghiêm trọng của các nghiệp vụ đó ảnh

hưởng đến kết quả chung của doanh nghiệp

9

Luận văn tốt nghiệp - 9 -

 Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu

như bất cứ ai cũng muốn thu lợi cho mình.

 Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách

 Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ mới

sinh. Các nghiệp vụ vào cuối kỳ kế toán thường để điều chỉnh một số chênh

lệch thừa thiếu để kết quả hoạt động kinh doanh được như kế hoạch đã đề ra.

Các nghiệp vụ mới phát sinh thì kiểm toán viên cần đặt câu hỏi tại sao không

phát sinh từ trước đến giờ và liệu kế toán có xử lý đúng chưa và từ đó đi tìm

bằng chứng chứng minh

 Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa

 Các khoản mục vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý chung

b. Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng

 Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh lệch lớn với

các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thông tin liên quan.

 Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán nhưng không cố ý tuy nhiên có

thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin

 Các nghiệp vụ, khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần

 Các khoản mục nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau: Đối với

các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót trong kỳ là nhỏ nhưng nếu không điều

chỉnh sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau thì được coi là trọng yếu.

 Các sai sót ảnh hưởng đến lợi nhuận thường được coi là trọng yếu như một

khoản lỗ được báo cáo như là một khoản lãi hoặc ngược lại.

 Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót sẽ gây ra hậu quả liên quan đến nhiều

khảon mục, nghiệp vụ khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến BCTC. Ví dụ hàng

tồn kho bị tính giá sai sẽ ảnh hưởng đến giá vốn hàng bán, lợi nhuận…

 Sự mô tả không đúng đắn, không xác đáng về chính sách kế toán của doanh

nghiệp làm cho người sử dụng BCTC sẽ hiểu sai về bản chất thông tin

10

Luận văn tốt nghiệp - 10 -

1.1.4 Đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính

Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính được

thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán. Quá

trình này được khái quát qua năm bước và được thể hiện qua sơ đồ 1.1

- Bước 1: Ước lượng ban đầu về trọng yếu

- Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục

- Bước 3: Ước lượng tổng số sai sót trong từng khoản mục

- Bước 4: Ước tính sai số kết hợp

- Bước 5: So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu về trọng

yếu

Sơ đồ 1.1: Các bước xác định và vận dụng tính trọng yếu

Bước 1 Ước lượng ban đầu về trọng yếu

Bước 2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các

khoản mục

Bước 3 Ước lượng tổng số sai sót trong các khoản mục

Bước 4 Ước tính sai số kết hợp

Bước 5 So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban

đầu về trọng yếu

Trong 5 bước trên, bước 1 và 2 được thực hiện trong giai đoạn lập kế

hoạch kiểm toán. Bước 3, 4, 5 được tiến hành trong giai đoạn thực hiện kiểm

toán

1.1.4.1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu

11

Luận văn tốt nghiệp - 11 -

Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán

viên tin rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh

hưởng đến các quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin tài chính. Hay

nói cách khác, đó chính là những sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn

bộ báo cáo tài chính

Việc ước lượng ban đầu về trọng yếu giúp kiểm toán viên lập kế hoạch

để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Nếu các kiểm toán viên

ước lượng mức trọng yếu càng thấp nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên

BCTC càng cao thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều và ngược lại

Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu mang tính chất xét đoán nghề

nghiệp của kiểm toán viên. Do đó, ước lượng ban đầu về trọng yếu không cố

định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán viên thấy

ước lượng ban đầu là không phù hợp vì một trong các nhân tố xác định mức

ước lượng này thay đổi.

Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm

toán” đã quy định: “Việc đánh giá của chuyên gia kiểm toán về vấn đề trọng

yếu và rủi ro kiểm toán ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể

khác với thời điểm đánh giá kết quả cuối cùng của các thủ tục kiểm toán.

Nguyên nhân của sự khác nhau này là sự thay đổi tình hình thực tế hoặc sự

thay đổi về nhận biết của chuyên gia sau một thời gian làm kiểm toán”

Mặc dù ước lượng ban đầu về trọng yếu là một xét đoán nghề nghiệp

mang tính chủ quan của kiểm toán viên song trên thực tế, để hỗ trợ cho kiểm

toán viên trong quá trình kiểm toán, các công ty thường có đường lối chỉ đạo

ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thông qua việc hướng dẫn các chỉ tiêu

được chọn làm gốc trong từng trường hợp cụ thể, tỷ lệ tính mức trọng yếu với

từng chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này phải là các chỉ tiêu có tính ổn định qua các

năm.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!