Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam
PREMIUM
Số trang
171
Kích thước
2.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
734

Bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN BẢO LÂN

BẢN SẮC DÂN TỘC

TRONG CA KHÚC MỚI VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA DÂN GIAN

MÃ SỐ: 62317005

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

PSG.TS. NGUYỄN THỤY LOAN

- HÀ NỘI 2013 -

2

QUY ƢỚC VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

Các chữ và ký hiệu viết tắt

- GS: Giáo sư

- KHCN: Khoa học Công nghệ

- KHXH: Khoa học Xã hội

- Nxb: Nhà Xuất bản

- TP: Thành phố

- tr: trang số

- (?): chưa xác định

- (…): phần không trích dẫn

Các ký hiệu nốt nhạc

- C: đô - A: la

- D: rê - B: xi giáng

- E: mi - H: xi

- F: fa - #: thăng

- G: xon - b: giáng

Các ký hiệu chữ cái trên đây chỉ biểu thị tên nốt nhạc chứ không liên

quan tới các quãng cụ thể nào theo quy định của nhạc lí phương Tây.

3

MỤC LỤC

Trang

Quy ƣớc viết tắt và ký hiệu............................................................................. 1

Mục lục ............................................................................................................. 2

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH

NGHIÊN CỨU................................................................................................. 9

1.1. Giới thuyết một số khái niệm.................................................................. 9

1.2. Tình hình nghiên cứu về bản sắc dân tộc trong văn hóa nói chung và

trong ca khúc mới ở nƣớc ta ...................................................................... 154

1.3. Các lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong

luận án.......................................................................................................................33

Tiểu kết ........................................................................................................... 43

CHƢƠNG 2: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG CA KHÚC MỚI VIỆT

NAM VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA NÓ.................................................... 45

2.1. Bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam và những yếu tố tạo nên

bản sắc đó ..................................................................................................................45

2.2. Những biến đổi của bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam... 72

Tiểu kết ........................................................................................................... 92

CHƢƠNG 3: TỪ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG CA KHÚC MỚI VIỆT

NAM, GÓP BÀN THÊM VỀ BẢN SẮC DÂN TỘC NÓI CHUNG......... 94

3.1. Về bản sắc dân tộc trong quốc gia có nhiều thành phần dân tộc ...... 94

3.2. Về tính khách quan, chủ quan của bản sắc dân tộc.......................... 112

Tiểu kết ......................................................................................................... 112

KẾT LUẬN .................................................................................................. 126

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA NGHIÊN CỨU SINH ĐÃ CÔNG BỐ

THỂ HIỆN NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ......................... 129

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 130

PHỤ LỤC..................................................................................................... 143

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Lịch sử loài người gắn liền với những nền văn hoá phong phú và đa

dạng. Mỗi quốc gia, mỗi tộc người đều có lịch sử hình thành, tồn tại và phát

triển khác nhau để tạo nên những nền văn hoá truyền thống đặc trưng của dân

tộc ấy. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, người Việt Nam đã

tạo cho mình một nền văn hoá độc đáo không lẫn vào với văn hóa của các dân

tộc khác trên thế giới, đó cũng chính là bản sắc của dân tộc Việt Nam.

Ca khúc mới Việt Nam được hình thành từ những năm 30 của thế kỷ

trước, trên cơ sở tiếp thu các kỹ thuật sáng tác cũng như phương thức ghi

nhạc của phương Tây. Chính vì vậy, đã có những ca khúc chịu ảnh hưởng

đậm nét âm nhạc nước ngoài. Tình hình này kéo dài suốt quá trình phát triển

của ca khúc từ khi hình thành cho tới nay, trong đó vấn đề bản sắc dân tộc

trong ca khúc mới Việt Nam nói riêng cũng như trong âm nhạc Việt Nam nói

chung, luôn là đề tài dành được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.

Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới (1986), nhất là trong những

năm gần đây, lĩnh vực ca khúc đã và đang có những hoạt động hết sức sôi nổi

với các chương trình ca nhạc, các cuộc thi sáng tác ca khúc mới hay các cuộc

thi tìm kiếm tài năng diễn ra muôn hình muôn vẻ. Đặc biệt, trong bối cảnh các

hoạt động giao lưu văn hóa diễn ra ngày càng gia tăng hiện nay, việc du nhập

những yếu tố âm nhạc nước ngoài vào âm nhạc Việt Nam nói chung và ca

khúc mới nói riêng cũng ngày càng đa dạng và phức tạp ở cả nội dung lẫn

hình thức biểu hiện của tác phẩm.

Trong các chương trình ca nhạc hiện nay, người ta thấy bản sắc dân tộc

trong nhiều ca khúc bị mờ nhạt, thậm chí có những ca khúc không mang bản

sắc dân tộc. Tình hình trên đã gây ra nhiều cuộc tranh luận trong giới âm nhạc

5

và cả ngoài giới âm nhạc. Thậm chí, đã có những bài viết thể hiện sự lo lắng

cho nền ca khúc Việt Nam, chẳng hạn như bài Ca khúc trẻ đi về đâu? viết

năm 2006 của Đỗ Tuấn, trong bài viết này tác giả chia sẻ: “(…) sáng tác và

thưởng thức ca khúc của giới trẻ là nhu cầu không thể thiếu trong xã hội. Tuy

nhiên thời gian qua, cả giới nhạc sĩ lẫn người nghe chân chính đều có chung

nhận xét: nhạc trẻ giờ đã biến tướng, "bị" bình dân hóa với các giai điệu lai

căng, vay mượn các nước.” [119]. Năm 2009, trong bài viết Ca khúc Việt đi

về đâu?, tác giả Nguyễn Đình San cũng đã thể hiện sự lo lắng của mình rằng:

“(…) những bài hát đang ra đời có khuynh hướng xa lạ với tình cảm lớn lao

mang tính truyền thống của người Việt như tình cảm với quê hương xứ sở, Tổ

quốc. Nghệ thuật cùng dần xa chất liệu dân gian mà có khuynh hướng lai

căng, bắt chước.” [108]…

Những lo lắng của các tác giả trên là có cơ sở, bắt nguồn từ thực trạng

đời sống ca nhạc nước nhà. Trong đó, nhiều ca khúc đang có nguy cơ xa rời

bản sắc dân tộc, nhất là những ca khúc đang phổ biến trong giới trẻ hiện nay.

Có thể nói, việc tìm hiểu những khía cạnh liên quan đến bản sắc dân tộc

để làm sáng tỏ các vấn đề trên trong bối cảnh hiện nay là cấp thiết. Chính vì

vậy, tôi đã chọn đề tài Bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam làm đối

tượng nghiên cứu cho luận án này.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Với những lý do chọn đề tài nêu trên, mục tiêu nghiên cứu đề ra cho

luận án sẽ là:

- Tìm hiểu thực chất vấn đề bản sắc dân tộc với những biểu hiện cụ thể

của nó trong ca khúc mới Việt Nam.

- Chỉ ra những yếu tố nền tảng đối với việc biểu hiện bản sắc dân tộc

trong ca khúc mới Việt Nam.

6

- Làm rõ sự biến đổi của phương thức biểu hiện bản sắc dân tộc trong

ca khúc mới ở hai giai đoạn lịch sử của đất nước là trước và trong đổi mới.

Trên cơ sở đó, đánh giá những tác động của phương thức biểu hiện tới bản sắc

dân tộc trong ca khúc Việt Nam thời đổi mới và đưa ra một vài gợi mở có thể

góp phần đưa ca khúc Việt Nam phát triển theo hướng dân tộc – hiện đại.

- Với kết quả tìm hiểu bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam, rút

ra một số nhận thức về bản sắc dân tộc nói chung.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận án chính là bản sắc dân tộc trong ca

khúc mới Việt Nam với những khía cạnh liên quan.

Phạm vi nghiên cứu:

Trong khuôn khổ luận án, không thể phân tích tất cả những ca khúc

mới đã được sáng tác cho tới nay. Vì vậy, chỉ có thể lựa chọn một số bài đã và

đang phổ biến, được sáng tác ở các giai đoạn lịch sử khác nhau của đất nước

gắn với các thế hệ tác giả ca khúc.

Chúng tôi đã cân nhắc và lựa chọn 60 ca khúc dự kiến để thực hiện

điều tra xã hội học về bản sắc dân tộc trong các ca khúc đó. Sự lựa chọn

danh sách ca khúc chính thức cho luận án này sẽ là những ca khúc có tỷ lệ

động thuận khá cao trong kết quả đánh giá của công chúng – từ 70% trở lên.

Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, có thể một số ca khúc khác ở các giai

đoạn lịch sử khác nhau sẽ được xem xét thêm – kể cả những bài chúng tôi tự

mình lựa chọn hoặc những bài đã được sử dụng trong công trình, bài viết

của tác giả khác.

Ngoài ra, một số băng, đĩa tiếng và đĩa hình về các chương trình ca

nhạc hoặc giọng hát ca sĩ đã phát hành sẽ được sử dụng để tìm hiểu phần hoà

âm phối khí cũng như phần biểu diễn.

7

Các ca khúc dành cho các lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng và những tác

phẩm thuộc thể loại thanh xướng kịch không nằm trong phạm vi nghiên cứu

của đề tài này.

4. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của luận án

- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về

bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam.

- Hệ thống hoá những khía cạnh biểu hiện của bản sắc dân tộc trong ca

khúc mới dưới góc nhìn âm nhạc học và văn hoá học.

- Làm sáng tỏ mối liên hệ giữa các yếu tố cổ truyền dân tộc với bản sắc

dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam.

- Khẳng định vai trò đặc biệt của các yếu tố dân gian đối với việc biểu

hiện bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam.

- Chỉ ra những biến đổi cụ thể của bản sắc dân tộc trong ca khúc thời

đổi mới và gợi mở phương hướng góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc trong ca

khúc Việt Nam ở thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.

- Góp bàn thêm về một số vấn đề vẫn còn tồn tại những quan điểm

chưa thống nhất hoặc trái chiều liên quan tới bản sắc dân tộc nói chung. Đó

là, mối quan hệ giữa các yếu tố dân gian với bản sắc dân tộc, bản sắc dân tộc

trong quốc gia có nhiều thành phần dân tộc và bản sắc dân tộc mang tính

khách quan hay chủ quan.

- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên

cứu những vấn đề liên quan tới bản sắc dân tộc trong âm nhạc nói riêng và

văn hóa nói chung.

5. Bố cục luận án

Với mục tiêu đề tài đã nêu trên, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu

tham khảo và phụ lục, luận án sẽ gồm 3 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về tình hình nghiên cứu

8

- Chương 2: Bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam và những

biến đổi của nó

- Chương 3: Từ bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam, góp bàn

thêm về bản sắc dân tộc nói chung.

9

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày 3 nội dung chính: một số khái

niệm cơ bản, tổng quan về tình hình nghiên cứu cùng những vấn đề đặt ra từ

đó và các lý thuyết, phương pháp sẽ được sử dụng để giải quyết các vấn đề

trong luận án.

Sau đây, xin đi vào nội dung thứ nhất của chương.

1.1. GIỚI THUYẾT MỘT SỐ KHÁI NIỆM

Luận án nghiên cứu về bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam. Vì

vậy, trước hết chúng tôi sẽ giới thuyết về hai khái niệm cốt lõi được dùng

nhiều trong luận án: “bản sắc dân tộc” và “ca khúc mới”.

1.1.1. Khái niệm “bản sắc dân tộc”

Vấn đề bản sắc dân tộc thực ra đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ

nhiều năm nay, tuy nhiên vẫn còn những quan điểm cho rằng đây là vấn đề

mang tính ước lệ, thậm chí là trừu tượng. Bởi vậy, cần tìm hiểu khái niệm này

thông qua các từ điển và cả ý kiến của các tác giả trong những công trình, bài

viết có liên quan.

Sau đây là chi tiết vấn đề.

1.1.1.1. Khái niệm “bản sắc dân tộc” qua các từ điển

Cho tới nay, chưa thấy cuốn từ điển nào đưa ra khái niệm đầy đủ về

bản sắc dân tộc. Vì vậy, nghĩa của các từ “bản sắc” và “dân tộc” sau khi được

làm rõ sẽ là cơ sở để hiểu về nghĩa chung của cụm từ “bản sắc dân tộc”.

Bản sắc (character) – theo Từ điển tiếng Việt thông dụng, là một danh

từ mang nghĩa “sắc thái, đặc tính, đặc thù riêng khác1

” [65, tr.47]. Với Từ

1 Những chữ viết nghiêng là chúng tôi dùng để nhấn mạnh ý cần nói.

10

điển tiếng Việt, “bản sắc” cũng là danh từ chỉ “những yếu tố tốt đẹp tạo nên

một tính chất đặc thù nói chung” [53, tr.82]. Còn Đại từ điển tiếng Việt cho

rằng: “bản sắc” là danh từ chỉ sắc thái, đặc tính, đặc thù riêng khác” [66,

tr.66]. Những cách giải nghĩa này đã cho thấy “bản sắc” chính là đặc tính, đặc

thù riêng có.

Dân tộc – một danh từ được Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam giải

nghĩa theo các cấp độ khác nhau: “Dân tộc (ethnie) đồng nghĩa với cộng đồng

mang tính tộc người” [121], nhưng ở cấp độ khác thì “Dân tộc (nation) hay

quốc gia dân tộc là một cộng đồng chính trị – xã hội được chỉ đạo bởi một

nhà nước thiết lập trên một lãnh thổ nhất định” [121]. Theo Từ điển tiếng Việt

thông dụng thì “dân tộc” (nation, race, nationality) là danh từ chỉ “cộng đồng

người được hình thành từ lâu đời, có ngôn ngữ, truyền thống văn hóa, tâm lí

đặc trưng” [65, tr.316]. Còn Đại từ điển tiếng Việt giải thích từ “dân tộc” theo

ba nghĩa. Nguyên văn như sau:

dân tộc dt 1. Cộng đồng người ổn định hình thành trong quá

trình lịch sử của xã hội, có chung tiếng nói, lãnh thổ, đời sống

kinh tế và tâm lý: đoàn kết dân tộc. 2. Dân tộc thiểu số, nói tắt:

ưu tiên học sinh dân tộc - cán bộ dân tộc. 3. Cộng đồng người ổn

định làm thành nhân dân một nước, một quốc gia gắn bó với

nhau trong truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi: dân tộc Việt

Nam [66, tr.399].

Khái niệm này – tuy được giải thích theo ba nghĩa, nhưng nghĩa thứ

nhất gần giống với nghĩa thứ ba, cho nên thực ra từ “dân tộc” có thể được

hiểu theo hai cấp độ dân tộc có quy mô khác nhau. Ở cấp độ thứ nhất, “dân

tộc” ứng với quy mô quốc gia như trong các ví dụ được trích ở trên: “đoàn kết

dân tộc”, “dân tộc Việt Nam”. Ở cấp độ thứ hai, “dân tộc” ứng với quy mô

dân tộc ít người trong một quốc gia – dân tộc như ở các ví dụ: “ưu tiên học

sinh dân tộc”, “cán bộ dân tộc”.

11

Qua cách giải thích của các từ điển, có thể hiểu “dân tộc” là danh từ chỉ

một cộng đồng người có lịch sử hình thành cụ thể với những mối liên kết đặc

trưng. Dân tộc có hai cấp độ là dân tộc tộc người và dân tộc quốc gia.

Với nghĩa của các danh từ “bản sắc” và “dân tộc” ở trên, kết hợp lại

thành cụm danh từ “bản sắc dân tộc”, trong đó danh từ “bản sắc” là yếu tố

nói lên những đặc tính cốt cách của tất cả mọi sự vật hiện tượng từ nhỏ đến

lớn, chẳng hạn như bản sắc cá nhân, bản sắc gia đình, bản sắc địa phương,

bản sắc tộc người…, còn danh từ “dân tộc” là yếu tố giới hạn cụ thể cho ý

nghĩa của danh từ “bản sắc”, ví dụ: dân tộc tộc người, dân tộc quốc gia…

Như vậy, có thể hiểu: bản sắc dân tộc là bản tính, cốt cách của một cộng

đồng người với những lối suy nghĩ, tiến hành và biểu hiện văn hóa theo cách

riêng của dân tộc mình.

1.1.1.2. Khái niệm “bản sắc dân tộc” qua các công trình, bài viết

Trong những năm gần đây, cụm từ “bản sắc dân tộc” thường được

các nhà nghiên cứu sử dụng trong các công trình, bài viết, nhất là những

bài có liên quan đến lĩnh vực văn hóa nghệ thuật của nước nhà. Một số tác

giả còn đưa ra khái niệm cụ thể về cụm từ này nhằm phục vụ cho các mục

tiêu liên quan đến văn hóa dân tộc mà họ đang được tìm hiểu. Có thể dẫn ra

một số trường hợp:

Tìm hiểu về bản sắc dân tộc của văn hóa, các tác giả Đỗ Huy và

Trường Lưu cho rằng: “bản sắc dân tộc chính là cách thức tiến hành xây dựng

nền văn hoá văn minh của dân tộc ấy” [18, tr.06].

Cũng tìm hiểu bản sắc dân tộc trong lĩnh vực văn hóa, Quang Đạm –

tác giả bài viết Thử miêu tả bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa Việt Nam nhận

xét: “Bản sắc dân tộc là sắc thái bao quát một cách uyển chuyển, linh hoạt

những đặc điểm của một dân tộc tạo nên diện mạo và dạng hình riêng của dân

12

tộc ấy không thể đồng nhất với các dân tộc khác trong cộng đồng khu vực hay

là cộng đồng loài người” [62, tr.15].

Phạm Vũ Dũng, trong cuốn Hỏi và đáp về cơ sở văn hoá Việt Nam thì giải

thích bản sắc dân tộc như sau: “Bản sắc văn hoá dân tộc (…) là căn cước, là

chứng minh thư của văn hoá bất kỳ dân tộc nào. Nó chính là cái để phân biệt văn

hoá dân tộc này và văn hoá dân tộc khác, khiến cho văn hoá của dân tộc này

không trở thành “cái bóng” của văn hoá dân tộc khác và ngược lại” [46, tr.22].

Tác giả Trần Độ qua bài Về bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam

nhận định: “(…) tìm bản sắc dân tộc là tìm cái cốt lõi, cái tinh túy của tính

dân tộc ở mỗi lĩnh vực cụ thể của văn hóa và nghệ thuật” [62, tr.25].

Bàn về bản sắc dân tộc trong lĩnh vực âm nhạc, nhà nghiên cứu Nguyễn

Thụy Loan – tác giả bài viết Bàn về biến số - hằng số và bản sắc dân tộc

trong âm nhạc Việt Nam viết: “Tìm bản sắc dân tộc trong âm nhạc Việt Nam

(…) đó là tìm những gì mà người Việt Nam ưa thích sử dụng trong âm nhạc

của mình và gìn giữ chúng trong chiều dài lịch sử.” [30, tr.01].

Trong bài viết Giữ lấy bản sắc trong nền âm nhạc Việt Nam của

Nguyễn Thanh có đoạn: “Vậy thì bản sắc văn hóa Việt Nam là gì? (…) ở một

giới hạn nào đó cái bản sắc ấy là ngôn ngữ, hơi thở, nhịp điệu, thẩm mỹ của

người dân Việt Nam được thể hiện qua ngôn ngữ âm nhạc, mà người nghe

thông qua đó sẽ biết chắc chắn đấy là âm nhạc Việt Nam” [44, tr.1111-1112].

Mặc dù khái niệm về bản sắc dân tộc trong các công trình bài viết dẫn

ra ở trên được giải thích chủ yếu nhằm phục vụ mục tiêu nghiên cứu của tác

giả, chúng đều phản ánh những đặc điểm riêng riêng của một dân tộc, là cái

dùng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.

Một điểm cũng cần lưu ý – như đã trình bày ở tiểu mục 1.1.1.1, theo

cách giải thích trong các từ điển, từ “dân tộc” có thể được sử dụng và được

hiểu theo hai cấp độ khác nhau. Trên thực tế, cho tới nay, ở Việt Nam, từ

13

“dân tộc” cũng vẫn thường được dùng chung cho cả hai cấp độ là quốc gia

và tộc người. Chẳng hạn, trong Văn kiện của Đảng về chính sách Dân tộc,

điều này đã được thể hiện qua đoạn viết: “Các dân tộc2

trong đại gia đình

Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”

[123, tr.01]; hoặc cũng Văn kiện của Đảng ở Hội nghị đại biểu toàn quốc

giữa nhiệm kỳ khóa VII có ghi: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở

rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc

văn hóa dân tộc” [111, tr.01]. Có thể thấy, nội dung đoạn trích thứ nhất thể

hiện từ “dân tộc” thay thế từ “tộc người”, còn từ “dân tộc” trong nội dung

đoạn trích thứ hai thì thể hiện ở cấp độ “dân tộc quốc gia”. Vì thế, khái niệm

bản sắc dân tộc cũng có thể được sử dụng khi nói về văn hóa của một dân

tộc theo một trong hai cấp độ nói trên – dân tộc ở cấp độ quốc gia hoặc dân

tộc ở cấp độ tộc người.

Như vậy, với cách giải thích của các từ điển cũng như cách giải thích

của các tác giả công trình, bài viết, có thể định nghĩa: bản sắc dân tộc chính

là tính cách riêng của một cộng đồng người với những lối suy nghĩ, tiến hành

và biểu hiện văn hóa theo cách của dân tộc mình.

Trong một số công trình, bài viết, có khi những cụm từ “tính dân tộc”,

“tính cách dân tộc”, “bản sắc văn hóa của quốc gia – dân tộc” được sử dụng

thay vì cụm từ “bản sắc dân tộc”. Về cơ bản, những cụm từ trên đều chứa

đựng ý nghĩa tương tự như “bản sắc dân tộc”. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở

phía trên, bởi thuật ngữ “dân tộc” có thể được dùng cho cả hai cấp độ, cho

nên, trong luận án này, chúng tôi sẽ tìm hiểu các vấn đề về bản sắc dân tộc ở

cả cấp độ tộc người và quốc gia. Ngoài ra, trong một chừng mực nhất định,

bản sắc vùng cũng sẽ được xem xét như là một cấp độ cộng cư của những tộc

khác nhau trong một địa bàn nhỏ hơn cấp độ quốc gia.

2 Các chữ nghiêng – đậm là chúng tôi muốn nhấn mạnh.

14

Tuy nhiên, để tách bạch hai cấp độ đầu tiên liên quan tới khái niệm

này, khi đề cập tới những vấn đề liên quan tới bản sắc dân tộc ở cấp độ quốc

gia, chúng tôi sử dụng cụm từ “dân tộc”, còn khi đề cập những vấn đề liên

quan tới bản sắc dân tộc của từng tộc trong đại gia đình Việt Nam thì chúng

tôi dùng cụm từ “tộc người” hoặc “thành phần dân tộc”.

1.1.2. Khái niệm “ca khúc mới” đƣợc dùng trong luận án

Trước hết, đây là một khái niệm phổ thông thường dùng để chỉ những

ca khúc được hình thành từ những năm 30 của thế kỷ trước, trên cơ sở tiếp

thu các thủ pháp sáng tác và phương thức ghi nhạc của phương Tây – như đã

nêu ở mục Lý do chọn đề tài. Nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Loan

cho rằng “ca khúc mới” là cách gọi tắt của “ca khúc nhạc mới”

3

, như một

cách để phân biệt với các bài dân ca thuộc loại ca khúc trong âm nhạc cổ

truyền Việt Nam.

Cụm từ “ca khúc mới” còn thường được nhiều người gọi tắt là “ca

khúc” với cách hiểu cùng nghĩa. Có thể dễ dàng tìm thấy cách gọi này ở ngay

trang bìa các tuyển tập như: Về quê – 60 ca khúc4

phát triển dân ca người Việt

(Nxb Âm nhạc phát hành năm 2002); 30 năm ca khúc Việt Nam 1975 – 2005

(Hội Nhạc sĩ Việt Nam – Nxb Âm nhạc phát hành năm 2005); Bài hát Việt –

99 ca khúc tuyển chọn trong chương trình bài hát Việt 2005 (Nxb Thanh niên

phát hành năm 2006)… Vì vậy, trong luận án này, chúng tôi cũng sẽ sử dụng

cụm từ “ca khúc mới” theo cả hai cách gọi như trên – “ca khúc mới” hoặc “ca

khúc”, cho phù hợp với từng tình huống nghiên cứu. Riêng cụm từ “ca khúc

thời đổi mới” cũng mang ý nghĩa là ca khúc mới nhưng được sáng tác ở thời

kỳ đổi mới của đất nước.

Tiếp theo, xin chuyển sang nội dung thứ hai của chương.

3 Theo bài giảng của nhà nghiên cứu Nguyễn Thụy Loan, Hà Nội tháng 8 - 2013.

4 Chữ nghiêng gạch chân là do chúng tôi muốn nhấn mạnh.

15

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG

VĂN HÓA NÓI CHUNG VÀ TRONG CA KHÚC MỚI Ở NƢỚC TA

Do mục tiêu nghiên cứu của luận án có liên quan mật thiết tới bản sắc

dân tộc nói chung, vì thế trong mục này cần tìm hiểu cả những công trình bài

viết liên quan ít nhiều tới bản sắc dân tộc trong văn hóa nói chung của các tác

giả đi trước. Xin được bắt đầu bằng tiểu mục dưới đây:

1.2.1. Khái quát về các giai đoạn nghiên cứu

Trước khi trình bày tình hình nghiên cứu về bản sắc dân tộc trong ca

khúc mới Việt Nam, chúng tôi sẽ xem xét tình hình nghiên cứu về bản sắc dân

tộc trong các lĩnh vực văn hóa và âm nhạc nói chung ở nước ta:

1.2.1.1. Trong các lĩnh vực văn hóa và âm nhạc nói chung

Việc nghiên cứu về bản sắc dân tộc trong các lĩnh vực văn hóa ở Việt

Nam đã có từ lâu. Tuy nhiên, căn cứ vào kết quả phản ánh lịch sử đất nước từ

những tài liệu thu thập được, chúng tôi chia tình tình nghiên cứu ở nước ta về

bản sắc dân tộc trong văn hóa nói chung thành những giai đoạn sau:

a, Giai đoạn trước 1954

Đây là giai đoạn lịch sử khá phức tạp – mặc dù chính quyền thực dân

Pháp còn hiện diện công khai trên đất nước ta, nhất là ở những vùng thành thị,

vẫn có sự đan xen của các nhóm hoạt động chính trị khác. Đặc biệt, từ khi

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) đã trở thành một lực lượng đối lập và

tiến tới giành chính quyền (1945). Nhiều ca khúc cách mạng cũng vì thế mà

kịp thời ra đời đáp ứng nhiệm vụ đấu tranh cách mạng cùng với không khí

hưởng ứng của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, do bối cảnh thực tiễn lịch

sử, mọi hoạt động nghiên cứu khoa học giai đoạn này nhìn chung vẫn bị chi

phối theo sự quản lý của chế độ thực dân.

Được biết có một số một số công trình nghiên cứu về văn hóa Việt

Nam của các học giả Pháp, tuy nhiên cho đến nay vẫn không thấy có tài liệu

nào có liên quan trực tiếp đến bản sắc dân tộc trong lĩnh vực âm nhạc.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!