Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

ÁN LỆ TẠI VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
PREMIUM
Số trang
375
Kích thước
5.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
978

ÁN LỆ TẠI VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

KỶ YẾU TOẠ ĐÀM

ÁN LỆ TẠI VIỆT NAM

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 12 NĂM 2021

1

BAN TỔ CHỨC

1. Ban chỉ đạo và điều phối:

- PGS.TS. Nguyễn Tiến Dũng – Hiệu trưởng: Trưởng ban

- PGS.TS. Lê Vũ Nam – Phó Hiệu trưởng: Phó ban

- PGS. TS. Nguyễn Thị Hồng Nhung - Trưởng Khoa Luật: Phó ban phụ trách

- TS. Lê Nguyễn Gia Thiện - Phó trưởng Khoa Luật: Thành viên

2. Ban biên tập và hiệu đính:

- TS. Lê Nguyễn Gia Thiện - Phó trưởng Khoa Luật: Trưởng ban

- TS. Đoàn Thị Phương Diệp - Trưởng phòng Thanh Tra: Thành viên

- TS. Thái Thị Tuyết Dung - Giảng viên Khoa Luật: Thành viên

- ThS. Lưu Minh Sang - Giảng viên Khoa Luật: Thành viên

- ThS. Trần Thị Lệ Thu - Giảng viên Khoa Luật: Thành viên

- ThS. Châu Quốc An - Giảng viên Khoa Luật: Thành viên

- ThS. Bạch Thị Nhã Nam - Giảng viên Khoa Luật: Thành viên

- ThS. Lưu Đức Quang - Giảng viên Khoa Luật: Thành viên

- ThS. Huỳnh Thị Nam Hải - Giảng viên Khoa Luật: Thành viên

3. Ban kỹ thuật, hậu cần:

- ThS. Ngô Minh Tín - Giảng viên Khoa Luật: Trưởng ban

- ThS. Lê Hoài Nam - Giảng viên Khoa Luật: Thành viên

2

Thời gian: 8h00 ngày 03 tháng 12 năm 2021

Địa điểm: Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG-HCM

MỤC LỤC

NỘI DUNG Tr

MỘT SỐ GÓP Ý XÂY DỰNG ÁN LỆ VỀ CÁC CĂN CỨ XÁC ĐỊNH MỨC

LÃI SUẤT ĐIỀU CHỈNH TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Lương Khải Ân - Nguyễn Đức Vinh........................................................................ 06

BÌNH LUẬN ÁN LỆ 04/2016/AL

Trương Kỳ Danh....................................................................................................... 15

NATURE OF PRECEDENTS IN VIETNAM

Vu Kim Hanh Dung - Phan Thi Huong Giang ......................................................... 20

NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN CỦA BÊN MUA BẢO HIỂM KHI ĐƠN

YÊU CẦU BẢO HIỂM CÓ YÊU CẦU KHÔNG RÕ RÀNG

Nguyễn Võ Linh Giang ............................................................................................ 34

ÁN LỆ Ở CỘNG HOÀ PHÁP

Trần Nguyễn Quang Hạ - Hồ Trần Bảo Trâm.......................................................... 45

ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH - MỸ VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ

CHO VIỆT CÔNG BỐ VÀ ÁP DỤNG ÁN LỆ TẠI VIỆT NAM

Đoàn Thị Ngọc Hải................................................................................................... 57

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 41/2021/AL VỀ CHẤM DỨT HÔN NHÂN THỰC TẾ

Huỳnh Thị Nam Hải ................................................................................................. 70

VAI TRÒ CỦA ÁN LỆ TRONG VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TẠI

NHẬT BẢN – GÓC NHÌN TỪ MỘT SỐ ÁN LỆ VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

Liên Đăng Phước Hải ............................................................................................... 76

BÀN VỀ VAI TRÒ CỦA ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT PHÁP

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh............................................................................................... 87

ÁN LỆ 36/2020/AL VÀ QUY ĐỊNH VỀ BÊN NGAY TÌNH

Trương Trọng Hiểu................................................................................................... 91

3

THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI

TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM

Nguyễn Huy Hoàng - Nguyễn Thị Lan Anh - Ngô Trần Thảo Nguyên .................. 96

ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN

NHÂN DÂN CÁC CẤP

Trần Linh Huân - Trần Thị Diện .............................................................................. 107

ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI VIỆT NAM –

THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

Trần Linh Huân - Nguyễn Phạm Thanh Hoa ........................................................... 118

LẼ CÔNG BẰNG TRONG MỘT SỐ ÁN LỆ TẠI VIỆT NAM

Nguyễn Thị Minh Huệ.............................................................................................. 127

ÁP DỤNG ÁN LỆ Ở TRUNG QUỐC - HÀM Ý CHÍNH SÁCH VÀ MỘT SỐ

KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Tạ Quốc Liễu ............................................................................................................ 138

ÁN LỆ CỦA TRỌNG TÀI ĐẦU TƯ QUỐC TẾ: VAI TRÒ VÀ VIỆC SỬ

DỤNG VÀO GIẢNG DẠY, NGHIÊN CỨU TRONG LĨNH VỰC PHÁP LUẬT

ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

Trần Thăng Long ...................................................................................................... 147

SỬ DỤNG BẢN ÁN VÀ ÁN LỆ TRONG HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY PHÁP

LUẬT TẠI VIỆT NAM

Bạch Thị Nhã Nam - Nguyễn Thị Long................................................................... 165

QUY ĐỊNH ÁP DỤNG ÁN LỆ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ SO SÁNH GIỮA BỘ

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VÀ NGHỊ QUYẾT SỐ 04/2019/NQ￾HĐTP – MỘT SỐ BÌNH LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Lê Hoài Nam ............................................................................................................ 179

ÁN LỆ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ GỢI MỞ CHO VIỆT

NAM

Nguyễn Thái Ngân - Nguyễn Đan Chi..................................................................... 187

QUYỀN LỰA CHỌN TÒA ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG

THEO MẪU CÓ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG

THEO ÁN LỆ SỐ 42/2021/AL

Nguyễn Thị Hồng Nhung - Huỳnh Thị Nam Hải..................................................... 200

ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI

TẠI VIỆT NAM

4

Nguyễn Thị Hồng Nhung - Nguyễn Lê Mỹ Kim ..................................................... 208

Ý NGHĨA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT

XỬ CỦA TÒA ÁN VIỆT NAM

Nguyễn Công Phú..................................................................................................... 217

GIẢNG DẠY ÁN LỆ TẠI MÔI TRƯỜNG ĐẠI HỌC

Mai Hoàng Phước - Trần Thiên Trang - Nguyễn Thị Xuân Mai ............................. 222

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 39/2020/AL VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ ĐIỀU

KIỆN VÔ HIỆU DO ĐIỀU KIỆN KHÔNG XẢY RA

Lê Thị Diễm Phương ................................................................................................ 227

THỰC TIỄN SAU 6 NĂM ÁP DỤNG ÁN LỆ TẠI VIỆT NAM

Nguyễn Ngọc Thanh Phương - Phan Huy Quyền - Lê Nữ Thành Minh.................. 234

PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN VỀ ÁN LỆ 42/2021/AL

Trần Đức Phượng ..................................................................................................... 240

ÁN LỆ VÀ VIỆC VẬN DỤNG ÁN LỆ TRONG GIẢNG DẠY LUẬT DÂN SỰ

Nguyễn Thị Vy Quý ................................................................................................. 253

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁN LỆ

Nguyễn Thanh Quyên - Nguyễn Phan Vân Anh...................................................... 263

TÌNH HUỐNG TƯƠNG TỰ, TÌNH HUỐNG HƯỚNG DẪN - “ÁN LỆ MANG

MÀU SẮC TRUNG QUỐC” VÀ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI VIỆT NAM

Lưu Minh Sang - Nguyễn Ngọc Phương Hồng ........................................................ 273

ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT LIÊN BAN NGA HIỆN ĐẠI VÀ

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN ÁN LỆ Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY

Mai Văn Thắng - Nguyễn Hùng............................................................................... 285

SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP

QUỐC TẾ VIỆT NAM

Ngô Minh Phương Thảo - Hồ Phúc Nguyên............................................................. 299

BÀN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ÁN LỆ VÀ HOẠT ĐỘNG GIẢI THÍCH

PHÁP LUẬT CỦA TOÀ ÁN

Phạm Thị Phương Thảo............................................................................................ 311

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 21/2018/AL VỀ XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI

THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TRƯỜNG HỢP CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG

THUÊ TÀI SẢN TRƯỚC THỜI HẠN

5

Lê Nguyễn Gia Thiện - Phạm Phương Thảo............................................................ 319

ÁN LỆ SỐ 42/2021/AL – NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CƠ QUAN GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP

LÊ NGUYỄN GIA THIỆN - NGUYỄN THƯƠNG THƯ....................................... 331

ÁP DỤNG ÁN LỆ VỀ KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG

XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN TẠI VIỆT NAM

Lại văn Trình - Nguyễn Vĩnh Lộc ............................................................................ 337

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 21/2018/AL

Nguyễn Thị Lâm Vy................................................................................................. 359

BÀN VỀ VẤN ĐỀ ĐẢO NGƯỢC ÁN LỆ VÀ HIỆU LỰC HỒI TỐ CỦA ÁN

LỆ ĐẢO NGƯỢC TRONG PHÁP LUẬT CỘNG HOÀ PHÁP

Lê Thị Ngọc Yến ...................................................................................................... 368

6

MỘT SỐ GÓP Ý XÂY DỰNG ÁN LỆ VỀ CÁC CĂN CỨ XÁC ĐỊNH MỨC LÃI

SUẤT ĐIỀU CHỈNH TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

TS. LS Lương Khải Ân

Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh

TS. Nguyễn Đức Vinh

Trường Đại học Ngoại thương – Cở sở II

Dẫn nhập:

Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ban hành ngày 18/6/2019 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ đã đề ra

các tiêu chí lựa chọn án lệ. Theo đó, Điều 2 Nghị quyết quy định như sau: “1. Có giá trị

làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn

đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp

dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có

điều luật quy định cụ thể; 2. Có tính chuẩn mực; 3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống

nhất pháp luật trong xét xử”. Việc lựa chọn một bản án đã được các cấp Tòa án xét xử

để nghiên cứu, phát triển thành án lệ (Điều 3 của Nghị quyết), đáp ứng đầy đủ các tiêu

chí viện dẫn trên gặp phải không ít khó khăn. Đặc biệt là trong vấn đề xác định mức lãi

suất được điều chỉnh phù hợp với từng bối cảnh kinh tế cần phải được thống nhất trong

nhận thức, có tính khoa học. Do đó, nhóm tác giả bài viết dựa vào Điều 2 của Nghị quyết

như viện dẫn, từ đó phân tích dưới góc độ pháp lý, ngân hàng làm định hướng cho việc

xây dựng một án lệ về căn cứ xác định mức lãi suất điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng,

vốn dĩ vẫn đang là lỗ hổng trong thực tiễn giao dịch và giải quyết tranh chấp.

Từ khóa: án lệ, lẽ công bằng, mức lãi suất, điều chỉnh lãi suất, hợp đồng tín dụng.

1. Cơ sở lý luận về căn cứ xác định mức lãi suất điều chỉnh trong quan hệ hợp đồng

tín dụng

1.1. Biến động lãi suất đặt ra trách nhiệm dự phòng rủi ro qua các căn cứ xác định

mức lãi suất điều chỉnh hợp lý

(1) Sự thay đổi lãi suất là tất yếu trên thị trường tiền tệ

“Lãi suất” được đề cập trong lĩnh vực ngân hàng với ý nghĩa là giá cả khoản vay,1

thước đo để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, cũng như

các nhu cầu vốn trên thị trường tiền tệ. Thật vậy, với sự chi phối của quy luật cung cầu

vốn, lãi suất luôn có những biến động khó lường. Điều này cũng đặt ra những thách thức

đối với các nhà làm luật trong việc ban hành các quy định hạn chế rủi ro về lãi suất thông

qua các chính sách điều tiết của Nhà nước cũng như trao quyền cho các tổ chức tín dụng

tự quyết định cơ chế tính lãi suất hợp lý trong quan hệ với khách hàng được cấp tín dụng.

Kể cả khi có những biến động lớn trên thị trường tiền tệ, những thay đổi về lãi suất được

1 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb. Hồng Đức tr. 305

7

các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cũng không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến

hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng.

Tong quan hệ tín dụng ngân hàng, với bản chất là kênh cung ứng vốn cho nền kinh

tế, ngân hàng thực hiện chức năng chính là “đi vay để cho vay” 2

. Quan hệ này được hiện

diện dưới hình thức pháp lý là các hợp đồng tín dụng được ký kết giữa một bên là các tổ

chức tín dụng với bên kia là các khách hàng vay. Trong đó, điều khoản về lãi suất chính

là điều khoản cơ bản, bắt buộc phải có ghi rõ mức lãi, kỳ hạn áp dụng để bảo đảm thực

thi. Mức lãi suất cao hay thấp thể hiện qua các hợp đồng này tuy được các bên tự nguyện

thỏa thuận nhưng phần nào cũng phản ánh lợi nhuận thu được sau khi xét đến các chi phí

họ đã bỏ ra (giá vốn). Do đó, những thay đổi về lãi suất cần dựa vào các căn cứ pháp lý

cụ thể trong đó có tính đến dự phòng những rủi ro thông qua các biện pháp nghiệp vụ,

pháp lý. Đặc biệt, là đối với các tổ chức tín dụng với tư cách là bên cho vay, luôn chủ

động trong việc lựa chọn khách hàng và giao kết hợp đồng tín dụng, ấn định mức lãi suất.

(2) Dự phòng rủi ro lãi suất bằng chính lãi suất điều chỉnh trong giao dịch tín dụng

Khác với lãi suất trong giao dịch dân sự, các quy định về lãi suất trong quan hệ tín

dụng ngân hàng còn chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố có thể gây ra những thiệt hại cho tổ

chức tín dụng bất kỳ lúc nào nếu không tính toán kỹ lưỡng. Do đó, thỏa thuận này (lãi

suất) cũng phải thể hiện được những căn cứ để hạn chế thiệt hại có thể xảy ra, cho dù các

nhà làm luật trao quyền cho các bên tự nguyện thỏa thuận và thống nhất áp dụng các mức

lãi suất. Điều này hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu trong khoa học và thực tiễn giao

kết hợp đồng tín dụng theo các điểm sau đây:

- Khoa học ngân hàng, điều chỉnh rủi ro về lãi suất trong hợp đồng tín dụng được

xem như là một dạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Joel Bessis trong tác phẩm

“Quản trị rủi ro tín dụng” (Risk Management in Banking) đã có những phân tích sâu sắc

về những rủi ro nếu ngân hàng áp dụng lãi suất cố định: “Một người vay với lãi suất cố

định đối mặt với lãi suất đó tăng, khi đó người cho vay phải chịu chi phí cơ hội – chi phí

là không thể cho vay với lãi suất cao hơn”3

. Đồng nghĩa rằng, quyết định lựa chọn điều

chỉnh lãi suất gần như là một yêu cầu bắt buộc đối với tổ chức dụng, khi đó mới ràng

buộc cụ thể trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ hợp đồng này.

- Thực tiễn tại các ngân hàng thương mại, vấn đề rủi ro lãi suất cũng luôn được

chú ý đặt ra, đó là “rủi ro khi nguồn tiền trong tương lai của công cụ tài chính diễn biến

bất thường do những biến động của lãi suất thị trường”4

. Điều này càng tiếp tục khẳng

định rằng, điều chỉnh lãi suất là không thể thiếu được trong các hợp đồng tín dụng, nhất

là đối với các khoản vay dài hạn vốn dĩ thường có nhiều rủi ro khó lường hơn do những

biến động của thị trường khó dự đoán đúng.

2 Thuật ngữ này sử dụng phổ biến trong khoa học ngân hàng nhằm xác định bản chất kinh tế: khai thác các nguồn lợi

vốn để mở rộng tín dụng (Xem: Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Tổ chức hợp tác kỹ thuật Cộng hòa liên bang

Đức (1997), Pháp luật về Ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại các nước, Nxb. Thế giới (Hà Nội), tr. 67

3

Joel Bessis (Bản dịch của Trần Hoàng Ngân, Đinh Thế Hiển), Risk Management in Banking (Quản trị rủi ro trong

ngân hàng), Nxb. Lao động xã hội, tr. 108

4 Thuyết minh Báo cáo tài chính hợp nhất tháng 12/2017 của Ngân hàng Vietcombank, tr. 58

8

Qua đó cũng cho chúng ta thấy rằng, điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng

ngân hàng có những khác biệt cơ bản so với lãi suất trong quan hệ hợp đồng vay tài sản.

Các quy định của pháp luật dân sự chỉ quy định chung chung trần lãi suất cho phép các

bên áp dụng. Việc có áp dụng quy định điều chỉnh lãi suất và mức lãi suất điều chỉnh hay

không do các bên tự quyết định trong phạm vi, khuôn khổ cho phép, không cần đặt ra các

căn cứ xác định mức lãi suất điều chỉnh như trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng.

1.2. Các tiêu chí xác định mức lãi suất điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng

Lý thuyết về lãi suất chỉ rõ, tự do lãi suất là định hướng mang tính chiến lược, loại

bỏ những áp lực can thiệp của nhà nước bằng các biện pháp hành chính lên lãi suất.5 Chủ

trương này được ghi nhận cả trong quan hệ dân sự và ngân hàng. Song chính đặc thù

quan hệ pháp lý tín dụng dân sự, ngân hàng vốn dĩ có những khác biệt cơ bản nên tự do

lãi suất cũng có những khác biệt. Tuy vậy, mục tiêu chính là vẫn nhằm hướng đến quyền

tiếp cận vốn, hiệu quả, hiệu lực của hợp đồng tín dụng (ngân hàng). Điều này cũng đặt ra

việc xác định các căn cứ điều chỉnh lãi suất như thế nào mới phù hợp, đáp ứng yêu cầu về

mức lãi suất điều chỉnh rõ ràng có thể tính toán được, bảo vệ quyền lợi chính đáng của

khách hàng đi vay như đúng nghĩa6

:

(i) Lãi suất điều chỉnh phải thể hiện được chi phí và lợi nhuận của tổ chức tín

dụng, hiệu quả cho các nhà đầu tư vào ngân hàng. Các căn cứ điều chỉnh lãi suất phải ấn

định cụ thể như viện dẫn, không được ghi chung chung thiếu căn cứ để xác định mức lãi

như hợp đồng tín dụng của một ngân hàng có ghi: “Lãi suất trong hạn sau điều chỉnh

được tính trên cơ sở giá vốn tại ngày điều chỉnh lãi suất cộng với biên độ ….%”.7 Trường

hợp hợp đồng tín dụng cố ý loại bỏ các điều kiện này thì bắt buộc phải áp dụng theo các

quy định của pháp luật, giải quyết theo hướng bảo đảm quyền lợi của người vay. Do vậy,

chi phí khoản vay cũng phải xét đến lãi suất tiền gửi tiết kiệm được công khai minh bạch

và các chi phí quản lý vận hành hoạt động ngân hàng được chứng minh và với mức lợi

nhuận phù hợp. Tổ chức tín dụng không được tự ý ấn định các căn cứ xác định mức lãi

suất điều chỉnh thiếu minh bạch, áp đặt, bất lợi cho người vay dưới bất kỳ hình thức nào.

(ii) Điều chỉnh mức lãi suất về nguyên tắc không được quá thấp hoặc quá cao trên

thị trường nhằm bảo đảm quyền tiếp cận vốn của người vay, dòng vốn tín dụng được đưa

vào hoạt động kinh doanh, tiêu dùng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, các chính sách an

sinh xã hội. Do đó, các căn cứ này phải đảm bảo tính hợp lý của lãi suất cũng như đặt thù

trong từng hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. Lãi suất khó có thể có sự đồng

5 Đây là chủ trương của Đảng ghi tại Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng

nhiệm vụ kinh tế xã hội 5 năm 2006 – 2010 về việc “Thực hiện chính sách lãi suất thỏa thuận theo nguyên tắc thị

trường”

6 Điều 10 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi năm 2017 quy định bảo vệ quyền lợi của khách hàng như

sau: “4. Thông báo công khai lãi suất tiền gửi, phí dịch vụ, các quyền, nghĩa vụ của khách hàng đối với từng loại

sản phẩm, dịch vụ đang cung ứng;”

7 Xem: Mẫu hợp đồng tín dụng Ngân hàng TQ chi nhánh TP.HCM,

https://www.bankofchina.com.vn/pic/bocappd/vietnam/201712/P020171226567505556727.pdf, truy cập ngày

21/11/2021

9

nhất giữa các tổ chức tín dụng làm triệt tiêu quy luật cạnh tranh của thị trường tín dụng,

nhưng không vì thế điều chỉnh lãi suất thiếu hợp lý.

Vì vậy, điều chỉnh lãi suất trong quan hệ hợp đồng tín dụng là thực tế khách quan,

phù hợp với những biến động của thị trường tiền tệ, nhu cần vốn giữa các bên luôn có

những thay đổi. Qua đó, lãi suất mới đi vào thực tiễn các giao dịch theo đúng nguyên tắc

minh bạch và công bằng mang đến quyền lợi của tổ chức tín dụng và cả quyền lợi của

người vay. Trong cơ chế này, thỏa thuận điều chỉnh lãi suất phải tránh tình trạng hợp

đồng tín dụng do tổ chức tín dụng chủ động soạn thảo tự ấn định các điều khoản có lợi

cho mình, không phát huy hiệu quả của các mức lãi suất điều chỉnh như đúng nghĩa.

2. Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về căn cứ xác định mức lãi suất điều

chỉnh qua thực tiễn hợp đồng tín dụng và hoạt động xét xử của tòa án

2.1. Đối với việc điều chỉnh lãi suất trong quan hệ hợp đồng tín dụng

Thỏa thuận của các bên về lãi suất cũng là đặc trưng riêng biệt của quan hệ tín

dụng ngân hàng. Thật vậy, Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi năm

2017 quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng như sau: “2.

Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong

hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”. Quy định theo

điều luật này cũng cho thấy những khác biệt cơ bản về mức lãi suất thỏa thuận đạt được,

so với quy định theo pháp luật dân sự ấn định mức trần lãi suất (20%/năm), vượt quá mức

này là trái pháp luật.8 Song như thế không có nghĩa là các bên (tổ chức tín dụng và khách

hàng vay) tự do hoàn toàn trong việc thỏa thuận lãi suất, mà phải tuân thủ những giới hạn

nhất định. Đó chính là các căn cứ xác định mức lãi suất điều chỉnh được thỏa thuận ghi

trong hợp đồng tín dụng, phù hợp quy định của pháp luật.9

Thực tiễn áp dụng cho thấy vấn đề này vẫn chưa phát huy hiệu quả, vì phần lớn

các cấp tòa án gặp không ít khó khăn trong việc xác định căn cứ và mức lãi suất điều

chỉnh theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Đây cũng là lý do Tòa án nhân dân tối

cao từng ban hành Án lệ số 08/2016/AL về việc xác định lãi suất, điều chỉnh lãi suất

trong hợp đồng tín dụng áp dụng cả trong giai đoạn xét xử và cho đến khi thi hành xong

(còn gọi là “Án lệ số 08/2016/AL”).10

Theo nội dung Án lệ này thì Ngân hàng thương mại cổ phần NTVN - Chi nhánh

TL (ngân hàng) và Công ty cổ phần Dược phẩm K (Công ty K) ký kết 04 (bốn) HĐTD,

được bảo đảm bằng tài sản là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Do Công ty K

chỉ mới trả được một phần tiền nợ gốc và nợ lãi, ngân hàng khởi kiện yêu cầu tòa án buộc

8 Xem: Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015

9 Điều 7 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ban hành ngày 11/1/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp

luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “2. Khi giải quyết tranh

chấp hợp đồng tín dụng, Tòa án áp dụng quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, văn bản quy phạm pháp luật quy

định chi tiết, hướng dẫn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng để giải quyết mà không áp dụng quy định về giới hạn lãi

suất của Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định lãi, lãi suất.”

10 Xem: Quyết định số 698/QĐ-CA ban hành ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công bố án

lệ

10

Công ty K phải thanh toán số tiền còn nợ là 8.197.957.837 đồng (Trong đó: nợ gốc là

5.457.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 397.149.467 đồng, nợ lãi quá hạn tính đến ngày

xét xử sơ thẩm là 2.343.808.370 đồng) và xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ… Bản án

sơ thẩm số 32/2011/KDTM-ST ngày 24/3/2011, Tòa án quyết định: “1. Chấp nhận một

phần yêu cầu khởi kiện… Buộc Công ty K có trách nhiệm phải trả cho ngân hàng tổng số

tiền nợ gốc và lãi là 8.197.957.837 đồng. 2. Không chấp nhận yêu cầu của ngân hàng đòi

phát mãi các tài sản là giá trị quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất…”.

Tại Bản án phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT ngày 17/8/2011, Tòa phúc thẩm

Tòa án nhân dân tối cao tại HN tuyên sửa Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số

32/2011/KDTM-ST ngày 23 và 24/3/2011 về phần nghĩa vụ bảo lãnh… Buộc Công ty K

phải có trách nhiệm thanh toán trả cho ngân hàng tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi là

8.197.957.837 đồng, đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh để thu hồi nợ.

Án lệ số 08/2016/AL có ghi giải pháp pháp lý như sau: “Đối với các khoản tiền

vay của tổ chức ngân hàng, ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn,…

thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm Bên đi vay còn phải tiếp tục chịu khoản

tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa

thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong

hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất… Bên đi vay phải

tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của tòa án cũng sẽ được điều

chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng cho vay”.

Đây là tình huống pháp lý điển hình được các Tòa án vận dụng thường xuyên khi

giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Án lệ số 08/2016/AL đã đặt ra vấn đề điều chỉnh

lãi suất theo thỏa thuận hợp đồng, phù hợp với chính sách quản trị rủi ro về lãi suất, là

minh chứng cho thấy trước khi Án lệ được ban hành vẫn còn sự khác biệt trong cách vận

dụng giữa các cấp Tòa án.

Tiếp đó, tại Điều 10 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ban hành ngày

11/1/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối cao cũng đề cập quy định về điều

chỉnh lãi suất như sau: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi, lãi suất

cho vay thì lãi, lãi suất cho vay được xác định theo thỏa thuận của các bên và văn bản

quy phạm pháp luật quy định về lãi, lãi suất có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh lãi, lãi

suất”. Song căn cứ xác định mức lãi suất điều chỉnh cụ thể thế nào để áp dụng như Nghị

quyết số 01/2019/NQ-HĐTP và Án lệ số 08/2016/AL thì không được đề cập đến. Dựa

vào thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng làm căn cứ giải quyết là chưa hiểu rõ những đặc

thù của mức lãi suất điều chỉnh như bài viết có nêu. Vì vậy, có thể thấy Án lệ số

08/2016/AL và quy định theo Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP khó có thể thực hiện

được. Đồng nghĩa rằng, hiệu quả của Án lệ và các quy định của luật hiện hành về điều

chỉnh lãi suất vẫn chưa đạt được như mong đợi vì thiếu các căn cứ xác định mức lãi suất

chuẩn mực.

Thật vậy, áp dụng lãi suất cấp tín dụng được điều chỉnh theo định kỳ vẫn thường

được các tổ chức tín dụng lựa chọn trước đây cũng như hiện nay, nhất là đối với các

khoản vay dài hạn rủi ro lãi suất thường cao hơn các khoản vay ngắn hạn. Đây là yêu cầu

11

mang tính bắt buộc, được thực hiện, chi phối bởi các chính sách vĩ mô của nhà nước, nên

các tổ chức tín dụng phải quán triệt thực hiện. Song, các căn cứ xác định mức lãi suất do

tổ chức tín dụng đơn phương công bố tại thời điểm giải ngân hoặc khi có tranh chấp có

phù hợp với pháp luật hay không, rõ ràng các điều khoản của hợp đồng tín dụng vẫn chưa

thể hiện rõ. Đây cũng là lý do chính cho thấy hiệu quả thực thi của quy định không cao

như mong đợi.

2.2. Đối với căn cứ và mức lãi suất điều chỉnh trong quan hệ hợp đồng tín dụng

Như được trình bày, lãi suất cho vay phải bảo đảm lợi nhuận của các tổ chức tín

dụng, trong đó phải xét đến chi phí họ đã bỏ ra đối với một khoản vay cụ thể. Các căn cứ

này có thể ước tính được mức lãi suất trong kỳ hạn vay. Pháp luật ngân hàng trước đây

cũng như hiện nay không quy định nghĩa vụ của các tổ chức tín dụng phải công khai

chính sách lãi suất cho vay và có biện pháp chế tài hữu hiệu nếu phát hiện một ngân hàng

nào đó có sai phạm. Lợi dụng điều này, nhiều tổ chức tín dụng thiếu minh bạch trong

việc cụ thể hóa các căn cứ điều chỉnh lãi suất.

Vì vậy, quy định về điều chỉnh lãi suất phải có căn cứ, phương pháp tính cụ thể,

minh bạch làm cơ sở tham chiếu khi cần thiết (cơ quan quản lý nhà nước thực hiện công

tác thanh tra, giám sát; tòa án làm cơ sở, chứng cứ để giải quyết tranh chấp) mới phát huy

tác dụng.

Án lệ số 08/2016/AL đã nêu rõ phải áp dụng lãi suất khi có biến động trên thị

trường nếu các bên có thỏa thuận điều chỉnh, ghi trong hợp đồng tín dụng. Giải pháp

pháp lý được án lệ đưa ra: “… các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay

theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay… quyết định của tòa án cũng sẽ được điều

chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng cho vay” là phù hợp với quy

định của pháp luật về thỏa thuận lãi suất, phù hợp với nghiệp vụ, thông lệ khi cho vay

như đã được phân tích. Tuy vậy, sẽ không thể thực hiện được khi kinh tế có biến động, lãi

suất thay đổi liên tục trong thời hạn vay (Chẳng hạn, có thời kỳ lãi suất cho vay dựa theo

lãi suất cơ bản do NHNN ấn định. Theo đó chỉ trong thời gian ngắn, từ ngày 01/10/2008

đến ngày 22/12/2008, Ngân hàng nhà nước công bố 5 mức lãi suất cơ bản khác nhau từ

14%/năm xuống 13%/năm, 12%/năm, 11%/năm rồi về lại mức lãi suất thấp hơn

8,5%/năm), khi đó không có căn cứ xác định mức lãi suất điều chỉnh cụ thể.

Thực tiễn tại các ngân hàng thương mại thường đưa ra các phương pháp điều

chỉnh lãi suất theo định kỳ. Chẳng hạn, Quyết định số 10/TB-DAB-KHDN ngày

08/1/2018 của Ngân hàng thương mại cổ phần ĐA có ghi nguyên tắc áp dụng theo sau:

Lãi suất điều chỉnh = lãi suất cơ sở + biên độ (trong đó lãi suất cơ sở là lãi suất huy động

của tiết kiệm thông thường đối với tiền Việt Nam, hoặc lãi suất điều chuyển vốn theo

nguyên tệ tương ứng với kỳ hạn cho vay đối với đô la Mỹ; biên độ đối với từng thời hạn

vay từ 2% đến 4%/năm). Quy định này tương đối rõ ràng, dễ áp dụng song, để xác định

lãi suất huy động tiết kiệm tại thời điểm điều chỉnh lãi suất nếu không minh bạch cũng sẽ

khó áp dụng được.

12

Vấn đề này được pháp luật hiện hành nêu lên nguyên tắc áp dụng lãi suất thấp

nhất, có lợi cho bên vay nếu lãi suất điều chỉnh dẫn đến nhiều mức lãi suất cho vay khác

nhau (khoản 5, Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ban hành ngày 30/12/2016 của

Ngân hàng nhà nước quy định về hoạt động cho vay của Tổ chức tín dụng, chi nhánh

ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng), dựa trên lãi suất tiền gửi tiết kiệm và chi phí,

lợi nhuận như hiện nay của các tổ chức tín dụng. Lãnh đạo Ngân hàng nhà nước tại thành

phố Hồ Chí Minh cũng tiếp tục nhìn nhận, khẳng định cách tính lãi suất điều chỉnh có lợi

cho bên vay, theo đó: “Ngân hàng phải lấy mức lãi suất thấp nhất của kỳ hạn 12 tháng để

làm cơ sở xác định lãi suất của kỳ điều chỉnh”

11 theo nhóm tác giả là phù hợp.

Với những trình bày nêu trên, có thể thấy, ngành ngân hàng cũng đã nhìn nhận sự

bất hợp lý về lãi suất điều chỉnh trong các hợp đồng tín dụng theo quy định hiện hành.

Các căn cứ do tổ chức tín dụng đặt ra dựa theo tiền gửi tiết kiệm 12 tháng cộng biên độ

được tính trên tỷ lệ phần trăm/năm. Trong khi đó, quy định lãi suất về tiền gửi tiết kiệm

pháp luật không quy định rõ, nên khó có thể xác định mức lãi suất của kỳ điều chỉnh

nhằm bảo vệ quyền lợi của người vay. Khi đó, ý nghĩa của lãi suất điều chỉnh đúng với

nhu cầu, quy luật thị trường không đạt được như mong muốn của các nhà làm luật.

Tóm lại, các căn cứ xác định mức lãi suất điều chỉnh hiện nay được ghi nhận trong

các hợp đồng tín dụng trong thực tiễn không thống nhất. Điều này cũng là bình thường vì

mỗi tổ chức tín dụng có chính sách tín dụng và lãi suất không đồng nhất. Vấn đề đặt ra là,

các tổ chức tín dụng phải minh bạch trong các chính sách về lãi suất cho vay để làm căn

cứ tính mức lãi suất điều chỉnh. Đó còn là căn cứ giúp cho các khách hàng vay hiểu đúng

hơn về giá trị của khoản vay, cũng như sẵn sàng hợp tác với tổ chức tín dụng điều chỉnh

lãi suất khi cần thiết, tránh những hoài nghi dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện kéo dài.

3. Những khuyến nghị

Với những nhận thức như trên minh chứng cho thấy các quy định theo pháp luật

ngân hàng Việt Nam vẫn còn thiếu các căn cứ xác định mức lãi suất điều chỉnh. Trong

khi đó, việc đề cập các căn cứ này trong các hợp đồng tín dụng qua thực tiễn cho thấy

không rõ ràng hoặc thiếu thống nhất, không có hiệu quả thiết thực.

Nhóm tác giả khuyến nghị các giải pháp khắc phục như sau:

Một là, các quy định theo Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP chỉ ghi nhận hoạt

động điều chỉnh lãi suất trong quan hệ hợp đồng tín dụng mang tính nguyên tắc. Việc áp

dụng quy định này vào thực tiễn, giải quyết căn cơ quyền lợi của các bên khi lãi suất trên

thị trường tiền tệ có biến động vẫn không phát huy hiệu quả như mong đợi. Đây cũng là

nguyên nhân cho thấy rằng, cho dù các bên có thỏa thuận điều chỉnh lãi suất nhưng vẫn

không thể áp dụng được qua thực tiễn xét xử, phần lớn gây bất lợi cho người vay. Điều

này cho thấy rằng, cần thiết phải xây dựng án lệ về căn cứ xác định mức lãi suất điều

chỉnh nhằm định hướng giải quyết tranh chấp cũng như đem lại công bằng cho người

vay.

11 Trích phát biểu của ông Nguyễn Hoàng Minh - Phó Giám đốc Ngân hàng nhà nước, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh.

Nguồn: AH, Người đi vay được lợi hơn, Báo Tuổi trẻ ngày 18/3/2017, số 69/2017 (8608), tr. 7

13

Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay đại dịch Covid-19 đang tác động mạnh đến

mọi mặt của đời sống kinh tế, các quy định về điều chỉnh lãi suất cần được hiện thực hóa

để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người vay đang lâm vào hoàn cảnh bất khả kháng,

mất khả năng trả nợ, rất cần có các căn cứ pháp lý xác định lãi suất điều chỉnh để vận

dụng. Điều này cũng đồng thời khắc phục những hạn chế Án lệ số 08/2016/AL, tiếp tục

duy trì ổn định trong hoạt động cho vay ngân hàng, nâng sức cạnh tranh của các tổ chức

tín dụng.

Hai là, căn cứ để xác định mức lãi suất điều chỉnh trước hết phải dựa trên

thỏa thuận của các bên, theo lẽ công bằng, hợp pháp. Trường hợp các bên có thỏa thuận

điều chỉnh lãi suất trước hết phải xem xét các căn cứ điều chỉnh lãi suất (từ đó hình thành

các mức lãi cụ thể) để tính khi giải quyết tranh chấp, không được phép bỏ ngỏ như hiện

nay. Thêm vào đó cần xem xét hợp đồng tín dụng là dạng hợp đồng theo mẫu do tổ chức

tín dụng áp dụng cho toàn hệ thống đơn vị ngân hàng. Vì vậy, những căn cứ điều chỉnh

không rõ ràng, trái pháp luật phải áp dụng căn cứ lãi suất điều chỉnh theo phương thức có

lợi cho người vay như được phân tích. Theo đó phải áp dụng lãi suất tiết kiệm tại thời

điểm điều chỉnh lãi suất theo kỳ hạn vay với mức lãi suất thấp nhất của kỳ tiết kiệm do tổ

chức tín dụng đó ấn định. Mức lãi này làm căn cứ điều chỉnh so với lãi suất tiết kiệm tại

thời điểm giao kết hợp đồng tín dụng.

Tóm lại, lãi suất trong quan hệ hợp đồng tín dụng (thỏa thuận lãi suất) thể hiện rõ

nét nhất của quyền tự do hợp đồng. Sự can thiệp của nhà nước vào quan hệ tín dụng chỉ

thực hiện đối với những khoản vay vì mục tiêu, chính sách của nhà nước. Song, xuất phát

từ những biến động của nền kinh tế, rủi ro lãi suất vẫn được các tổ chức tín dụng đặt ra,

cần có cơ chế pháp lý vận dụng thống nhất, đúng với quy luật vận động của thị trường.

Với những phân tích trên, bài viết đã làm rõ thực trạng quy định này vẫn còn nhiều bất

cập, cần xây dựng và ban hành án lệ về căn cứ xác định mức lãi suất điều chỉnh, thống

nhất áp dụng trong thực tiễn xét xử nhằm nâng cao trách nhiệm của các tổ chức tín dụng,

bảo vệ quyền lợi của khách hàng vay./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng nhiệm vụ

kinh tế xã hội 5 năm 2006 – 2010 về việc “Thực hiện chính sách lãi suất thỏa thuận theo

nguyên tắc thị trường”

2. Bộ luật Dân sự năm 2015

3. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi năm 2017

4. Joel Bessis (Bản dịch của Trần Hoàng Ngân, Đinh Thế Hiển), Risk Management in

Banking (Quản trị rủi ro trong ngân hàng), Nxb. Lao động xã hội

5. Quyết định số 698/QĐ-CA ban hành ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân

tối cao về công bố án lệ

6. Quyết định Giám đốc thẩm số 14/2015/KDTM ban hành ngày 21/5/2015 của Tòa án

nhân dân tối cao về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”

14

7. Thuyết minh Báo cáo tài chính hợp nhất tháng 12/2017 của Ngân hàng Vietcombank

8. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb.

Hồng Đức

9. Trích phát biểu của ông Nguyễn Hoàng Minh - Phó Giám đốc Ngân hàng nhà nước,

Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh. Nguồn: AH, Người đi vay được lợi hơn, Báo Tuổi trẻ ngày

18/3/2017, số 69/2017 (8608)

10.Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Tổ chức hợp tác kỹ thuật Cộng hòa liên bang Đức

(1997), Pháp luật về Ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại các nước, Nxb. Thế

giới (Hà Nội)

11.Mẫu hợp đồng tín dụng của Ngân hàng Trung quốc Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh,

https://www.bankofchina.com.vn/pic/bocappd/vietnam/201712/P0201712265675055567

27.pdf

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!