Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Yêu cầu điều tra viên của Viện kiểm sát theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HẠ VĨ KHÔI
YÊU CẦU ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
YÊU CẦU ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Nguyễn Hạ Vĩ Khôi
Lớp: Cao học Luật, khóa 1 – Bình Thuận
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “Yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát
theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học do bản
thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Võ Thị Kim Oanh. Những thông tin,
tài liệu trong luận văn được thu thập một cách khách quan, trung thực, số liệu minh
chứng có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn này chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 9 năm 2020
Tác giả
Nguyễn Hạ Vĩ Khôi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BC Bị can
BL.TTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
ĐTV Điều tra viên
KSV Kiểm sát viên
QĐ.KTBC Quyết định Khởi tố bị can
QĐ.KTVAHS Quyết định Khởi tố vụ án hình sự
Quy chế số
111/QĐ-VKSTC
Quy chế Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi
tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 111
/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao)
Thông tư số
04/2018/TTLTVKSNDTCBCA-BQP
Thông tư Liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP
ngày 19/10/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối
cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định
về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc
thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. YÊU CẦU ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI PHÊ
CHUẨN QUYẾT ĐỊNH KHỞI TỐ BỊ CAN..........................................................7
1.1. Quy định của pháp luật về yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát khi phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can ..........................................................................7
1.2. Thực tiễn hoạt động yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát khi phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can....................................................................................12
1.2.1. Kết quả đạt được ....................................................................................12
1.2.2. Một số bất cập, vướng mắc và nguyên nhân..........................................14
1.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát
khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can ..........................................................25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................28
CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG VIỆC
THỰC HIỆN YÊU CẦU CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI PHÊ CHUẨN QUYẾT
ĐỊNH KHỞI TỐ BỊ CAN.......................................................................................29
2.1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc
thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát.................................................................29
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm
sát khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can ....................................................32
2.2.1. Kết quả đạt được ....................................................................................34
2.2.2. Một số vướng mắc khi xác định trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong
việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát.........................................................35
2.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo trách nhiệm của Cơ
quan điều tra trong việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát.......................41
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................46
KẾT LUẬN..............................................................................................................47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Yêu cầu điều tra là quyền năng pháp lý đặc biệt, thể hiện rõ chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ
án hình sự, góp phần đảm bảo cho hoạt động điều tra đúng theo quy định của pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Quyền năng này xuất
hiện kể từ khi Viện kiểm sát bắt đầu vai trò thực hành quyền công tố và xuyên suốt
quá trình kiểm sát điều tra đối với vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong phạm vi giới hạn
nghiên cứu của Luận văn, học viên chỉ tập trung đề cập, nghiên cứu hoạt động yêu
cầu điều tra của Viện kiểm sát trong trường hợp “yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu
làm căn cứ để quyết định việc phê chuẩn khởi tố bị can”1
.
Tại khoản 3 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Trong
thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát
phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc
yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để quyết định việc phê chuẩn và gửi
ngay cho Cơ quan điều tra...”. Tuy nhiên trong thực tiễn, việc kéo dài thời gian
quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can xảy ra khá thường xuyên, mà
nguyên nhân của nó xuất phát từ việc nhận thức và vận dụng quy định này giữa Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát chưa thống nhất, làm cho thân phận pháp lý của
người bị khởi tố ở trạng thái không rõ ràng, ảnh hưởng rất lớn đến các quyền và lợi
ích hợp pháp của họ.
Qua nghiên cứu, học viên nhận thấy: từ khi có Quyết định Khởi tố bị can,
thân phận của người bị khởi tố có thể được ví như rơi vào tình trạng “nửa bị can”.
Nghĩa là, ngay sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng ngay một
số biện pháp cưỡng chế, biện pháp ngăn chặn để đảm bảo cho hoạt động điều tra –
mà không cần phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát như: Lệnh cấm đi khỏi nơi
cư trú; Tạm hoãn xuất cảnh; Kê biên tài sản; Phong tỏa tài khoản
2
... Quá trình này
ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, tâm lý, danh dự, uy tín và các vấn đề về nhân
thân của người bị khởi tố.
Quyền năng yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát khi được thực hiện một cách
hiệu quả sẽ đảm bảo cho hoạt động phê chuẩn quyết định khởi tố bị can được
1 Đây là một quy định hoàn toàn mới, lần đầu tiên được đưa vào Bộ luật Tố tụng hình sự..
2 BL.TTHS (2015) các Điều 123, 124, 128, 129, 181. Trong đó, các Điều 124, 128, 129 chỉ cần “thông báo” cho
VKS trước khi thi hành. Các Điều 123, 181 khi thực hiện không cần sự phê chuẩn hoặc thông báo cho VKS.
2
nhanh chóng. Đây là điều kiện để Cơ quan điều tra tiến hành các biện pháp, thủ
tục tố tụng tiếp theo, phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Ngược lại, kiên quyết hủy bỏ quyết định khởi tố bị can một cách kịp thời lại chính
là đảm bảo cho nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân. Kết quả này, tốt hay xấu đều có sự tác động trực tiếp từ quá trình, nhận thức
và vận dụng quy định “yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu” của Viện kiểm sát khi
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
Đến nay, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Thông tư Liên tịch số
04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy
định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một
số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là các căn cứ pháp lý quan trọng
nhất để điều chỉnh vấn đề thực hiện quyền yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu của
Viện kiểm sát và cơ chế bảo đảm cho việc thực hiện quyền năng này vẫn không đề
cập đến các vấn đề cốt lõi như:
- Số lần Viện kiểm sát được yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để
quyết định việc phê chuẩn khởi tố bị can, và ai là chủ thể thực hiện quyền năng này;
- Thời hạn mà Cơ quan điều tra có trách nhiệm bổ sung chứng cứ, tài liệu
theo yêu cầu của Viện kiểm sát và nội hàm của khái niệm “bổ sung chứng cứ, tài
liệu” trong yêu cầu này.
Chính vì lẽ đó, việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo cho hoạt động yêu
cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm sát khi phê chuẩn quyết định khởi tố
bị can là điều hết sức cần thiết. Đây cũng là điều kiện hiện thực hóa để đảm bảo
nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền công dân theo đúng tinh thần của
Hiến pháp năm 2013 của Nước CHXHCN Việt Nam.
Với lý do nêu trên, học viên lựa chọn đề tài “Yêu cầu điều tra của Viện
kiểm sát theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” (với phạm vi như đã đề cập) để
nghiên cứu, làm Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo tìm hiểu của học viên, vấn đề yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát trong
trường hợp “yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can” từ trước đến nay chưa có công trình nghiên cứu. Bởi lẽ: Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 là Bộ luật đầu tiên đưa ra quy định yêu cầu bổ sung chứng
3
cứ, tài liệu khi xét phê chuẩn khởi tố bị can3
. Như vậy, đây là một nội dung hoàn toàn
mới, và cho đến thời điểm học viên chọn để nghiên cứu thì vấn đề này vẫn chưa được
tiếp cận ở phạm vi, góc độ khác nhau như: công trình nghiên cứu ở cấp ngành, cấp
Nhà nước, hoặc Luận án Tiến sĩ, Luận văn Thạc sĩ...
Tuy nhiên, tại thời điểm hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì
tiền thân của vấn đề này cũng đã có sự quan tâm từ một số nhà nghiên cứu và
chuyên gia có kinh nghiệm thực tiễn trong công tác thực hành quyền công tố, được
thể hiện thông qua một số công trình nghiên cứu, đề tài Luận văn Thạc sĩ hoặc bài
viết trên các chuyên trang của ngành Kiểm sát nhân dân… như:
- “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra”, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội (2005), trang 62, của tập thể tác giả:
Tiến sĩ Lê Hữu Thể (Chủ biên), Tiến sĩ Đỗ Văn Đương, Tiến sĩ Nông Xuân Trường,
thể hiện dưới dạng công trình nghiên cứu. Công trình này đề cập ở phạm vi rộng,
xuyên suốt quá trình khởi tố, điều tra. Chứ không tập trung vào hoạt động yêu cầu
điều tra của Viện kiểm sát – đặc biệt là khi xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
- Đề tài Luận văn Thạc sĩ: “Khởi tố bị can và hoạt động kiểm sát việc khởi tố
bị can tại TP. Hồ Chí Minh”, tác giả Phạm Văn Đức. Nghiên cứu về những vấn đề
lý luận - pháp lý về khởi tố bị can; thực trạng hoạt động kiểm sát việc khởi tố bị can
tại thành phố Hồ Chí Minh và một số kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả trong công tác kiểm sát hoạt động khởi tố bị can. Nội dung đề tài này chủ yếu
đề cập thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác kiểm sát, chứ không
giải quyết vấn đề trong phạm vi cụ thể là quyền năng yêu cầu điều tra của Viện
kiểm sát khi xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
- Bài viết: “Một số vấn đề về khởi tố bị can và phê chuẩn quyết định khởi tố
bị can” của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Văn Đương, (Tạp chí Kiểm sát, số 01/2007).
Nội dung bài viết có nêu các quan điểm khác nhau và những vướng mắc trong thực
tiễn khởi tố bị can và phê chuẩn quyết định khởi tố bị can theo quy định tại Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003 và đề ra một số phương hướng nhằm hoàn thiện quy định
này. Tuy nhiên phạm vi bài viết bao gồm cả hoạt động khởi tố bị can và phê chuẩn
khởi tố bị can theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, chứ không phân tích hoạt
động yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
…
3 BL.TTHS (2015) khoản 3 Điều 179.
4
Nội dung các công trình nghiên cứu và bài viết nêu trên đã đem lại nhiều kết
quả có giá trị, góp phần làm rõ quy định của pháp luật liên quan vấn đề yêu cầu điều
tra và hoạt động khởi tố, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Tuy nhiên, xét về hiệu
lực về mặt thời gian thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến nay đã được thay thế
bởi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Hơn nữa, các công trình nghiên cứu và bài
viết nêu trên chủ yếu tập trung sâu và một hoặc một số vướng mắc cụ thể như thực
hiện chức năng kiểm sát việc khởi tố bị can; hoặc chỉ đề cập việc khởi tố bị can với tư
cách là một hoạt động trong giai đoạn tố tụng hình sự; hoặc chủ yếu để làm sáng tỏ
chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát - mà chưa phân tích khó khăn,
vướng mắc khi thực hiện hoạt động yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm
sát khi xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và chỉ ra những nguyên nhân. Từ đó
đề ra các giải pháp hoặc kiến nghị để khắc phục.
Chính vì lẽ trên, trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn, học viên tập trung
phân tích và đánh giá một số vướng mắc, bất cập liên quan đến hoạt động “yêu cầu
bổ sung chứng cứ, tài liệu” của Viện kiểm sát tại khoản 3 Điều 179 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015, đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn chỉnh quy định
pháp luật về vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Luận văn này nghiên cứu quy định của pháp luật Tố tụng hình sự
và các văn bản hướng dẫn có liên quan về hoạt động yêu cầu điều tra của Viện kiểm
sát (trong phạm vi thực hiện chức năng phê chuẩn khởi tố bị can); trách nhiệm của
Cơ quan điều tra trong việc thực hiện yêu cầu này và những bất cập trong các quy
định pháp luật hiện hành nhằm đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện. Từ đó
nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố - đặc biệt là đối với hoạt động yêu cầu
điều tra của Viện kiểm sát khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
Nhiệm vụ: Luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật Tố tụng
hình sự về các vấn đề liên quan đến hoạt động yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu
làm căn cứ để quyết định phê chuẩn khởi tố bị can và đánh giá thực trạng vận dụng
quy định này trong thời gian qua để lý giải được những nguyên nhân gây ra vướng
mắc, bất cập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về thực tiễn vấn đề
“quyền năng yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát và trách nhiệm thực hiện yêu cầu
này”, cụ thể hóa thông qua hoạt động yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ
5
để quyết định việc phê chuẩn khởi tố bị can theo quy định tại khoản 3 Điều 179 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy
định về vấn đề yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm sát khi phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can theo quy định tại khoản 3 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 tại Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra hai cấp ở một số địa phương.
Phạm vi về thời gian: Luận văn lấy mốc thời điểm từ khi Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 có hiệu lực là 01/01/2018 cho đến 31/8/2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện Luận văn này, học viên chủ yếu áp dụng phương
pháp phân tích để đưa ra nhận định, đánh giá các quan điểm của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam về cải cách tư pháp; quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự hiện hành; các Thông tư liên tịch, Quy chế nghiệp vụ, Chỉ thị
của ngành Kiểm sát nhân dân về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra, Quy chế phối hợp của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát một số địa phương.
Ngoài ra học viên còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến như: phương
pháp so sánh, tổng hợp và chứng minh trong một số tình huống là vụ án cụ thể để
hoàn thành Luận văn.
6. Dự kiến kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng kết quả nghiên cứu
của đề tài
Dự kiến kết quả nghiên cứu: góp phần hoàn thiện nội dung các quy định pháp
luật liên quan đến hoạt động yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm sát
khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can tại khoản 3 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015; khoản 2 Điều 10 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTCBCA-BQP; điểm b, khoản 1 Điều 46 Quy chế 111/QĐ-VKSTC của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, từ đó đảm bảo việc áp dụng theo một nhận thức
chung, thống nhất và khắc phục tình trạng vận dụng một cách tùy nghi quyền năng
yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát và trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc
thực hiện yêu cầu này. Từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quyền năng yêu cầu
điều tra của Viện kiểm sát nói chung, hoạt động yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu
khi xét phê chuẩn khởi tố bị can nói riêng; từ đó hạn chế việc kéo dài thời hạn quyết
định thân phận pháp lý của bị can, xâm hại đến quyền con người, quyền công dân.
6
Địa chỉ ứng dụng: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể giúp Cơ quan điều
tra và Viện kiểm sát hoàn thiện tốt hơn mối quan hệ phối hợp trong quá trình thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của hai ngành. Đặc biệt giúp cho Viện kiểm sát hoàn thiện
cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc “Tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố
với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm”4
, đồng thời
đảm bảo không bỏ lọt trội phạm và tránh làm oan người vô tội; bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
Ngoài ra, Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo tại các trường
trung cấp, đại học chuyên ngành; các lớp đào tạo nghiệp vụ chức danh tư pháp như
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sư…
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục các tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm có 2 chương với cơ cấu như sau:
Chương 1: Yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát khi phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can.
Chương 2. Trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện yêu cầu
của Viện Kiểm sát khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
4 Chỉ thị số 06/CT- ngày 06/12/2013 của Viện trưởng VKSND Tối cao về “Tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm”.
7
CHƯƠNG 1
YÊU CẦU ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT
KHI PHÊ CHUẨN QUYẾT ĐỊNH KHỞI TỐ BỊ CAN
1.1. Quy định của pháp luật về yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát khi
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can
Theo ngôn ngữ Tiếng Việt, “yêu cầu” là việc nêu ra điều gì với người nào
đó, tỏ ý muốn người đó làm, vì đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền
hạn, khả năng của người ấy5
. Như vậy, trong lĩnh vực Tố tụng hình sự, yêu cầu điều
tra là hoạt động của Viện kiểm sát nêu ra vấn đề trong phạm vi tiến hành các hoạt
động tố tụng để Cơ quan điều tra thực hiện. Yêu cầu điều tra có thể được thực hiện
bằng lời nói, hoặc bằng văn bản6
, trong trường hợp cần làm rõ về chứng cứ, hoặc bổ
sung, khắc phục vi phạm thủ tục tố tụng.
Yêu cầu điều tra là quyền năng pháp lý đặc biệt của VKS, xuất hiện cùng thời
điểm phát sinh trách nhiệm thực hành quyền công tố và xuyên suốt quá trình điều
tra vụ án hình sự. Hoạt động này xuất hiện khi thông qua chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra, VKS thấy việc tiến hành tố tụng của CQĐT còn
thiếu sót, cần phải đề ra yêu cầu điều tra để CQĐT bổ sung hoặc khắc phục. Do đặc
thù của mỗi giai đoạn tố tụng có mục đích, nhiệm vụ khác nhau nên yêu cầu điều tra
của VKS cũng được ghi nhận dưới tên gọi khác nhau, như: Yêu cầu kiểm tra, xác
minh (trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố)7
;
Yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu (khi xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can)8
;
Yêu cầu điều tra9
(trong toàn bộ quá trình từ khởi tố vụ án đến khi kết thúc điều tra)
và Trả hồ sơ vụ án để yêu cầu điều tra bổ sung10 (sau khi CQĐT đã kết luận điều
tra, đề nghị truy tố nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản
1 Điều 245 BL.TTHS năm 2015).
Như vậy, “yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu” khi xét phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can như tại khoản 3 Điều 179 BL.TTHS năm 2015 chính là một hình thức
thực hiện quyền năng yêu cầu điều tra của VKS. Ý nghĩa của quy định này là nhằm
mục đích đảm bảo cho hoạt động phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của VKS là
5 http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Y%C3%AAu_c%E1%BA%A7u.
6 VKSTC (2018) Quy chế 111, Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố
Điều 47: Đề ra yêu cầu điều tra.
7 BL.TTHS (2015), khoản 2 Điều 159.
8 BL.TTHS (2015), khoản 3 Điều 179.
9 BL.TTHS (2015), khoản 6 Điều 165.
10 BL.TTHS (2015), điểm b, khoản 1 Điều 240; Điều 245.
8
có căn cứ và đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan
người vô tội11. Xét về nguyên lý, hoạt động yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu khi
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cũng khá tương đồng với hoạt động “trả hồ sơ
vụ án để yêu cầu điều tra bổ sung” như quy định tại khoản 1 Điều 245 BL.TTHS.
Bởi lẽ cả hai đều nhằm hướng đến mục tiêu không làm oan người vô tội, không bỏ
lọt tội phạm và không vi phạm thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, hoạt động trả hồ sơ vụ án
để yêu cầu điều tra bổ sung có phạm vi gồm những vấn đề mang tính bao quát để
đảm bảo cho quá trình truy tố, xét xử vụ án được toàn diện về cả nội dung lẫn hình
thức. Còn yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu khi phê chuẩn QĐ.KTBC chỉ xuất hiện
ở một thời điểm ngắn trong quá trình điều tra và giới hạn cho một mục đích cụ thể
là hoạt động phê chuẩn của VKS có căn cứ và đúng pháp luật.
Xuất phát từ đặc thù như trên, Yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu của VKS
chỉ xuất hiện khi CQĐT đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, nhưng các
chứng cứ, tài liệu thu thập chưa đầy đủ, cần thiết phải bổ sung; và nó tự chấm dứt
khi VKS đã có quyết định phê chuẩn (hoặc hủy bỏ). Hiện nay, BL.TTHS năm 2015,
Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP, ngày 19 tháng 10 năm
2018 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về phối hợp
giữa CQĐT, VKS trong việc thực hiện một số quy định của BL.TTHS và Quy chế
nghiệp vụ số 111QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của VKSND Tối cao là những căn cứ
pháp lý quy định về vấn đề quyền yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu của VKS khi
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; và vấn đề chủ thể thực hiện quyền năng này.
Thứ nhất, tại chế định “Khởi tố bị can”, khoản 3 Điều 179 BL.TTHS năm
2015 quy định:
“3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan
điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can
cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày
nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn
hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng
cứ, tài liệu làm căn cứ để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho Cơ quan
điều tra”.
11 Luật Trách nhiệm bồi thường của của Nhà nước (2017), khoản 2 Điều 3 quy định: khi đã có hoạt động phê
chuẩn khởi tố bị can của VKS, nhưng “sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền xác định
không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà
không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm… thì xem là làm oan và trường hợp này VKS là cơ
quan có trách nhiệm bồi thường.
9
Với quy định về hoạt động yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu khi phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can, BL.TTHS năm 2015 đã giải quyết được một cách cơ bản
hạn chế của BL.TTHS năm 2003 là: VKS chỉ được phép phê chuẩn hoặc hủy bỏ
QĐ.KTBC, chứ không có lựa chọn khác trong trường hợp chứng cứ, tài liệu làm
căn cứu khởi tố mà CQĐT thu thập còn hạn chế. Như vậy, quy định vừa trích dẫn
trên cho phép VKS lựa chọn phương án thận trọng hơn. Đó là thực hiện quyền yêu
cầu CQĐT phải bổ sung chứng cứ, tài liệu trước khi quyết định việc phê chuẩn. Tuy
nhiên với nội dung được thể hiện tại BL.TTHS năm 2015, không có quy định nào
đề cập đến giới hạn về số lần VKS được quyền yêu cầu CQĐT bổ sung chứng cứ,
tài liệu trước khi buộc phải đưa ra quyết định cuối cùng. Các văn bản hướng dẫn
như Thông tư liên tịch, Quy chế nghiệp vụ cũng tương tự. Điều này có nghĩa là
những quy định của pháp luật đã mở rộng cánh cửa quyền năng cho VKS, nhưng lại
không có cơ chế giới hạn để đảm bảo quyền năng này phải được sử dụng một cách
hợp lý và không làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình giải quyết vụ án.
Thứ hai, Để cụ thể hơn hoạt động yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu của
VKS khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, tại khoản 2 Điều 10 Thông tư liên
tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP, ngày 19 tháng 10 năm 2018 của
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đã hướng dẫn như
sau: “Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can,...
Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ... Trường hợp xét thấy
chưa đủ căn cứ để phê chuẩn, Kiểm sát viên kịp thời trao đổi với Điều tra viên
những nội dung cần bổ sung chứng cứ, tài liệu và báo cáo lãnh đạo mỗi ngành để
xin ý kiến, thống nhất các nội dung cần bổ sung...”.
Quy định này được hiểu rằng: khi cần phải yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu
thì mặc dù là người trực tiếp tiến hành tố tụng nhưng Kiểm sát viên không được
phép tự thoát ly khỏi vai trò chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Viện. Nghĩa là để xác
định có cần thiết phải đề ra yêu cầu điều tra để buộc CQĐT bổ sung chứng cứ, tài
liệu hay không; yêu cầu vấn đề gì... thì KSV phải báo cáo và tiếp thu sự chỉ đạo của
Viện trưởng (hoặc Phó viện trưởng được phân công) trước khi đưa ra nội dung yêu
cầu bằng văn bản. Nhận thức này hàn toàn phù hợp với quy định của BL.TTHS về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS là
“trực tiếp tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”12. Tuy nhiên hướng dẫn tại Thông tư
12 BL.TTHS (2015), điểm a khoản 1 Điều 41.
10
04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP chỉ dừng lại ở góc độ đề cập đến việc KSV
có hoạt động “báo cáo lãnh đạo để xin ý kiến, thống nhất các nội dung cần bổ
sung’’. Chứ không đề cập cụ thể sau khi thực hiện báo cáo thì KSV, hay Viện
trưởng (hoặc Phó viện trưởng) là chủ thể có thẩm quyền ban hành yêu cầu. Chính vì
có quy định, nhưng không rõ ràng nên Thông tư liên tịch hiện nay chưa đảm bảo
tính thống nhất về nhận thức và vận dụng. Tạo nguy cơ KSV vượt quá phạm vi đã
được chỉ đạo yêu cầu CQĐT bổ sung. Đến nay đã có nhiều ý kiến của VKS và
CQĐT hai cấp đề nghị liên ngành tố tụng Trung ương cần bổ sung quy định một
cách rõ ràng về thẩm quyền này, nhưng chưa được đáp ứng.
Cũng liên quan đến vấn đề chủ thể thực hiện quyền yêu cầu bổ sung chứng
cứ, tài liệu khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, Quy chế số 111/QĐ-VKSTC
ngày 17/4/2020 của VKSND Tối cao về Công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc khởi tố, điều tra và truy tố quy định:
“Điều 46. Xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.
1.
b) Nếu thấy chưa rõ căn cứ xác định bị can phạm tội thì Kiểm sát viên yêu
cầu cơ quan đã ra quyết định khởi tố bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ căn cứ
khởi tố...
Trong tố tụng hình sự, mọi hành vi hoặc quyết định đều phải đảm bảo yếu
tố thẩm quyền về mặt chủ thể thì mới có giá trị pháp lý. Theo quy định của
BL.TTHS hiện hành, Kiểm sát viên là người trực tiếp tiến hành các hoạt động tố
tụng, kiểm sát các vấn đề về thủ tục, trình tự… nên việc xác định KSV là chủ thể
có quyền đề ra yêu cầu điều tra13 là không trái với quy định của Bộ luật. Hướng
dẫn tại Quy chế 111/QĐ-VKSTC như vừa trích dẫn đã đề cao được tính chủ động
của KSV trong quá trình xử lý vụ án, đúng như tinh thần của BL.TTHS hiện hành.
Tuy nhiên, hoạt động yêu cầu điều tra bổ sung chứng cứ, tài liệu khi phê chuẩn
QĐ.KTBC không nhằm mục đích làm sáng tỏ toàn diện vụ án (như mục đích của
một bản yêu cầu điều tra thông thường), mà chỉ có ý nghĩa duy nhất là đảm bảo
cho hoạt động phê chuẩn là có căn cứ. Yêu cầu này sẽ có tác động một cách trực
tiếp đến việc phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can của CQĐT. Do đó
việc giao cho KSV toàn quyền trong toàn bộ quy trình xem xét đề nghị phê chuẩn
13 BL.TTHS (2015), điểm e, khoản 1 Điều 42: Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên.