Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Xúc tiến đầu tư trong thương mại xuất nhập khẩu với các tỉnh có cảng biển ppt
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
XK : Xuất khẩu
XTXK : Xúc tiến xuất khẩu
XTTM : Xúc tiến thương mại
DN : Doanh nghiệp
ITC : Trung tâm thương mai quốc tế
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
ICC : Phòng thương mại quốc tế
TSIs : Các tổ chức hỗ trợ thương mại
GATT : Tổ chức hiệp định chung về thuế quan và thương mại
UN : Liên hợp quốc
UNDP : Cơ quan điều hành của chương trình phát triển của Liên hợp
quốc
UNCTAD : Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển
JETRO : Tổ chức ngoại thương Nhật Bản
KOTRA : Tổ chức XTTM và đầu tư Hàn Quốc
DEP : Cục XTXK Thái Lan
KH : Kế hoạch
CN-TTCN : Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
UBND : Uỷ ban nhân dân
VPĐD : Văn phòng đại diện
WEF : Diễn đàn Kinh tế thế giới
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
Danh mục các bảng biểu, các hình vẽ đồ thị
Chương 1:
Hình 1.1 Tác động của XTXK tới sự phát triển kinh tế
Hình 1.2 Các giai đoạn của quá trình xuất khẩu
Hình 1.3 Vai trò của các tổ chức XTXK
Hình 1.4 Cơ cấu tổ chức của JETRO
Hình 1.5 Cơ cấu tổ chức của DEP(cục XTXK Thái Lan)
Hình 1.6 Khuyến khích XK ở Đông và Đông Nam Á
Chương 2:
Hình 2.1 Cơ cấu thị trường xuất khẩu năm 2007
Hình 2.2 Bộ máy tổ chức sơ thương mại
Hình 2.3 Quy mô hoạt động tư vấn phân theo địa bàn
Hình 2.4 Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp xử dụng dịch vụ tư vấn
Hình 2.5 Danh sách 10 tỉnh đứng đầu về các chỉ số thành phần
Chương 3:
Hình 3.1 Kim ngạch xuất khẩu theo thị trường
Hình 3.2 Ma trận cấu trúc thương mại điện tử
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế của thế giới đang từng ngày từng giờ phát triển nhanh như vũ bão,
cùng với nó là sự xuất hiện ngày càng nhiều các thị trường xuất khẩu mới, các tổ chức
xuất khẩu mới. Thế giới chúng ta đang phải trải qua một giai đoạn hết sức gay go khi
đang có dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ, lương thực và có dấu hiệu
bị chững lại sau một thời gian dài phát triển quá nóng, nhu cầu thì ngày càng nhiều nhưng
việc đáp ứng thì lại có hạn.
Nhu cầu cao đã tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu nhưng kèm theo
đó là sự cạnh tranh khốc liệt đang diễn ra trên cục diện toàn thế giới. Trong thời đại hiện
nay, đứng trước một thế giới ngày càng phức tạp thì việc gặp nhiều rủi ro là điều không
thể tránh khỏi, vì vậy ngoài việc trang bị đầy đủ những thông tin và các biện pháp cần
thiết để ứng phó, doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ trực tiếp từ phía chính phủ hoặc từ phía
các tổ chức hỗ trợ để có thể vượt qua những khó khăn trước mắt tiến tới những mục tiêu
lâu dài của doanh nghiệp. Có thể nói, hiện nay các doanh nghiệp ở Việt Nam chưa đánh
giá được hết tầm quan trọng các công cụ hỗ trợ của nhà nước và còn nhiều lúng túng, do
dự khi sử dụng các dịch vụ này. Mặt khác, về phía các cơ quan của chính phủ cũng còn
nhiều vấn đề cần phải bàn cãi. Chậm đổi mới, chậm thay đổi tiến độ là bài học muôn thởu
đối với các cơ quan này. Tuy nhiên với xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá như hiện nay,
các doanh nghiệp Việt Nam cũng như chính phủ đã học rất nhiều bài học đắt giá về sự
phát triển cúa thế giới, do vậy thay đổi là điều tất yếu nếu không muốn bị bỏ đằng sau
cuộc chạy đua toàn cầu. Để làm được điều này thì xúc tiến thương mại là còn đường duy
nhất để các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới, tìm kiếm khách hàng, các cơ hội
kinh doanh và hạn chế được các rủi ro trong thương mại, các hoạt động này đòi hỏi phải
có sự tham gia của các cơ quan nhà nước nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp để thúc đẩy xuất khẩu. Có thể nói, hoạt đông xúc tiến xuất khẩu ở Việt Nam còn
rất mới mẻ và chưa có nhiều sự đổi mới, việc sử dụng các mô hình XTXK cũ kĩ vẫn còn
tồn tại trong bộ máy của chính phủ. Xuất phát từ những vấn đề này cùng sự quan tâm của
bản thân tôi chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xúc tiến thương mại trong
lĩnh vực xuất khẩu của chính phủ cho các doanh nghiệp Đà Nẵng”. Nhằm làm rõ và hệ
thống hoá những vấn đề lý luận về XTXK và đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để đẩy
mạnh công tác XTXK của chính phủ cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Cấu trúc của bài gồm có ba phần:
Chương I: Tổng quan về hoạt động Xúc Tiến thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu
Chương II: Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu của chính phủ trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng năm 2007
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của
chính phủ cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Chương1: Tổng quan về hoạt động Xúc Tiến thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu
1. Khái niệm, vị trí, vai trò của xúc tiến xuất khẩu
1.1Khái niệm xúc tiến xuất khẩu
1.1.1 Khái niệm xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại – XTTM (trade promotion) được hiểu và định nghĩa nhiều
cách khác nhau:
Theo Philip Kotler “xúc tiến là hoạt động thông tin tới khách hàng tiềm năng. Đó
là các hoạt động trao truyền, chuyển tải đến khách hàng những thông tin cần thiết về
doanh nghiệp, phương thức phục vụ và những lợi ích khác mà khách hàng có thể thu
được từ việc mua sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp cũng như những thông tin
phản hồi lại từ phía khách hàng để từ đó doanh nghiệp tìm ra cách thức tốt nhất nhằm
thoả mãn yêu cầu của khách hàng.”
Các nhà lý luận của các nước tư bản quan niệm xúc tiến là hình thái quan hệ xác
định giữa người bán và người mua, là một lĩnh vực hoạt động định hướng vào việc
chào hàng một cách năng động và hiệu quả nhất.
Các nhà kinh tế học ở các nước Đông Âu thì cho rằng xúc tiến là một công cụ, một
chính sách thương mại nhằm làm năng động và gây ảnh hưởng định hướng giữa người
bán và người mua, là một hình thức hoạt động tuyên truyền nhằm mục tiêu đạt được
sự chú ý và chỉ ra những lợi ích của khách hàng tiềm năng về hàng hoá và dịch vụ.
Theo giáo trình lý luận và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh của khoa Marketing
trường đại học kinh tế quốc dân thì “XTTM là các biện pháp và nghệ thuật mà các nhà
kinh doanh dùng để thông tin về hàng hoá, tác động tới người mua, lôi kéo người mua
về phía mình và các biện pháp hỗ trợ cho bán hàng. XTTM bao gồm 3 nội dung chính
: Quảng cáo, các hoạt động yểm trợ, xúc tiến bán hàng”.
Như vậy, tuy các định nghĩa diễn đạt XTTM bằng các từ ngữ khác nhau nhưng nội
hàm của XTTM chỉ là một. Đó là họat động thông tin có định hướng khách hàng,
nhằm mục đích chào hàng năng động và hiệu quả, khuyến khích nhu cầu mua hàng
của khách hàng. Đây là quan niệm truyền thống hay là quan niệm hẹp về XTTM. Cách
tiếp cận này coi hoạt động XTTM là một trong bốn “P” của marketing gồm sản phẩm
(produc), giá cả (price), phân phối (place), xúc tiến (promotion). Với cách tiếp cận này
thì hoạt động XTTM chỉ có vai trò như một trong bốn tham số khác tác động tới hoạt
động thương mại.
Những định nghĩa được đề cập trong thời gian gần đây, khi môi trường thương mại
đang có những biến đổi sâu sắc dưới tác động của toàn cầu hoá và tự do hoá, đáng lưu
ý là định nghĩa của trung tâm thương mại quốc tế ITC, quan niệm này bao trùm hoạt
động XTTM cả ở tầm vi mô (doanh nghiệp) lẫn vĩ mô (chính phủ và các tổ chức hỗ
trợ thương mại), cả thời gian trước mắt và lâu dài. Có thể tổng kết quan niệm này như
sau:
Trước mắt Dài hạn
Doanh nghiệp Qúa trình xuất khẩu
(marketing XK)
Phat triển kinh doanh XK
(Marketing quốc tế)
Chính phủ và các tổ chức
hỗ trợ thương mại
XTXK Phát triển XK
Quan niệm này được hiểu như sau:
XTTM là tất cả các biện pháp có tác động khuyến khích phát triển thương mại.
Những biện pháp này có thể có tác động hỗ trợ khuyến khích trực tiếp hay gián tiếp
tới phát triển thương mại. Những biện pháp có tác động gián tiếp tới phát triển thương
mại nhấn mạnh đến mục tiêu khuyến khích cung cấp hàng hoá dịch vụ cho trao đổi
thương mại như những trợ giúp cho hoạt động nghiên cứu triển khai, những hỗ trợ để
tạo ra hay mở rộng công suất sản xuất của các nhà máy, cải tiến năng suất lao động,
nâng cao chất lượng sản phẩm, những hỗ trợ về công nghệ và phát huy các sáng kiến,
những khuyến khích về thúe kháo và đầu tư...Ngoài ra, còn có các hỗ trợ gián tiếp
khác như giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp như những đề án
phát triển ngành, khu vực, các đề án nâng cấp cơ sở hạ tầng hay cải tiến hệ thống tài
chính của một quốc gia...Những biện pháp có tác động trực tiếp khuyến khích phát
triển thương mại thường là các biện pháp tập trung vào việc kích thích nhu cầu, có thể
kể tới những nổ lực của một quốc gia trong việc đàm phán kí kết các hiệp định, nghị
định thương mại với nước ngoài để từ đó tạo ra nhu cầu cho sản phẩm của nước họ
hay nhưng cố gắng của các doanh nghiệp trong việc thực hiện các chiến dịch quảng
cáo, tham gia hội chợ triển lãm trưng bày giới thiệu sản phẩm, lập văn phòng đại diện
ở nước ngoài...
1.1.2 Xúc tiến thương mại và xúc tiến xuất khẩu
Dưới góc độ kinh doanh quốc tế, XTTM bao gồm XTXK, xúc tiến nhập khẩu,
XTTM nội địa. Vì vậy, có thể nói XTXK là một bộ phận, một hoạt động cụ thể trong
tổng thể hoạt động XTTM. Nhưng trên thực tế, vào những thời kì nhất định, ở những
không gian nhất định và trong môi trường kinh doanh cụ thể hoạt động XTXK lại
được đống nhất với hoạt động XTTM.
Việc dùng XTXK thay cho XTTM là do tầm quan trọng đặc biệt của XK nói
chung, hoạt động XTXK nói riêng đối với sự tăng trưởng kinh tế của các nước trong
giai đoạn hiện nay.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay, trọng tâm của hoạt động XTTM là
phải đẩy mạnh XK làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Việc thực hiện thắng lợi các
chỉ tiêu tăng trưởng XK hằng năm đạt tới 16% thời kì 2001-2005 và nhịp độ tăng
trưởng XK hằng năm tăng trên 2 lần nhịp độ tăng trưởng GDP thời kì 2001-2010 đòi
hỏi phải đẩy mạnh XTXK trong phạm vi các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp và
toàn xã hội. Vào thời điểm hiện nay và trong vòng mười năm tới, hoạt động XTXK
vẫn là trọng tâm của hoạt động XTTM ở Việt Nam.
1.1.3 Xúc tiến xuất khẩu và Marketing xuất khẩu
Quan niệm Marketing hiện đại coi thị trường là khâu quan trọng nhất của quá trình
tái sản xuất hàng hoá. Nhu cầu của thị trường là mục tiêu của sản xuất kinh doanh và
thoả mãn nhu cầu của thị trường là yếu tố quyết định sự thành công của một tổ chức
sản xuất kinh doanh. Cụ thể muốn sản phẩm của mình tiêu thụ được trên thị trường thì
nhà sản xuất phải tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu của người tiêu thụ
và chỉ tiến hành sản xuất những cái gì mà thị trường cần trong hiện tại hay trong tương
lai. Theo Philip Kotler “ marketing là hoạt động nhằm vào việc thoã mãn nhu cầu và
mong muốn của con người thông qua trao đổi hàng hoá và dịch vụ”. Tức là mục tiêu
của hoạt động marketing là nhu cầu và mong muốn cuả con người còn trao đổi là
phương tiện để thực hiện mục tiêu.
Như vậy nội dung cơ bản của marketing hiện đại là nghiên cứu, xác định nhu cầu
hiện tại, phát hiện nhu cầu tiềm năng của thị trường. Điều chỉnh dòng hàng hoá và
dịch vụ lưu thông thuận lợi nhất, đạt hiệu quả cao nhất từ nhà sản xuất tới người tiêu
thụ nhằm thõa mãn các nhu cầu đó. Đó là các chính cách về sản phẩm, giá cả, kênh
phân phối và xúc tiến bán hàng hay còn được gọi là chiến lược và chính sách
marketing hỗn hợp. Nói một cách khác thì marketing là những nổ lực nhằm cung cấp
cho người tiêu thụ đúng sản phẩm mà họ cần vào đúng thời điểm, ở đúng nơi mà họ
cần với đúng mức giá mà họ chấp nhận. ITC đã giải thích marketing theo nghĩa hẹp
đồng nghĩa với quảng cáo, marketing XK, quản lý marketing, nghiên cứu marketing,
quan hệ với công chúng hay xúc tiến bán hàng. Marketing xuất khẩu có quan hệ trực
tiếp với luật thương mại, lĩnh vực phân phối, kênh phân phối, giá cả, phát triển sản
phẩm, hội chợ thương mại. Marketing XK là một bộ phận trong tổng thể hoạt động
marketing và là một khả năng chiến lược trong marketing quốc tế của một tổ chức hay
doanh nghiệp. Marketing XK có thể được coi là một bộ phận của hoạt động XTXK
theo nghĩa rộng hoặc có thể đống nhất với XTXK như ITC quan niệm hay bao hàm
XTXK trong trường hợp quan niệm XTXK là một bộ phận của marketing hỗn hợp
(sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến ở quy mô doanh nghiệp).
Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, quan niệm XTXK theo nghĩa rộng được
củng cố và ngày càng trở nên phổ biến. Quan niệm này phù hợp với những thay đổi
của môi trường kinh doanh và yêu cầu đẩy mạnh XK của đất nước. Việc tiếp cận
marketing XK là hoạt động XTXK ở doanh nghiệp, bộ phận của XTXK chung là thích
hợp nhất đối với nền kinh tế nước ta.
1.1.4 Xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu
Xuất khẩu nói một cách đơn giản nhất là việc bán một sản phẩm hay một dịch vụ
ra thị trường nước ngoài để thu ngoại tệ. XK thuần tuý là một chức năng của hoạt
động thương mại. Nhưng nếu chúng ta muốn đẩy mạnh XK, đem lại sự năng động và
hiệu quả cho hoạt động XK thì đó lại là chức năng của XTTM mà cụ thế là XTXK.
Động cơ để một đất nước tiến hành hoạt động XTXK chính là nhu cầu và yêu cầu của
nước đó phải đẩy mạnh XK để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa về XTXK như “XTXK là hoạt động
được thiết kế để tăng XK của một đất nước hay doanh nghiệp” định nghĩa này không
nhắc tới chủ thể của XTXK. Định nghĩa tổng quát nêu rằng “XTXK là chiến lược phát
triển kinh tế nhấn mạnh đến việc mở rộng XK thông qua các biện pháp chính sách