Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan trong dạy học hóa học hữu cơ ở trường trung học phổ thông
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
****************
LÊ DANH BÌNH
XÂY DỰNG, TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP TRẮC
NGHIỆM KHÁCH QUAN TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC
HỮU CƠ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
HÀ NỘI – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
****************
LÊ DANH BÌNH
XÂY DỰNG, TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP TRẮC
NGHIỆM KHÁCH QUAN TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC
HỮU CƠ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chuyên ngành : Lý luận và PPDH bộ môn Hoá học
Mã số : 62.14.01.11
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Nguyễn Xuân Trường
HÀ NỘI – 2013
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục
tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành một
nước công nghiệp, hội nhập quốc tế. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta chọn giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm “khâu đột phá” của thời kì mới và đã
khẳng định “sự phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ sẽ quyết định
sự thành bại của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ GV
và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan
trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam" [28].
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã khẳng định phấn đấu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại;
chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp
tục được nâng cao; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Chiến lược cũng đã xác định rõ một trong ba đột phá là phát triển nhanh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Sự phát triển của đất nước trong
giai đoạn mới sẽ tạo ra nhiều cơ hội và thuận lợi to lớn, đồng thời cũng phát sinh
nhiều thách thức đối với sự nghiệp phát triển giáo dục [28], [58].
Để góp phần thực hiện mục tiêu lớn của đất nước, ngành Giáo dục đang có
những chuyển biến đáng kể trên nhiều phương diện. Đổi mới PPDH là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo dục nói chung cũng như cấp THPT
1
nói riêng. Mục tiêu, chương trình, nội dung dạy học mới đòi hỏi phải đổi mới và sử
dụng những PPDH mới.
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ
nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục
chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của
người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự
lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của
người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà trường
phổ thông.
Sự thay đổi hình thức tuyển sinh đại học từ tự luận sang trắc nghiệm là một
sự chuyển đổi có tính bước ngoặt đối với ngành Giáo dục nước nhà, cùng với sự
thay đổi đó thì những nhiệm vụ mới, những thách thức mới lại được đặt ra.
Từ năm học 2006-2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT) đã áp dụng trắc
nghiệm khách quan (TNKQ) vào các kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông (THPT)
và thi tuyển sinh Đại học – Cao đẳng đối với các môn Hóa học, Vật lý, Sinh học và
Ngoại ngữ. Trong các đề thi của các môn này thì 100% là TNKQ.
Các sách cung cấp câu TNKQ về các môn học đã xuất bản nhiều trên thị
trường. Cùng với số lượng thì chất lượng các câu TNKQ đang là vấn đề cấp thiết
đặt ra cho ngành Giáo dục khi mà hình thức thi trắc nghiệm trở nên phổ biến và
rộng rãi. Hiện nay đã có khá nhiều tài liệu, sách tham khảo trong nước viết về bài
tập TNKQ tuy nhiên chỉ ở mức độ cung cấp các ngân hàng đề thi và các phương
pháp giải. Một vấn đề quan trọng là việc biên soạn câu TNKQ đối với đa số GV còn
hạn chế do thiếu kĩ năng biên soạn câu trắc nghiệm. GV chủ yếu sử dụng các nguồn
bài tập có sẵn trong các sách tham khảo mà thiếu sự chủ động, sáng tạo trong việc
biên soạn câu TNKQ. Khi biên soạn câu TNKQ nhiều GV chỉ quan tâm đến phương
án đúng mà thiếu sự đầu tư cho phương án nhiễu, hoặc xây dựng các phương án
nhiễu một cách tuỳ tiện, dẫn đến chất lượng câu trắc nghiệm còn thấp.
Với mong muốn góp phần đổi mới PPDH và phương pháp kiểm tra - đánh
giá kết quả học tập môn Hóa học ở trường phổ thông, chúng tôi tiến hành nghiên
2
cứu đề tài “Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan
trong dạy học Hóa học hữu cơ ở trường Trung học phổ thông” là rất cần thiết, có
ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
2.1 Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học Hóa học ở trường THPT.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống bài tập TNKQ dùng để dạy học và kiểm tra - đánh giá kết quả học
tập phần Hóa học hữu cơ chương trình chuẩn ở trường THPT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quy trình, kỹ thuật biên soạn câu TNKQ từ đó đề xuất quy trình
biên soạn câu TNKQ nhiều lựa chọn, cách sử dụng TNKQ trong dạy học Hoá học
hữu cơ ở trường THPT, xây dựng ngân hàng câu TNKQ hóa học hữu cơ để góp
phần nâng cao chất lượng dạy học môn Hóa học ở trường THPT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu nội dung, cấu trúc chương trình Hóa học THPT, đặc biệt chương trình
Hóa học hữu cơ.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về các phương pháp kiểm tra - đánh giá kết quả học tập
môn Hóa học ở trường THPT, nghiên cứu câu TNKQ dùng trong kiểm tra - đánh
giá kết quả học tập.
- Nghiên cứu quy trình kỹ thuật xây dựng câu TNKQ môn Hóa học.
- Nghiên cứu thực tế dạy học Hóa học ở trường THPT, thực trạng của việc biên
soạn và sử dụng bài tập TNKQ.
- Xây dựng hệ thống câu TNKQ Hóa học hữu cơ ở trường THPT.
- Sử dụng bài tập TNKQ trong dạy học và kiểm tra - đánh giá phần Hóa học hữu cơ
ở THPT.
- TNSP để đánh giá chất lượng câu TNKQ, hiệu quả của việc sử dụng TNKQ trong
dạy học Hóa học ở THPT.
3
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, Nhà nước, của Bộ GD & ĐT có liên quan đến
đề tài.
- Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học, tâm lý học, giáo dục học và các tài liệu
khoa học cơ bản có liên quan đến đề tài.
4.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Nghiên cứu thực tiễn dạy học Hóa học ở trường THPT.
- Điều tra cơ bản: Trắc nghiệm, phỏng vấn, dự giờ.
- Lấy ý kiến chuyên gia.
- Thực nghiệm sư phạm.
4.3. Xử lí thông tin
- Dùng phương pháp thống kê toán học xử lí kết quả TNSP.
- Xử lý kết quả thực nghiệm bằng phần mềm Vitesta.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu GV nắm vững nguyên tắc, quy trình, kỹ thuật xây dựng câu TNKQ thì
sẽ xây dựng được hệ thống câu TNKQ có chất lượng tốt, đồng thời sử dụng TNKQ
trong dạy học và kiểm tra - đánh giá kết quả học tập một cách hợp lí thì sẽ nâng cao
được được chất lượng dạy học Hóa học ở trường THPT.
6. Đóng góp của luận án
- Đề xuất quy trình, kỹ thuật xây dựng câu TNKQ Hóa học hữu cơ, đặc biệt là xây
dựng các phương án nhiễu cho dạng câu nhiều lựa chọn.
- Xây dựng ngân hàng câu TNKQ Hóa học hữu cơ ở trường THPT.
- Đề xuất cách sử dụng TNKQ trong dạy học và kiểm tra - đánh giá kết quả học tập
phần Hóa học hữu cơ ở trường THPT.
- Sử dụng phần mềm Vitesta để đánh giá chất lượng các câu trắc nghiệm.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN VÀ
KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ DẠY HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu về trắc nghiệm khách quan
1.1.1. Trên thế giới
Các phương pháp đo lường và trắc nghiệm đầu tiên được tiến hành vào thế
kỷ XVII – XVIII ở lĩnh vực Vật lý – Tâm lý và sau đó là ngành Động vật học ở
châu Âu. Trắc nghiệm chỉ thực sự là phương pháp đo lường cơ bản nhất khi khoa
học chẩn đoán tâm lý hình thành cuối thế kỷ XIX. Lịch sử của trắc nghiệm gắn liền
với lịch sử hình thành khoa học chẩn đoán tâm lý [63].
Khoa học về đo lường đánh giá trong giáo dục được bắt đầu ở châu Âu từ đầu
thế kỷ XX. Alfred Binet – nhà tâm lý học người Pháp cùng với cộng sự đã phát
minh ra bài trắc nghiệm về trí thông minh xuất bản năm 1905. Năm 1916, tiến sĩ
Lewis Terman (Trường Đại học Stanford) đã tiến hành sửa đổi lại, từ đó tên của bài
trắc nghiệm là Stanford – Binet. Vào những năm 40 của thế kỷ XX, các đề trắc
nghiệm dùng trong tuyển sinh ra đời. Giữa thế kỷ XX, sự ra đời các bài test có tính
chất kinh doanh đã phát triển nhanh chóng. Ở Anh, Hội đồng quốc gia giáo dục
hàng năm phê duyệt các chương trình trắc nghiệm chuẩn cho các trường trung học.
Ở Mỹ, với việc đưa vào chấm trắc nghiệm bằng máy của IBM (International
Business Machines) năm 1935, việc thành lập National Council on Measuerement
in Education (NCME) vào thập niên 1950 và ra đời Educational Testing Services
(ETS) năm 1947, một ngành công nghiệp trắc nghiệm đã hình thành. Năm 1963 đã
sử dụng máy tính điện tử thăm dò bằng test trên diện rộng [42] [55][63].
Ở Liên xô trước đây, từ năm 1926 đến năm 1931, đã có một số nhà sư phạm
ở Matxcơva, Lêningrat, Kiep thử nghiệm dùng test để thăm dò đặc điểm tâm sinh lý
cá nhân và kiểm tra kiến thức của HS. Nhưng do quá tin vào giá trị của bài trắc
nghiệm, không thấy hết được các nhược điểm của việc áp dụng máy móc nên đã thu
được kết quả không theo ý muốn. Một thời gian dài sau đó, nhiều người đã nghi
5
ngờ, thậm chí phản đối việc dùng trắc nghiệm. Qua bao nhiêu biến cố mãi tới năm
1963, phương pháp này mới được phục hồi để kiểm tra tri thức của HS. Năm 1964,
Ghecleeric đã sử dụng máy vi tính để cài đặt chương trình xử lý trên diện rộng.
Năm 1965, K.A. Cratmianxcaia dùng test kiểm tra kiến thức hình học không gian và
thăm dò trí tưởng tượng không gian của HS lớp 9, lớp 10. Từ đó tìm ra giá trị của
bài trắc nghiệm đánh giá thành quả học tập và hiệu quả của các PPDH đã được cải
tiến. Ngoài ra nhiều công trình nghiên cứu về TNKQ thuộc các lĩnh vực khoa học
giáo dục khác nhau cũng đã được công bố [35].
Ở các nước châu Âu và Mỹ, có rất nhiều nghiên cứu về kỹ thuật đo lường
trong giáo dục bằng TNKQ, nghiên cứu kỹ thuật xây dựng câu TNKQ, ưu và nhược
điểm của chúng, đánh giá chính xác kết quả học tập kết hợp xử lý trên máy vi tính
các số liệu về xây dựng và sử dụng nhanh chóng TNKQ, như các tác giả: Lindquist
E. F., Stodola Q. và cộng sự, Ebel R. L., Howard B. L., Moris L. L, Taylor C..
Popham W. L., Glaser R. [96], [98], [101], [103], [105].
Hiện nay ở Mỹ ước tính mỗi năm số lượng trắc nghiệm tiêu chuẩn hóa cỡ 1/4
tỉ và trắc nghiệm do GV soạn lên đến 5 tỉ. Tương ứng với ngành công nghiệp đồ sộ
và sự phát triển của công nghệ thông tin, lý thuyết về đo lường trong tâm lí giáo dục
cũng phát triển nhanh. Lý thuyết đáp ứng câu hỏi IRT (Item Response Theory) đã
đạt những thành tựu quan trọng nâng cao độ chính xác của trắc nghiệm, và trên cơ
sở lý thuyết đáp ứng câu hỏi công nghệ trắc nghiệm thích ứng nhờ máy tính
(Computer Adaptive Test – CAT) ra đời. Ngoài ra trên cơ sở những thành tựu của lý
thuyết đáp ứng câu hỏi và ngôn ngữ học máy tính, công nghệ E – RATE chấm tự
động các bài tự luyện tiếng Anh nhờ máy tính của ETS cũng đã được triển khai nhờ
mạng internet trong mấy năm qua. Để tuyển sinh đại học, ở Mỹ các trường Đại học
không tổ chức thi tuyển mà dựa vào các kì thi do các công ty ngoài nhà nước tổ
chức để xét tuyển. Có dịch vụ thi phục vụ công việc này, đó là SAT (Scholastic
Assesment Test) do công ty ETS tổ chức và ACT (American College Testing
Program) do chương trình ACT triển khai. Hàng năm có khoảng 1,8 triệu thí sinh
thi SAT và 1,6 triệu thí sinh thi ACT. HS Mỹ thường gửi đơn dự tuyển đến 5, 6
6
trường đại học, các trường căn cứ trên điểm SAT (hoặc ACT), điểm trung bình học
tập ở THPT và một số nhân tố khác liên quan đến từng cá nhân (phỏng vấn, hoạt
dộng xã hội, thư đề nghị…) để xét tuyển. Để tuyển sinh sau đại học, ở Mỹ công ty
ETS tổ chức các kì thi Graduate Record Examination (GRE). GRE bao gồm trắc
nghiệm tổng quát (General Test – GREST) về Anh ngữ, Toán và khả năng phân
tích, ngoài ra còn có các trắc nghiệm môn học (Subject Test – GREST) cho 16 môn
khác nhau, mỗi môn học có liên quan đến lĩnh vực của chương trình sau đại học
tương ứng. Ngoài các GRE, đối với chương trình cao học quản trị kinh doanh
(MBA) ETS còn tổ chức riêng chương trình trắc nghiệm tuyển sinh sau đại học về
quản lý (Graduate Managemant Admision Test- GMAT). Phải nói là các kì thi trắc
nghiệm tiêu chuẩn hóa ở Mỹ được chuẩn bị rất công phu và khoa học do đó tính
chính xác và khách quan của nó khá cao [55].
Ở Nga trong những năm gần đây khoa học về đo lường trong giáo dục đã
được lưu ý nhiều hơn. Gần đây nhất, từ năm 2003 trên toàn Liên bang Nga lần đầu
tiên tổ chức kì thi quốc gia hợp nhất tốt nghiệp phổ thông và thi tuyển đại học bằng
TNKQ, khoảng 60% số HS trong toàn Liên bang tham gia.
Không chỉ phát triển ở châu Âu và Mỹ, các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Thái Lan từ những năm 70 trở lại đây đã dùng đề thi TNKQ
trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học [55].
Ở Nhật Bản, “Trung tâm quốc gia về tuyển sinh đại học” được thành lập từ
năm 1977, hàng năm tổ chức kì thi tuyển sinh cho hầu hết các trường đại học công
và tư. Năm 1998, gần 600.000 thí sinh dự thi. Đề thi được soạn cho 31 môn cụ thể,
mỗi thí sinh có thể lựa chọn thi 5 môn của 5 nhóm nào đó tùy theo quy định của
từng trường đại học mà thí sinh dự định dự tuyển. Để tổ chức mỗi năm 1 kỳ thi,
trung tâm này chi tiêu cỡ 100 triệu USD /năm [55].
Ở Thái Lan, kỳ thi tuyển sinh đại học được liên kết tổ chức chung cho hầu
hết các trường đại học công và tư từ hơn 30 năm nay. Với kết quả kỳ thi, thí sinh có
thể dự tuyển vào 5 ngành khác nhau của các trường đại học. Từ năm 1998, Thái Lan
7
bắt đầu cải tiến kì thi liên kết bằng cách xét thêm điểm trung bình học ở trường phổ
thông (với trọng số 10%) và cho thi mỗi năm 2 lần [55].
Ở Trung Quốc, từ năm 1989, kì thi tốt nghiệp THPT được giao cho các địa
phương, còn kì thi tuyển sinh đại học được tổ chức thống nhất trên cả lục địa Trung
Quốc vào đầu tháng 7 hàng năm [55].
Đề thi tuyển sinh đại học được soạn toàn bộ (Mỹ, Nhật, Thái Lan) hoặc chủ
yếu (Trung Quốc) bằng TNKQ [55].
1.1.2. Ở Việt Nam
1.1.2.1. Lịch sử nghiên cứu về trắc nghiệm khách quan
Trước khi đất nước thống nhất, ở miền Nam TNKQ đã được tiếp thu và triển
khai khá rộng rãi. Từ năm 1956 đến năm 1960 trong các trường học đã sử dụng
rộng rãi hình thức thi TNKQ ở bậc trung học, sớm nhất là trong bộ môn Sinh học.
Năm 1974, kì thi tú tài toàn phần đã được thi bằng TNKQ. Trước 1975 ở miền Nam
nước ta có một vài người được đào tạo về khoa học đo lường trong giáo dục từ các
nước phương Tây, trong đó có GS Dương Thiệu Tống. Năm 1969, GS Dương
Thiệu Tống đã giảng dạy “Trắc nghiệm thành quả học tập” cho các lớp cao học và
tiến sĩ giáo dục tại Đại học Sư phạm Sài Gòn [63]. Ở miền Bắc vào thời gian này
cũng có một số nhà khoa học quan tâm đến TNKQ như GS Trần Bá Hoành.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do sau khi thống nhất đất nước, TNKQ không còn
được quan tâm. Đến những năm 90 của thế kỷ XX, TNKQ được bắt đầu chú ý trở
lại. Những nghiên cứu đầu tiên về TNKQ ở miền Bắc là các công trình của GS Trần
Bá Hoành. Năm 1996 – 1997, GS Trần Bá Hoành đã đề cập nhiều đến TNKQ trong
các tài liệu “ Đánh giá trong giáo dục” [35], “Tài liệu bồi dưỡng dạy sách giáo khoa
lớp 12 cải cách giáo dục môn Sinh học”. Các tác giả Nguyễn Như An, Nguyễn Hữu
Long, Trần Trọng Thủy cũng đã đề cập đến TNKQ trong các công trình nghiên cứu
của mình [57].
Năm 1994, Bộ GD & ĐT chủ trương đổi mới kiểm tra - đánh giá kết quả học
tập, đã phối hợp với Viện công nghệ Hoàng gia Melbourne của Australia, tổ chức
các cuộc hội thảo với chủ đề “Kỹ thuật xây dựng câu hỏi TNKQ” tại các thành phố
8
Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh. Trước đó ngày 4–12–1993, tại trường Đại
học Bách khoa Hà Nội có cuộc Hội thảo khoa học “Kỹ thuật Test và ứng dụng ở
bậc đại học” Năm 1994, Vụ đại học cho in cuốn “Những cơ sở của kỹ thuật trắc
nghiệm” (tài liệu sử dụng nội bộ) [31]. Năm 1995 với sự tài trợ của UNESCO,
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay là Đại học Quốc Gia Hà Nội cũng đã mở
những lớp tập huấn về phương pháp xây dựng TNKQ cho nhiều giảng viên. Nhiều
tài liệu về xây dựng và sử dụng TNKQ được xuất bản trong thời gian này. TNKQ
được các tác giả Trần Bá Hoành, Lâm Quang Thiệp, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn
Cương, Nguyễn Mạnh Dung, Nguyễn Phụng Hoàng, Võ Ngọc Lan, Nguyễn Thị
Sửu, Lê Xuân Trọng, Từ Ngọc Ánh, Lê Mậu Quyền, Phan Quang Thái, Đặng Thị
Oanh, Phạm Văn Hoan, Trần Trung Ninh, Lê Đức Ngọc, Cao Cự Giác, Đặng Bá
Lãm, Nguyễn Quang Quyền, Nguyễn Huy Tiến, … nghiên cứu xây dựng và đưa
vào sử dụng trong kiểm tra - đánh giá kết quả học tập [27], [30], [36], [39], [41],
[54], [60].
- Ngày 27-12-2006, Bộ GD & ĐT đã công bố chính thức việc áp dụng hình
thức thi TNKQ trong kì thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng năm 2007 đối với các môn
thi Vật lý, Hóa học, Sinh học bên cạnh môn Ngoại ngữ đã áp dụng từ năm 2006. Từ
đó đến nay các kì thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng đã áp dụng
hình thức thi TNKQ đối với 4 môn thi trên.
1.1.2.2. Lịch sử nghiên cứu về trắc nghiệm khách quan môn hóa học
Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về TNKQ trong môn hóa học như các tác giả
Nguyễn Cương, Nguyễn Xuân Trường, Lê Xuân Trọng, Nguyễn Mạnh Dung,
Nguyễn Thị Sửu, Từ Ngọc Ánh, Lê Mậu Quyền, Đặng Thị Oanh, Trần Trung Ninh,
Cao Cự Giác... tuy nhiên công trình của các tác giả trên chủ yếu là xây dựng ngân
hàng, đề thi TNKQ và các phương pháp giải bài tập TNKQ.
Về luận án tiến sĩ, có công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Huy Tiến với
đề tài “Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập TNKQ ở trường THPT. Phần hóa học
vô cơ – ban KHTN”. Công trình nghiên cứu này chỉ đề cập đến xây dựng và sử
dụng hệ thống bài tập TNKQ phần hóa vô cơ ở THPT.
9
Một số luận văn thạc sĩ cũng tập trung chủ yếu vào xây dựng, tuyển chọn, sử
dụng hệ thống câu TNKQ để kiểm tra kiến thức hóa học của HS ở trường THPT tuy
nhiên ở mức độ nhỏ lẻ, rời rạc và chưa hệ thống. Chưa có công trình nào đề cập một
cách đầy đủ và hệ thống về kỹ thuật biên soạn và sử dụng câu TNKQ phần hóa hữu
cơ ở trường THPT.
1.2. Một số xu hướng đổi mới phương pháp dạy học Hóa học ở trường phổ
thông hiện nay
1.2.1. Đổi mới phương pháp dạy học
Với mục tiêu đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
phát triển kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập với
các nước trong khu vực và trên thế giới, đòi hỏi giáo dục nước nhà phải đào tạo ra
những con người lao động có tính sáng tạo, thích ứng với mọi yêu cầu mà xã hội
phát triển đặt ra.
Mục tiêu dạy học không chỉ cung cấp cho HS một hệ thống kiến thức mà
điều quan trọng là giúp HS có được các phẩm chất như chủ động, năng động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm; biết tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin; biết tiếp thu,
biết tự khẳng định mình, biết phê phán; có năng lực tự học, đúc rút kinh nghiệm; có
khả năng giao tiếp, hợp tác, tham gia các hoạt động xã hội...
Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta phải đổi mới PPDH theo hướng dạy cách
học, cách tư duy... GV tổ chức, định hướng, điều khiển. Phát huy tính chủ động tích
cực của HS trong quá trình nhận thức, tạo điều kiện để HS tự lực tìm hiểu, đặt và
giải quyết vấn đề, tăng cường trao đổi, thảo luận, đối thoại để tìm chân lý, tạo điều
kiện hoạt động hợp tác trong nhóm. Tạo điều kiện để HS tự đánh giá, đánh giá lẫn
nhau.
Đổi mới PPDH cần phải gắn liền với đổi mới mục tiêu, đổi mới nội dung, đổi
mới phương pháp dạy, đổi mới phương pháp học và đổi mới kiểm tra - đánh giá kết
quả học tập.
1.2.2. Những yêu cầu quan trọng trong đổi mới PPDH
10
- Bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình (căn cứ chuẩn của chương
trình và đối chiếu với hướng dẫn thực hiện của Bộ GD & ĐT)
- Phát huy tính tích cực, hứng thú trong học tập của HS và vai trò chủ đạo của GV.
- Thiết kế bài giảng khoa học, sắp xếp hợp lí hoạt động của GV và HS, thiết kế hệ
thống câu hỏi hợp lí, tập trung vào trọng tâm, tránh nặng nề quá tải; bồi dưỡng năng
lực độc lập suy nghĩ, vận dụng sáng tạo kiến thức, tránh thiên về ghi nhớ máy móc
không nắm vững bản chất.
- Sử dụng hợp lí SGK khi giảng bài trên lớp, tránh tình trạng yêu cầu HS ghi chép
quá nhiều theo lối đọc chép.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học, khuyến khích
sử dụng CNTT, sử dụng các phương tiện nghe nhìn, thực hiện đầy đủ thí nghiệm
thực hành, liên hệ thực tế trong giảng dạy phù hợp với nội dung từng bài học.
- Dạy học sát đối tượng, coi trọng bồi dưỡng HS khá giỏi và giúp đỡ HS yếu kém.
1.2.3. Một số xu hướng đổi mới phương pháp dạy học Hóa học
a) Khai thác đặc thù của bộ môn Hóa học, tăng cường sử dụng các phương tiện trực
quan (thí nghiệm, phương tiện kỹ thuật dạy học). Sử dụng phối hợp nhiều hình thức
hoạt động của HS, nhiều PPDH của GV, chú trọng PPDH trực quan, sử dụng
thường xuyên tổ hợp các PPDH phức hợp – dạy học đặt và giải quyết vấn đề nhằm
giúp HS được hoạt động chủ động, tích cực và sáng tạo.
Khi sử dụng TNHH và các phương tiện trực quan khác, cần đảm bảo các yêu
cầu sau đây:
* HS tự quan sát, nhận xét hiện tượng thí nghiệm và tính chất cả các chất khi
quan sát trực tiếp mẫu vật, mô hình, tranh ảnh, băng hình, ...
* HS tự làm thí nghiệm khi học bài mới và khi ôn tập, củng cố, tự lắp ráp các
mô hình, các thiết bị thí nghiệm.
* Tăng dần việc sử dụng phương pháp nghiên cứu trong khi tiến hành TNHH
nói riêng và trong dạy học hóa học nói chung
11
b) Khai thác triệt để các nội dung hóa học trong bài dạy theo hướng liên hệ với thực
tế. Đây cũng là một yêu cầu quan trọng trong việc đổi mới PPDH Hóa học nhằm
tăng tính thực tiễn của môn học. Một số nội dung cần khai thác:
- Hóa học với ứng dụng trong đời sống.
- Hóa học với sự phát triển kinh tế, du lịch, quốc phòng.
- Hóa học với ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp.
- Hóa học với việc bảo vệ môi trường.
- Hóa học với sức khỏe.
c) Tăng cường sử dụng các bài tập có tác dụng phát triển tư duy và rèn luyện kĩ
năng thực hành hóa học.
Để phát huy mặt mạnh của bài tập trong dạy học hóa học đòi hỏi GV phải
biết thiết kế và sử dụng các loại bài tập hóa học có tác dụng phát triển tư duy và rèn
luyện các kĩ năng thực hành hóa học, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của môn học.
d) Sử dụng các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại và áp dụng những thành tựu
của CNTT trong dạy học hóa học.
Trước sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ
của công nghệ thông tin đã làm xuất hiện những phương tiện kỹ thuật hiện đại, đa
chức năng dẫn đến hình thành những phương tiện dạy học mới so với trước đây:
- Phòng học đa chức năng.
- Thư viện, SGK, giáo trình điện tử.
- Giáo án, bài giảng điện tử, bài giảng trực tuyến.
- Phần mềm nghiên cứu, dạy học Hóa học.
- Phần mềm thí nghiệm ảo, thí nghiệm mô phỏng.
- Phần mềm kiểm tra trắc nghiệm và quản lý giáo dục.
1.2.4. Định hướng đổi mới kiểm tra - đánh giá
Đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông ở nước ta đang trở thành vấn đề
được cả xã hội và ngành giáo dục quan tâm. Đánh giá tốt sẽ giúp ra được những
quyết định đúng đắn, phù hợp với các yếu cầu phát triển của giáo dục. Đánh giá tốt
cũng giúp điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện từ các chủ trương lớn đến các hoạt động
12
giáo dục cụ thể nhằm đảm bảo nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục. Xu hướng của
giáo dục hiện đại là chuyển từ “tập trung vào kiến thức” sang “tập trung vào năng
lực” đòi hỏi công tác đo lường, đánh giá cũng phải có sự đổi mới kịp thời để trọng
tâm đánh giá chuyển từ nội dung học tập sang phẩm chất, năng lực của người học.
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020 có nhiều mục tiêu
mới đặt ra đối với HS các nhà trường trong đó có một yêu cầu quan trọng là phải
bồi dưỡng năng lực. Đổi mới đánh giá trong dạy học cũng góp phần thực hiện mục
tiêu đó.
Trong định hướng chiến lược phát triển Hóa học Việt Nam trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo thời kỳ 2011 – 2020 có nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy học Hóa học, trong đó chú trong thay đổi cách đánh giá của GV và các
cấp quản lý giáo dục, không chỉ đánh giá kiến thức kĩ năng của người học mà phải
đánh giá năng lực, đạo đức của người học và mức độ đạt được của mục tiêu dạy
học” [21].
1.3. Kiểm tra – đánh giá kết quả học tập
1.3.1. Những khái niệm cơ bản về kiểm tra - đánh giá
1.3.1.1. Khái niệm “kiểm tra”
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên,
NXB Khoa học Xã hội xuất bản năm 1988: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế
để đánh giá, nhận xét”. Theo Trần Bá Hoành: “kiểm tra cung cấp những dữ kiện,
những thông tin làm cơ sở cho đánh giá” [35]. Như vậy kết quả kiểm tra cung cấp
thông tin phản hồi từ người học, về hiệu quả nhận thức, kết quả dạy học. Mục đích
của kiểm tra là thu thập những thông tin về kết quả dạy học.
1.3.1.2. Khái niệm “đánh giá”
Theo Trần Bá Hoành, đánh giá là: “Quá trình hình thành những nhận định,
phán đoán kết quả công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối
chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích
hợp để cải tiến thực trạng, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc” [35]. Theo
Becby C.E.: “Đánh giá là sự thu thập và lý giải một cách có hệ thống những bằng
13