Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan trong dạy học hóa học hữu cơ ở trường trung học phổ thông
PREMIUM
Số trang
159
Kích thước
1.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1961

Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan trong dạy học hóa học hữu cơ ở trường trung học phổ thông

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

****************

LÊ DANH BÌNH

XÂY DỰNG, TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP TRẮC

NGHIỆM KHÁCH QUAN TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC

HỮU CƠ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC

HÀ NỘI – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

****************

LÊ DANH BÌNH

XÂY DỰNG, TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP TRẮC

NGHIỆM KHÁCH QUAN TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC

HỮU CƠ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Chuyên ngành : Lý luận và PPDH bộ môn Hoá học

Mã số : 62.14.01.11

LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. Nguyễn Xuân Trường

HÀ NỘI – 2013

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục

tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành một

nước công nghiệp, hội nhập quốc tế. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta chọn giáo

dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm “khâu đột phá” của thời kì mới và đã

khẳng định “sự phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ sẽ quyết định

sự thành bại của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nghị quyết

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới căn bản, toàn diện nền

giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và

hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ GV

và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh

nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan

trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam" [28].

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã khẳng định phấn đấu

đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại;

chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh

thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp

tục được nâng cao; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.

Chiến lược cũng đã xác định rõ một trong ba đột phá là phát triển nhanh nguồn

nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn

bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực

với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Sự phát triển của đất nước trong

giai đoạn mới sẽ tạo ra nhiều cơ hội và thuận lợi to lớn, đồng thời cũng phát sinh

nhiều thách thức đối với sự nghiệp phát triển giáo dục [28], [58].

Để góp phần thực hiện mục tiêu lớn của đất nước, ngành Giáo dục đang có

những chuyển biến đáng kể trên nhiều phương diện. Đổi mới PPDH là một trong

những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo dục nói chung cũng như cấp THPT

1

nói riêng. Mục tiêu, chương trình, nội dung dạy học mới đòi hỏi phải đổi mới và sử

dụng những PPDH mới.

Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ

nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục

chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của

người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự

lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của

người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà trường

phổ thông.

Sự thay đổi hình thức tuyển sinh đại học từ tự luận sang trắc nghiệm là một

sự chuyển đổi có tính bước ngoặt đối với ngành Giáo dục nước nhà, cùng với sự

thay đổi đó thì những nhiệm vụ mới, những thách thức mới lại được đặt ra.

Từ năm học 2006-2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT) đã áp dụng trắc

nghiệm khách quan (TNKQ) vào các kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông (THPT)

và thi tuyển sinh Đại học – Cao đẳng đối với các môn Hóa học, Vật lý, Sinh học và

Ngoại ngữ. Trong các đề thi của các môn này thì 100% là TNKQ.

Các sách cung cấp câu TNKQ về các môn học đã xuất bản nhiều trên thị

trường. Cùng với số lượng thì chất lượng các câu TNKQ đang là vấn đề cấp thiết

đặt ra cho ngành Giáo dục khi mà hình thức thi trắc nghiệm trở nên phổ biến và

rộng rãi. Hiện nay đã có khá nhiều tài liệu, sách tham khảo trong nước viết về bài

tập TNKQ tuy nhiên chỉ ở mức độ cung cấp các ngân hàng đề thi và các phương

pháp giải. Một vấn đề quan trọng là việc biên soạn câu TNKQ đối với đa số GV còn

hạn chế do thiếu kĩ năng biên soạn câu trắc nghiệm. GV chủ yếu sử dụng các nguồn

bài tập có sẵn trong các sách tham khảo mà thiếu sự chủ động, sáng tạo trong việc

biên soạn câu TNKQ. Khi biên soạn câu TNKQ nhiều GV chỉ quan tâm đến phương

án đúng mà thiếu sự đầu tư cho phương án nhiễu, hoặc xây dựng các phương án

nhiễu một cách tuỳ tiện, dẫn đến chất lượng câu trắc nghiệm còn thấp.

Với mong muốn góp phần đổi mới PPDH và phương pháp kiểm tra - đánh

giá kết quả học tập môn Hóa học ở trường phổ thông, chúng tôi tiến hành nghiên

2

cứu đề tài “Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan

trong dạy học Hóa học hữu cơ ở trường Trung học phổ thông” là rất cần thiết, có

ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

2.1 Khách thể nghiên cứu

Quá trình dạy học Hóa học ở trường THPT.

2.2. Đối tượng nghiên cứu

Hệ thống bài tập TNKQ dùng để dạy học và kiểm tra - đánh giá kết quả học

tập phần Hóa học hữu cơ chương trình chuẩn ở trường THPT.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu quy trình, kỹ thuật biên soạn câu TNKQ từ đó đề xuất quy trình

biên soạn câu TNKQ nhiều lựa chọn, cách sử dụng TNKQ trong dạy học Hoá học

hữu cơ ở trường THPT, xây dựng ngân hàng câu TNKQ hóa học hữu cơ để góp

phần nâng cao chất lượng dạy học môn Hóa học ở trường THPT.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu nội dung, cấu trúc chương trình Hóa học THPT, đặc biệt chương trình

Hóa học hữu cơ.

- Nghiên cứu cơ sở lí luận về các phương pháp kiểm tra - đánh giá kết quả học tập

môn Hóa học ở trường THPT, nghiên cứu câu TNKQ dùng trong kiểm tra - đánh

giá kết quả học tập.

- Nghiên cứu quy trình kỹ thuật xây dựng câu TNKQ môn Hóa học.

- Nghiên cứu thực tế dạy học Hóa học ở trường THPT, thực trạng của việc biên

soạn và sử dụng bài tập TNKQ.

- Xây dựng hệ thống câu TNKQ Hóa học hữu cơ ở trường THPT.

- Sử dụng bài tập TNKQ trong dạy học và kiểm tra - đánh giá phần Hóa học hữu cơ

ở THPT.

- TNSP để đánh giá chất lượng câu TNKQ, hiệu quả của việc sử dụng TNKQ trong

dạy học Hóa học ở THPT.

3

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Nghiên cứu lí luận

- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, Nhà nước, của Bộ GD & ĐT có liên quan đến

đề tài.

- Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học, tâm lý học, giáo dục học và các tài liệu

khoa học cơ bản có liên quan đến đề tài.

4.2. Nghiên cứu thực tiễn

- Nghiên cứu thực tiễn dạy học Hóa học ở trường THPT.

- Điều tra cơ bản: Trắc nghiệm, phỏng vấn, dự giờ.

- Lấy ý kiến chuyên gia.

- Thực nghiệm sư phạm.

4.3. Xử lí thông tin

- Dùng phương pháp thống kê toán học xử lí kết quả TNSP.

- Xử lý kết quả thực nghiệm bằng phần mềm Vitesta.

5. Giả thuyết khoa học

Nếu GV nắm vững nguyên tắc, quy trình, kỹ thuật xây dựng câu TNKQ thì

sẽ xây dựng được hệ thống câu TNKQ có chất lượng tốt, đồng thời sử dụng TNKQ

trong dạy học và kiểm tra - đánh giá kết quả học tập một cách hợp lí thì sẽ nâng cao

được được chất lượng dạy học Hóa học ở trường THPT.

6. Đóng góp của luận án

- Đề xuất quy trình, kỹ thuật xây dựng câu TNKQ Hóa học hữu cơ, đặc biệt là xây

dựng các phương án nhiễu cho dạng câu nhiều lựa chọn.

- Xây dựng ngân hàng câu TNKQ Hóa học hữu cơ ở trường THPT.

- Đề xuất cách sử dụng TNKQ trong dạy học và kiểm tra - đánh giá kết quả học tập

phần Hóa học hữu cơ ở trường THPT.

- Sử dụng phần mềm Vitesta để đánh giá chất lượng các câu trắc nghiệm.

4

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN VÀ

KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ DẠY HỌC

1.1. Lịch sử nghiên cứu về trắc nghiệm khách quan

1.1.1. Trên thế giới

Các phương pháp đo lường và trắc nghiệm đầu tiên được tiến hành vào thế

kỷ XVII – XVIII ở lĩnh vực Vật lý – Tâm lý và sau đó là ngành Động vật học ở

châu Âu. Trắc nghiệm chỉ thực sự là phương pháp đo lường cơ bản nhất khi khoa

học chẩn đoán tâm lý hình thành cuối thế kỷ XIX. Lịch sử của trắc nghiệm gắn liền

với lịch sử hình thành khoa học chẩn đoán tâm lý [63].

Khoa học về đo lường đánh giá trong giáo dục được bắt đầu ở châu Âu từ đầu

thế kỷ XX. Alfred Binet – nhà tâm lý học người Pháp cùng với cộng sự đã phát

minh ra bài trắc nghiệm về trí thông minh xuất bản năm 1905. Năm 1916, tiến sĩ

Lewis Terman (Trường Đại học Stanford) đã tiến hành sửa đổi lại, từ đó tên của bài

trắc nghiệm là Stanford – Binet. Vào những năm 40 của thế kỷ XX, các đề trắc

nghiệm dùng trong tuyển sinh ra đời. Giữa thế kỷ XX, sự ra đời các bài test có tính

chất kinh doanh đã phát triển nhanh chóng. Ở Anh, Hội đồng quốc gia giáo dục

hàng năm phê duyệt các chương trình trắc nghiệm chuẩn cho các trường trung học.

Ở Mỹ, với việc đưa vào chấm trắc nghiệm bằng máy của IBM (International

Business Machines) năm 1935, việc thành lập National Council on Measuerement

in Education (NCME) vào thập niên 1950 và ra đời Educational Testing Services

(ETS) năm 1947, một ngành công nghiệp trắc nghiệm đã hình thành. Năm 1963 đã

sử dụng máy tính điện tử thăm dò bằng test trên diện rộng [42] [55][63].

Ở Liên xô trước đây, từ năm 1926 đến năm 1931, đã có một số nhà sư phạm

ở Matxcơva, Lêningrat, Kiep thử nghiệm dùng test để thăm dò đặc điểm tâm sinh lý

cá nhân và kiểm tra kiến thức của HS. Nhưng do quá tin vào giá trị của bài trắc

nghiệm, không thấy hết được các nhược điểm của việc áp dụng máy móc nên đã thu

được kết quả không theo ý muốn. Một thời gian dài sau đó, nhiều người đã nghi

5

ngờ, thậm chí phản đối việc dùng trắc nghiệm. Qua bao nhiêu biến cố mãi tới năm

1963, phương pháp này mới được phục hồi để kiểm tra tri thức của HS. Năm 1964,

Ghecleeric đã sử dụng máy vi tính để cài đặt chương trình xử lý trên diện rộng.

Năm 1965, K.A. Cratmianxcaia dùng test kiểm tra kiến thức hình học không gian và

thăm dò trí tưởng tượng không gian của HS lớp 9, lớp 10. Từ đó tìm ra giá trị của

bài trắc nghiệm đánh giá thành quả học tập và hiệu quả của các PPDH đã được cải

tiến. Ngoài ra nhiều công trình nghiên cứu về TNKQ thuộc các lĩnh vực khoa học

giáo dục khác nhau cũng đã được công bố [35].

Ở các nước châu Âu và Mỹ, có rất nhiều nghiên cứu về kỹ thuật đo lường

trong giáo dục bằng TNKQ, nghiên cứu kỹ thuật xây dựng câu TNKQ, ưu và nhược

điểm của chúng, đánh giá chính xác kết quả học tập kết hợp xử lý trên máy vi tính

các số liệu về xây dựng và sử dụng nhanh chóng TNKQ, như các tác giả: Lindquist

E. F., Stodola Q. và cộng sự, Ebel R. L., Howard B. L., Moris L. L, Taylor C..

Popham W. L., Glaser R. [96], [98], [101], [103], [105].

Hiện nay ở Mỹ ước tính mỗi năm số lượng trắc nghiệm tiêu chuẩn hóa cỡ 1/4

tỉ và trắc nghiệm do GV soạn lên đến 5 tỉ. Tương ứng với ngành công nghiệp đồ sộ

và sự phát triển của công nghệ thông tin, lý thuyết về đo lường trong tâm lí giáo dục

cũng phát triển nhanh. Lý thuyết đáp ứng câu hỏi IRT (Item Response Theory) đã

đạt những thành tựu quan trọng nâng cao độ chính xác của trắc nghiệm, và trên cơ

sở lý thuyết đáp ứng câu hỏi công nghệ trắc nghiệm thích ứng nhờ máy tính

(Computer Adaptive Test – CAT) ra đời. Ngoài ra trên cơ sở những thành tựu của lý

thuyết đáp ứng câu hỏi và ngôn ngữ học máy tính, công nghệ E – RATE chấm tự

động các bài tự luyện tiếng Anh nhờ máy tính của ETS cũng đã được triển khai nhờ

mạng internet trong mấy năm qua. Để tuyển sinh đại học, ở Mỹ các trường Đại học

không tổ chức thi tuyển mà dựa vào các kì thi do các công ty ngoài nhà nước tổ

chức để xét tuyển. Có dịch vụ thi phục vụ công việc này, đó là SAT (Scholastic

Assesment Test) do công ty ETS tổ chức và ACT (American College Testing

Program) do chương trình ACT triển khai. Hàng năm có khoảng 1,8 triệu thí sinh

thi SAT và 1,6 triệu thí sinh thi ACT. HS Mỹ thường gửi đơn dự tuyển đến 5, 6

6

trường đại học, các trường căn cứ trên điểm SAT (hoặc ACT), điểm trung bình học

tập ở THPT và một số nhân tố khác liên quan đến từng cá nhân (phỏng vấn, hoạt

dộng xã hội, thư đề nghị…) để xét tuyển. Để tuyển sinh sau đại học, ở Mỹ công ty

ETS tổ chức các kì thi Graduate Record Examination (GRE). GRE bao gồm trắc

nghiệm tổng quát (General Test – GREST) về Anh ngữ, Toán và khả năng phân

tích, ngoài ra còn có các trắc nghiệm môn học (Subject Test – GREST) cho 16 môn

khác nhau, mỗi môn học có liên quan đến lĩnh vực của chương trình sau đại học

tương ứng. Ngoài các GRE, đối với chương trình cao học quản trị kinh doanh

(MBA) ETS còn tổ chức riêng chương trình trắc nghiệm tuyển sinh sau đại học về

quản lý (Graduate Managemant Admision Test- GMAT). Phải nói là các kì thi trắc

nghiệm tiêu chuẩn hóa ở Mỹ được chuẩn bị rất công phu và khoa học do đó tính

chính xác và khách quan của nó khá cao [55].

Ở Nga trong những năm gần đây khoa học về đo lường trong giáo dục đã

được lưu ý nhiều hơn. Gần đây nhất, từ năm 2003 trên toàn Liên bang Nga lần đầu

tiên tổ chức kì thi quốc gia hợp nhất tốt nghiệp phổ thông và thi tuyển đại học bằng

TNKQ, khoảng 60% số HS trong toàn Liên bang tham gia.

Không chỉ phát triển ở châu Âu và Mỹ, các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn

Quốc, Trung Quốc, Thái Lan từ những năm 70 trở lại đây đã dùng đề thi TNKQ

trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học [55].

Ở Nhật Bản, “Trung tâm quốc gia về tuyển sinh đại học” được thành lập từ

năm 1977, hàng năm tổ chức kì thi tuyển sinh cho hầu hết các trường đại học công

và tư. Năm 1998, gần 600.000 thí sinh dự thi. Đề thi được soạn cho 31 môn cụ thể,

mỗi thí sinh có thể lựa chọn thi 5 môn của 5 nhóm nào đó tùy theo quy định của

từng trường đại học mà thí sinh dự định dự tuyển. Để tổ chức mỗi năm 1 kỳ thi,

trung tâm này chi tiêu cỡ 100 triệu USD /năm [55].

Ở Thái Lan, kỳ thi tuyển sinh đại học được liên kết tổ chức chung cho hầu

hết các trường đại học công và tư từ hơn 30 năm nay. Với kết quả kỳ thi, thí sinh có

thể dự tuyển vào 5 ngành khác nhau của các trường đại học. Từ năm 1998, Thái Lan

7

bắt đầu cải tiến kì thi liên kết bằng cách xét thêm điểm trung bình học ở trường phổ

thông (với trọng số 10%) và cho thi mỗi năm 2 lần [55].

Ở Trung Quốc, từ năm 1989, kì thi tốt nghiệp THPT được giao cho các địa

phương, còn kì thi tuyển sinh đại học được tổ chức thống nhất trên cả lục địa Trung

Quốc vào đầu tháng 7 hàng năm [55].

Đề thi tuyển sinh đại học được soạn toàn bộ (Mỹ, Nhật, Thái Lan) hoặc chủ

yếu (Trung Quốc) bằng TNKQ [55].

1.1.2. Ở Việt Nam

1.1.2.1. Lịch sử nghiên cứu về trắc nghiệm khách quan

Trước khi đất nước thống nhất, ở miền Nam TNKQ đã được tiếp thu và triển

khai khá rộng rãi. Từ năm 1956 đến năm 1960 trong các trường học đã sử dụng

rộng rãi hình thức thi TNKQ ở bậc trung học, sớm nhất là trong bộ môn Sinh học.

Năm 1974, kì thi tú tài toàn phần đã được thi bằng TNKQ. Trước 1975 ở miền Nam

nước ta có một vài người được đào tạo về khoa học đo lường trong giáo dục từ các

nước phương Tây, trong đó có GS Dương Thiệu Tống. Năm 1969, GS Dương

Thiệu Tống đã giảng dạy “Trắc nghiệm thành quả học tập” cho các lớp cao học và

tiến sĩ giáo dục tại Đại học Sư phạm Sài Gòn [63]. Ở miền Bắc vào thời gian này

cũng có một số nhà khoa học quan tâm đến TNKQ như GS Trần Bá Hoành.

Tuy nhiên, vì nhiều lý do sau khi thống nhất đất nước, TNKQ không còn

được quan tâm. Đến những năm 90 của thế kỷ XX, TNKQ được bắt đầu chú ý trở

lại. Những nghiên cứu đầu tiên về TNKQ ở miền Bắc là các công trình của GS Trần

Bá Hoành. Năm 1996 – 1997, GS Trần Bá Hoành đã đề cập nhiều đến TNKQ trong

các tài liệu “ Đánh giá trong giáo dục” [35], “Tài liệu bồi dưỡng dạy sách giáo khoa

lớp 12 cải cách giáo dục môn Sinh học”. Các tác giả Nguyễn Như An, Nguyễn Hữu

Long, Trần Trọng Thủy cũng đã đề cập đến TNKQ trong các công trình nghiên cứu

của mình [57].

Năm 1994, Bộ GD & ĐT chủ trương đổi mới kiểm tra - đánh giá kết quả học

tập, đã phối hợp với Viện công nghệ Hoàng gia Melbourne của Australia, tổ chức

các cuộc hội thảo với chủ đề “Kỹ thuật xây dựng câu hỏi TNKQ” tại các thành phố

8

Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh. Trước đó ngày 4–12–1993, tại trường Đại

học Bách khoa Hà Nội có cuộc Hội thảo khoa học “Kỹ thuật Test và ứng dụng ở

bậc đại học” Năm 1994, Vụ đại học cho in cuốn “Những cơ sở của kỹ thuật trắc

nghiệm” (tài liệu sử dụng nội bộ) [31]. Năm 1995 với sự tài trợ của UNESCO,

trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay là Đại học Quốc Gia Hà Nội cũng đã mở

những lớp tập huấn về phương pháp xây dựng TNKQ cho nhiều giảng viên. Nhiều

tài liệu về xây dựng và sử dụng TNKQ được xuất bản trong thời gian này. TNKQ

được các tác giả Trần Bá Hoành, Lâm Quang Thiệp, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn

Cương, Nguyễn Mạnh Dung, Nguyễn Phụng Hoàng, Võ Ngọc Lan, Nguyễn Thị

Sửu, Lê Xuân Trọng, Từ Ngọc Ánh, Lê Mậu Quyền, Phan Quang Thái, Đặng Thị

Oanh, Phạm Văn Hoan, Trần Trung Ninh, Lê Đức Ngọc, Cao Cự Giác, Đặng Bá

Lãm, Nguyễn Quang Quyền, Nguyễn Huy Tiến, … nghiên cứu xây dựng và đưa

vào sử dụng trong kiểm tra - đánh giá kết quả học tập [27], [30], [36], [39], [41],

[54], [60].

- Ngày 27-12-2006, Bộ GD & ĐT đã công bố chính thức việc áp dụng hình

thức thi TNKQ trong kì thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng năm 2007 đối với các môn

thi Vật lý, Hóa học, Sinh học bên cạnh môn Ngoại ngữ đã áp dụng từ năm 2006. Từ

đó đến nay các kì thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng đã áp dụng

hình thức thi TNKQ đối với 4 môn thi trên.

1.1.2.2. Lịch sử nghiên cứu về trắc nghiệm khách quan môn hóa học

Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về TNKQ trong môn hóa học như các tác giả

Nguyễn Cương, Nguyễn Xuân Trường, Lê Xuân Trọng, Nguyễn Mạnh Dung,

Nguyễn Thị Sửu, Từ Ngọc Ánh, Lê Mậu Quyền, Đặng Thị Oanh, Trần Trung Ninh,

Cao Cự Giác... tuy nhiên công trình của các tác giả trên chủ yếu là xây dựng ngân

hàng, đề thi TNKQ và các phương pháp giải bài tập TNKQ.

Về luận án tiến sĩ, có công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Huy Tiến với

đề tài “Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập TNKQ ở trường THPT. Phần hóa học

vô cơ – ban KHTN”. Công trình nghiên cứu này chỉ đề cập đến xây dựng và sử

dụng hệ thống bài tập TNKQ phần hóa vô cơ ở THPT.

9

Một số luận văn thạc sĩ cũng tập trung chủ yếu vào xây dựng, tuyển chọn, sử

dụng hệ thống câu TNKQ để kiểm tra kiến thức hóa học của HS ở trường THPT tuy

nhiên ở mức độ nhỏ lẻ, rời rạc và chưa hệ thống. Chưa có công trình nào đề cập một

cách đầy đủ và hệ thống về kỹ thuật biên soạn và sử dụng câu TNKQ phần hóa hữu

cơ ở trường THPT.

1.2. Một số xu hướng đổi mới phương pháp dạy học Hóa học ở trường phổ

thông hiện nay

1.2.1. Đổi mới phương pháp dạy học

Với mục tiêu đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

phát triển kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập với

các nước trong khu vực và trên thế giới, đòi hỏi giáo dục nước nhà phải đào tạo ra

những con người lao động có tính sáng tạo, thích ứng với mọi yêu cầu mà xã hội

phát triển đặt ra.

Mục tiêu dạy học không chỉ cung cấp cho HS một hệ thống kiến thức mà

điều quan trọng là giúp HS có được các phẩm chất như chủ động, năng động, sáng

tạo, dám nghĩ, dám làm; biết tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin; biết tiếp thu,

biết tự khẳng định mình, biết phê phán; có năng lực tự học, đúc rút kinh nghiệm; có

khả năng giao tiếp, hợp tác, tham gia các hoạt động xã hội...

Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta phải đổi mới PPDH theo hướng dạy cách

học, cách tư duy... GV tổ chức, định hướng, điều khiển. Phát huy tính chủ động tích

cực của HS trong quá trình nhận thức, tạo điều kiện để HS tự lực tìm hiểu, đặt và

giải quyết vấn đề, tăng cường trao đổi, thảo luận, đối thoại để tìm chân lý, tạo điều

kiện hoạt động hợp tác trong nhóm. Tạo điều kiện để HS tự đánh giá, đánh giá lẫn

nhau.

Đổi mới PPDH cần phải gắn liền với đổi mới mục tiêu, đổi mới nội dung, đổi

mới phương pháp dạy, đổi mới phương pháp học và đổi mới kiểm tra - đánh giá kết

quả học tập.

1.2.2. Những yêu cầu quan trọng trong đổi mới PPDH

10

- Bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình (căn cứ chuẩn của chương

trình và đối chiếu với hướng dẫn thực hiện của Bộ GD & ĐT)

- Phát huy tính tích cực, hứng thú trong học tập của HS và vai trò chủ đạo của GV.

- Thiết kế bài giảng khoa học, sắp xếp hợp lí hoạt động của GV và HS, thiết kế hệ

thống câu hỏi hợp lí, tập trung vào trọng tâm, tránh nặng nề quá tải; bồi dưỡng năng

lực độc lập suy nghĩ, vận dụng sáng tạo kiến thức, tránh thiên về ghi nhớ máy móc

không nắm vững bản chất.

- Sử dụng hợp lí SGK khi giảng bài trên lớp, tránh tình trạng yêu cầu HS ghi chép

quá nhiều theo lối đọc chép.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học, khuyến khích

sử dụng CNTT, sử dụng các phương tiện nghe nhìn, thực hiện đầy đủ thí nghiệm

thực hành, liên hệ thực tế trong giảng dạy phù hợp với nội dung từng bài học.

- Dạy học sát đối tượng, coi trọng bồi dưỡng HS khá giỏi và giúp đỡ HS yếu kém.

1.2.3. Một số xu hướng đổi mới phương pháp dạy học Hóa học

a) Khai thác đặc thù của bộ môn Hóa học, tăng cường sử dụng các phương tiện trực

quan (thí nghiệm, phương tiện kỹ thuật dạy học). Sử dụng phối hợp nhiều hình thức

hoạt động của HS, nhiều PPDH của GV, chú trọng PPDH trực quan, sử dụng

thường xuyên tổ hợp các PPDH phức hợp – dạy học đặt và giải quyết vấn đề nhằm

giúp HS được hoạt động chủ động, tích cực và sáng tạo.

Khi sử dụng TNHH và các phương tiện trực quan khác, cần đảm bảo các yêu

cầu sau đây:

* HS tự quan sát, nhận xét hiện tượng thí nghiệm và tính chất cả các chất khi

quan sát trực tiếp mẫu vật, mô hình, tranh ảnh, băng hình, ...

* HS tự làm thí nghiệm khi học bài mới và khi ôn tập, củng cố, tự lắp ráp các

mô hình, các thiết bị thí nghiệm.

* Tăng dần việc sử dụng phương pháp nghiên cứu trong khi tiến hành TNHH

nói riêng và trong dạy học hóa học nói chung

11

b) Khai thác triệt để các nội dung hóa học trong bài dạy theo hướng liên hệ với thực

tế. Đây cũng là một yêu cầu quan trọng trong việc đổi mới PPDH Hóa học nhằm

tăng tính thực tiễn của môn học. Một số nội dung cần khai thác:

- Hóa học với ứng dụng trong đời sống.

- Hóa học với sự phát triển kinh tế, du lịch, quốc phòng.

- Hóa học với ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp.

- Hóa học với việc bảo vệ môi trường.

- Hóa học với sức khỏe.

c) Tăng cường sử dụng các bài tập có tác dụng phát triển tư duy và rèn luyện kĩ

năng thực hành hóa học.

Để phát huy mặt mạnh của bài tập trong dạy học hóa học đòi hỏi GV phải

biết thiết kế và sử dụng các loại bài tập hóa học có tác dụng phát triển tư duy và rèn

luyện các kĩ năng thực hành hóa học, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của môn học.

d) Sử dụng các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại và áp dụng những thành tựu

của CNTT trong dạy học hóa học.

Trước sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ

của công nghệ thông tin đã làm xuất hiện những phương tiện kỹ thuật hiện đại, đa

chức năng dẫn đến hình thành những phương tiện dạy học mới so với trước đây:

- Phòng học đa chức năng.

- Thư viện, SGK, giáo trình điện tử.

- Giáo án, bài giảng điện tử, bài giảng trực tuyến.

- Phần mềm nghiên cứu, dạy học Hóa học.

- Phần mềm thí nghiệm ảo, thí nghiệm mô phỏng.

- Phần mềm kiểm tra trắc nghiệm và quản lý giáo dục.

1.2.4. Định hướng đổi mới kiểm tra - đánh giá

Đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông ở nước ta đang trở thành vấn đề

được cả xã hội và ngành giáo dục quan tâm. Đánh giá tốt sẽ giúp ra được những

quyết định đúng đắn, phù hợp với các yếu cầu phát triển của giáo dục. Đánh giá tốt

cũng giúp điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện từ các chủ trương lớn đến các hoạt động

12

giáo dục cụ thể nhằm đảm bảo nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục. Xu hướng của

giáo dục hiện đại là chuyển từ “tập trung vào kiến thức” sang “tập trung vào năng

lực” đòi hỏi công tác đo lường, đánh giá cũng phải có sự đổi mới kịp thời để trọng

tâm đánh giá chuyển từ nội dung học tập sang phẩm chất, năng lực của người học.

Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020 có nhiều mục tiêu

mới đặt ra đối với HS các nhà trường trong đó có một yêu cầu quan trọng là phải

bồi dưỡng năng lực. Đổi mới đánh giá trong dạy học cũng góp phần thực hiện mục

tiêu đó.

Trong định hướng chiến lược phát triển Hóa học Việt Nam trong lĩnh vực

giáo dục và đào tạo thời kỳ 2011 – 2020 có nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương

pháp dạy học Hóa học, trong đó chú trong thay đổi cách đánh giá của GV và các

cấp quản lý giáo dục, không chỉ đánh giá kiến thức kĩ năng của người học mà phải

đánh giá năng lực, đạo đức của người học và mức độ đạt được của mục tiêu dạy

học” [21].

1.3. Kiểm tra – đánh giá kết quả học tập

1.3.1. Những khái niệm cơ bản về kiểm tra - đánh giá

1.3.1.1. Khái niệm “kiểm tra”

Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên,

NXB Khoa học Xã hội xuất bản năm 1988: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế

để đánh giá, nhận xét”. Theo Trần Bá Hoành: “kiểm tra cung cấp những dữ kiện,

những thông tin làm cơ sở cho đánh giá” [35]. Như vậy kết quả kiểm tra cung cấp

thông tin phản hồi từ người học, về hiệu quả nhận thức, kết quả dạy học. Mục đích

của kiểm tra là thu thập những thông tin về kết quả dạy học.

1.3.1.2. Khái niệm “đánh giá”

Theo Trần Bá Hoành, đánh giá là: “Quá trình hình thành những nhận định,

phán đoán kết quả công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối

chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích

hợp để cải tiến thực trạng, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc” [35]. Theo

Becby C.E.: “Đánh giá là sự thu thập và lý giải một cách có hệ thống những bằng

13

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!