Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới
PREMIUM
Số trang
358
Kích thước
3.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
813

Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ – HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

- - - Y Z - - -

BÁO CÁO TỔNG HỢP

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ NĂM 2007

XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Ở TÂY NGUYÊN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

(Mã số: B. 07 - 29)

Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị khu vực III

Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Trương Minh Dục

6806

17/4/2008

Đà Nẵng, tháng 12 năm 2007

2

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH: Ban Chấp hành

BCĐ : Ban chỉ đạo

CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH: Chủ nghĩa xã hội

CT : Chỉ thị

CTQG: Chính trị quốc gia

DTTS: Dân tộc thiểu số

ĐCĐC: Định canh, định cư

HTCT: Hệ thống chính trị

NHNN: Ngân hàng nông nghiệp

Nxb: Nhà xuất bản

QĐ : Quyết định

TTg : Thủ tướng

TU : Tỉnh ủy

TW: Trung ương

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tây Nguyên (bao gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và

Lâm Đồng) có hơn 46 dân tộc anh em sinh sống (ïcó 12 dân tộc bản địa). Đây là địa

bàn có vị chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng, an

ninh; có tuyến biên giới dài 591 km, trong đó có 150 km tiếp giáp với tỉnh Atôpơ

của Lào và 441 km tiếp giáp với hai tỉnh Mônđônkiri, Ratanakiri của Cămpuchia.

Quán triệt Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết định 72 của Hội đồng Bộ

trưởng (nay là Chính phủ), Chỉ thị 525 của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là Nghị

quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 18 tháng 01 năm 2002, sau 20 năm đổi mới, kinh tế

- xã hội Tây Nguyên đã có những bước phát triển khá toàn diện và đang chuyển

mạnh sang sản xuất hàng hóa. Hệ thống chính trị cơ sở được kiện toàn, khối đại

đoàn kết các dân tộc được giữ vững. Các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên đã tập trung

xây dựng cơ sở chính trị ngày càng vững mạnh, phát huy được vai trò lãnh đạo, tổ

chức thực hiện có hiệu quả các chương trình kinh tế, xã hội và duy trì tốt các phong

trào chính trị xã hội của địa phương. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân

dân từng bước được củng cố và tăng cường, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Quán triệt những chủ trương, chính sách về củng cố và tăng cường khối đại

đoàn kết dân tộc của Đảng, nhận thức đúng đắn vị trí và đặc điểm của vùng đồng

bào dân tộc thiểu số, đảng bộ các tỉnh Tây Nguyên đã ban hành nhiều nghị quyết

chuyên đề về củng cố và tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây

Nguyên, công tác vận động đồng bào các dân tộc, củng cố cơ sở chính trị, đầu tư

phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và thế trận quốc

phòng toàn dân. Vì vậy, khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên đã được

củng cố và tăng cường. Công tác dân vận được triển khai đồng bộ, toàn diện với

nhiều hình thức phong phú, đa dạng; nội dung cụ thể, thiết thực, sát hợp, hướng

hoạt động về cơ sở, địa bàn khu dân cư. Trong quá trình tổ chức vận động các tầng

lớp nhân dân đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công tác dân vận đã coi trọng vận

4

động quần chúng đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, kịp thời giải quyết các

“điểm nóng“ từ khi mới phát sinh, góp phần giữ vững an ninh chính trị và ổn định ở

Tây Nguyên. Nhiều mô hình dân vận tốt đã xuất hiện và được nhân rộng như mô

hình thành lập các đội công tác, mô hình kết nghĩa, đỡ đầu của các đơn vị, cơ quan

ban, ngành với các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa... đạt nhiều hiệu quả

trong việc xóa đói, giảm nghèo; xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, chăm sóc

sức khỏe nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa mới ở các bản làng, khu dân cư.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây

Nguyên tuy được củng cố và tăng cường nhưng chưa thật vững chắc. Một số cấp ủy

đảng địa phương chưa có nhận thức đúng đắn về vị trí của công tác xây dựng và củng

cố khối đoàn kết dân tộc, chưa quán triệt chủ trương về đổi mới công tác dân vận của

Đảng trong tình hình mới. Nội dung, hình thức hoạt động của công tác dân vận chưa

thiết thực, cụ thể, thiếu chiều sâu. Cơ chế phối hợp giữa các ban ngành, chính quyền,

mặt trận và các đoàn thể chưa chặt chẽ, đồng bộ, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả

của phong trào. Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nhất là ở cơ sở còn hạn chế về

năng lực, trình độ, chưa được đào tạo cơ bản.

Lợi dụng những khó khăn về đời sống, đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán

của đồng bào dân tộc thiểu số và những thiếu sót, sơ hở trong quá trình thực hiện

chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, và Nhà nước, các thế lực thù địch

và phản động đã tăng cường hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ

trương của Đảng. Thông qua việc truyền đạo Tin lành trái phép, các lực lượng phản

động đã kích động xu hướng ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, âm mưu

thành lập nhà nước “Đề ga độc lập“ (điển hình là các vụ bạo loạn mang tính chất

chính trị vào tháng 2 - 2001 và tháng 4 - 2004)

Tình hình trên đây cho thấy, việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân

tộc ở các tỉnh Tây Nguyên đang đặt ra những vấn đề hết sức cấp bách. Công tác vận

động, tập hợp quần chúng thực sự trở thành một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp,

quyết liệt chống lại âm mưu, ý đồ của các thế lực phản động để giữ vững trận địa

lòng dân, củng cố niềm tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

5

Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá quá trình lãnh đạo thực hiện xây dựng khối

đại đoàn kết dân dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới, từ đó rút ra

những kinh nghiệm để góp phần hoàn thiện các chủ trương, biện pháp, thực hiện có

hiệu quả công tác dân vận, nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở

Tây Nguyên là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Xuất phát từ lý do đó, chúng tôi chọn vấn đề “Xây dựng khối đại đoàn kết

dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới (1986 - 2006)” làm đề tài nghiên

cứu.

2. Tình hình nghiên cứu

Do vị trí và tầm quan trọng của vùng địa lý - dân tộc học, từ lâu Tây Nguyên

đã thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia và nhiều nhà nghiên cứu khoa học trong

và ngoài nước.

- Cách đây hơn một ngàn năm, các bia ký Chăm và sử biên niên Campuchia

đã nhắc đến người ở Tây Nguyên. Trong các văn bản, thư tịch của nước ta, từ thời

Lê Thánh Tông, vùng Tây Nguyên được gọi là "nước Nam Bàn", và trong cuốn sử

biên niên của nước ta thế kỷ XVI - XVIII đã thấy nhắc đến nơi này. Trong tác phẩm

Phủ biên tạp lục, nhà Bách khoa thư nổi tiếng Lê Quý Đôn cũng nhắc đến vùng này.

Đến thời Nguyễn, mối quan hệ giữa triều đình và vùng cao nguyên càng chặt chẽ

hơn. Nhiều tài liệu về Thuỷ Xá và Hoả Xá đã được ghi lại. Tài liệu về Tây Nguyên

rải rác còn được tìm thấy trong các sách: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam

hội điển sự lệ, Đại Nam chính biên liệt truyện, v.v...

- Người Pháp chú ý đến Tây Nguyên từ đầu thế kỷ XVIII. Để thực hiện âm

mưu xâm lươûc nước ta, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng với việc truyền bá

đạo Kitô làm đội quân tiền phong, người Pháp chú ý đến việc nghiên cứu Tây

Nguyên. Công trình đầu tiên có ý nghĩa hơn cả là Les jung les mọi của Henri

Maitre, năm 1912. Các tác phẩm vào thời kỳ này chủ yếu nhằm phục vụ cho công

cuộc "bình định" của thực dân Pháp ở Đông Dương. Sau chiến tranh thế giới lần thứ

hai, xuất hiện một số công trình có chất lượng khoa học hơn và quan điểm của tác

giả có chiều hướng tiến bộ hơn. Đó là các công trình của G.Condominas về người

M'nông Ga; của J. Dournes về người Gia Rai, của Bulbe về người Mạ;...

6

- Trong thời kỳ 1954 - 1975, để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới trên vùng

đất có vị trí chiến lược quan trọng này, Mỹ tăng cường nghiên cứu dân tộc học. Một

số công trình về các dân tộc ở Tây Nguyên đã được xuất bản. Đáng chú ý là công

trình Những nhóm tộc người chính ở Nam Việt Nam của G.Hickey, 1967; Những

nhóm thiểu số ở Cộng hoà Nam Việt Nam do tướng Westmoreland chủ biên và cuốn

Cao nguyên miền Thượng của Long Giang và Toan Ánh (1974)1

.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc nghiên cứu về Tây Nguyên

nói chung; nghiên cứu về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc nói riêng nhằm đưa ra

những luận cứ khoa học để khai thác tiềm năng, thế mạnh về điều kiện tự nhiên,

những đặc điểm về văn hóa - xã hội của quá trình xây dựng cuộc sống mới ấm no,

hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc thiểu số, thực hiện mục tiêu bình đẳng, đoàn

kết dân tộc được Đảng, Nhà nước ta và các nhà khoa học quan tâm.

Trong văn kiện các đại hội, các nghị quyết của Đảng đều đề cập đến đặc điểm

dân tộc, dân cư và có chính sách, chủ trương phù hợp. Cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong

bài báo: "Tây Nguyên đoàn kết tiến lên" (Tạp chí Cộng Sản -1978) và Cố Chủ tịch Hội

đồng Nhà nước Trường Chinh trong bài "Đưa đồng bào các dân tộc Đắk Lắk lên chủ

nghĩa xã hội" (Tạp chí Cộng Sản, 1983) đã phân tích những đặc thù về dân tộc, dân cư

và chỉ đạo các đảng bộ Tây Nguyên phải nghiên cứu, vận dụng để đề ra chủ trương,

giải pháp cho phù hợp.

- Một số công trình chuyên khảo về dân tộc học như: Tây Nguyên của Hoàng

Văn Huyền (1980); Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) (1984); Đại

cương về các dân tộc Êđê, M'nông ở Đắk Lắk của Bế Viết Đẳng và các đồng tác giả

(1982); Các dân tộc ở Gia Lai- Kon Tum do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (1981); Vấn

đề dân tộc ở Lâm Đồng do Mạc Đường chủ biên (1983); Cộng đồng quốc gia dân tộc

Việt Nam của GS. Đặng Nghiêm Vạn (2003) đã giúp người đọc hiểu rõ nguồn gốc tộc

người, đặc điểm kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

- Trên lĩnh vực kinh tế- xã hội. Đáng chú ý là Chương trình cấp nhà nước 48

- 09 do Uỷ ban Khoa học xã hội nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện

trong những năm 1980. Kết quả của chương trình được xuất bản thành 3 cuốn sách:

Một số vấn đề kinh tế- xã hội Tây Nguyên (1986); Tây Nguyên trên đường phát triển

1

Xem Phan Hữu Dật (chủ biên): Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân

tộc hiện nay. Nxb CTQG, H. 2001.

7

(1990); Một số vấn đề kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk (1990). Các công

trình này đã tập trung nghiên cứu đặc điểm kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây

Nguyên, đưa ra căn cứ khoa học để xác định các hình thức, bước đi trong quá trình đưa

đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do hạn chế

trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội lúc đó, các tác giả chưa thấy được xu hướng phát

triển của vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên.

Ngoài ra, còn có các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như: Các hình

thức kinh tế ở Tây Nguyên và xu hướng vận động trong quá trình chuyển sang kinh

tế hàng hoá do TS Trương Minh Dục làm chủ nhiệm (1994- 1995); Phát triển kinh

tế trang trại ở Tây Nguyên do TS Phạm Thanh Khiết chủ nhiệm (1999- 2000) đã

nghiên cứu các hình thức kinh tế cổ truyền trong lịch sử, các hình thức kinh tế mới

xuất hiện và sự vận động của chúng trong quá trình chuyển sang kinh tế hàng hoá;

các đề tài cấp bộ, cấp nhà nước: Một số chính sách kinh tế -xã hội đối với các dân

tộc ít người ở Tây Nguyên, do PGS, TS Nguyễn Văn Chỉnh làm chủ nhiệm đề tài

(1997 - 1998). Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế-xã hội ở miền núi, do

GS. Bế Viết Đẳng chủ biên (1996), đã đánh giá các chính sách của Đảng và Nhà

nước ta được thực thi trong thực tiễn với những thành công và hạn chế, từ đó đề

xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách dân tộc của Đảng.

- Vấn đề đất đai và sở hữu đất đai đã được một số công trình đề cập như các

đề tài cấp bộ: Quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên do TS Nguyễn Thế

Tràm làm chủ nhiệm đề tài (2001); Một số giải pháp quản lý nhằm bảo vệ và phát

triển rừng ở Tây Nguyên do ThS. Phạm Phong Duể làm chủ nhiệm đề tài (2003).

Đặc biệt, công trình nghiên cứu khá công phu của tập thể các nhà khoa học Vũ Đình

Lợi, Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng (Viện Dân tộc học) thực hiện: Sở hữu và sử

dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên (2000), trên cơ sở nghiên cứu sở hữu đất đai

trong lịch sử, phân tích thực trạng sử dụng đất đai ở Tây Nguyên thời gian qua; từ

đó đề xuất các giải pháp giải quyết vấn đề đất đai ở Tây Nguyên. Vấn đề đất đai

chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến những "điểm nóng" ở Tây Nguyên

thời gian qua.

- Trên lĩnh vực chính trị đã có một số công trình như:"Một số vấn đề về xây

dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên" do PGS. TS Phạm Hảo - TS Trương Minh

Dục đồng chủ biên (2003); Đề tài nhánh cấp nhà nước KX 05 - 11 về cơ cấu, tiêu

8

chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới hiện nay ở Đắk Lắk

(1993 - 1994); "Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện người

các dân tộc ở Tây Nguyên" do GS. TS. Lê Hữu Nghĩa chủ biên (2001). Các công

trình này đã trình bày những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng HTCT và

việc hình thành đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số; đánh giá thực trạng hệ thống

chính trị, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số trong HTCT ở Tây

Nguyên; đề xuất các giải pháp để xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán

bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Gần đây, nhà xuất bản Chính

trị quốc gia đã xuất bản công trình “Một số giải pháp góp phần ổn định và phát triển

ở Tây Nguyên hiện nay” của tập thể cán bộ kha học Học viện Chính trị khu vực III và

các nhà hoạt động thực tiễn do PGS.TS. Phạm Hảo chủ biên (2007) đã nghiên cứu

những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và những vấn đề đặt ra trong quá

trình phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên, cung cấp những luận cứ khoa học cho

các giải pháp góp phần giữ vững ổn định chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai

đoạn hiện nay.

- Trên lĩnh vực văn hoá, ngoài các công trình nghiên cứu về sử thi, luật tục,

văn hoá dân gian, có một số công trình mang tính lý luận như: Giữ gìn và phát huy

các giá trị văn hoá Tây Nguyên do PTS. Nguyễn Hồng Sơn và PTS. Trương Minh

Dục đồng chủ biên (1996); Văn hoá các dân tộc Tây Nguyên - thực trạng và những

vấn đề đặt ra do GS. TS. Trần Văn Bính chủ biên (2004). Các công trình này đã đánh

giá các giá trị văn hóa của Tây Nguyên, thực trạng đời sống văn hóa của các dân tộc

thiểu số, đồng thời dự báo xu hướng và đề xuất các giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp

bách nhằm xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của các dân tộc, giữ gìn và phát huy

các giá trị văn hóa Tây Nguyên trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước. Tuy nhiên, các công trình này chưa thấy được sự xuất hiện tư tưởng

dân tộc trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng tự bảo vệ văn hoá dân tộc đã xuất hiện trong

thời gian qua.

- Trên lĩnh vực quan hệ dân tộc, có công trình nghiên cứu: Xu hướng vận

động của quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc điểm chính sách dân tộc đối

với Tây Nguyên là đề tài cấp bộ do PTS. Nguyễn Văn Nam là chủ nhiệm đề tài

(1994- 1995). Các tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xu hướng vận

động của quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, từ đó xác định phương hướng và các giải

9

pháp để xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm Tây

Nguyên. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập đến xu hướng xích lại gần nhau của các

dân tộc, chưa thấy được những mầm mống của những nguyên nhân làm rạn nứt

khối đại đoàn kết dân tộc đã bắt đầu xuất hiện khi phát triển kinh tế thị trường, công

nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đáng chú ý trong lĩnh vực này có các nghiên cứu khá công phu của GS.TS.

Phan Hữu Dật và tập thể tác giả trong công trình: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn

cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay (2001) bước đầu đã đánh giá

những thành công và hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng;

phân tích các xu hướng xuất hiện trong quan hệ dân tộüc ở Tây Nguyên thời gian

qua.

- Trên lĩnh vực tôn giáo, có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như:

Quá trình thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, đưa đồng bào theo các đạo giáo

ở Tây Nguyên đi lên CNXH 1975- 1995, do PTS Trần Quốc Long làm chủ nhiệm

(1997); Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên - quá trình xâm nhập, đặc điểm và việc thực

hiên chính sách...do TS Nguyễn Văn Nam làm chủ nhiệm (2003). Các đề tài này

bước đầu nghiên cứu các hình thức tôn giáo sơ khai; quá trình thâm nhập, phát triển

của đạo Ki tô, Tin lành vào vùng các dân tộc thiểu số và chính sách tôn giáo của

Đảng, Nhà nước ở Tây Nguyên.

Từ năm 2002 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã tiến hành chương

trình nghiên cứu cấp bộ về Tổng kết thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo ở

Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Các tác giả đề tài nhánh Tây Nguyên đã tiến hành

khảo sát thực tế ở 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Đắk Lắk, tổ chức hội thảo khoa học và đã

hoàn thành các báo cáo chuyên đề, đặc biệt là báo cáo tóm tắt: Về thực hiện chính sách

dân tộc, chính sách tôn giáo ở Tây Nguyên- thực trạng, giải pháp và kiến nghị. Tiếc rằng

sản phẩm nghiên cứu chưa được xã hội hoá.

- Trên lĩnh vực đoàn kết dân tộc, từ trước đến nay đã có một số công trình

nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau về quá trình thực hiện chính sách đoàn kết

dân tộc của Đảng như: Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhất định xây dựng Tây

10

Nguyên thành địa bàn trù phú, tươi đẹp của Chủ tịch nước Trần Đức Lương1

; Thực

hiện chính sách đoàn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển trong đồng bào dân

tộc thiểu số ở Tây Nguyên của Lê Truyền

2

; Chuyên luận: Quán triệt tư tưởng Hồ

Chí Minh về đoàn kết dân tộc, xây dựng khối đoàn kết dân tộc hiện nay ở Tây

Nguyên (2004) của PGS. TS Trương Minh Dục

3

; các bài viết: "Công tác dân vận ở

Tây Nguyên’’ của PTS. Thanh Tuyền, Báo Nhân Dân ngày 14. 2. 1998; ‘’Đắk Lắk

với công tác vận động quần chúng’’ của Y Luyện Niê Kđăm. Tạp chí Dân vận số 6 .

2001;‘’ Một số vấn đề về công tác dân tộc ở Tây Nguyên “ của ThS. Hà Xuân

Nguyên. Tạp chí Tư tưởng Văn hóa số 6.2003; Luận văn thạc sĩ lịch sử:"Đảng bộ tỉnh

Đắk Lắk lãnh đạo công tác dân vận (1986 - 2002) của tác giả Nguyễn Mậu Linh

(2003).

Ngoài ra, còn một số bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí khoa học

như: Nghiên cứu Lý luận, Thông tin Lý luận, Sinh hoạt Lý luận, Dân vận, Tư tưởng

Văn hóa...

Những công trình khoa học trên đã đề cập nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn

trong quá trình thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây

Nguyên.

Nhưng cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về quá

trình lãnh đạo và thực hiện việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên

trong những năm đổi mới. (từ 1986 đến nay)

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

a, Mục tiêu: Tổng kết toàn diện quá trình thực hiện xây dựng và củng cố

khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây Nguyên trong những năm đổi

mới, rút ra những kinh nghiệm thực tiễn. Trên cơ sở đó, xác định phương hướng và

đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề dân tộc, củng cố và tăng cường khối đại

đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời gian đến.

b, Nhiệm vụ

1

Trần Đức Lương: Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhất định xây dựng Tây Nguyên thành địa bàn trù phú, tươi

đẹp. Báo Nhân dân, ngày 27-3-2006. 2

Lê Truyền: Thực hiện chính sách đoàn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển trong đồng bào dân tộc

thiểu số ở Tây Nguyên, Báo Nhân dân ngày 27-3-2006. 3

In trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc

trong thời kỳ mới. Nxb CTQG, H, 2004

11

Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:

- Trình bày quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, chủ

trương đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta làm cơ sở lý luận cho chủ đề nghiên cứu.

- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến việc củng cố và tăng cường khối

đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới.

- Trình bày quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây

Nguyên trong những năm đổi mới; rút ra một số kinh nghiệm bước đầu về lãnh đạo

công tác dân vận vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng và củng

cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời gian đến.

4. Phương pháp nghiên cứu

+ Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vai trò của quần chúng và công tác vận

động quần chúng làm cơ sở lý luận.

+ Sử dụng phương pháp lịch sử và lôgích và các phương pháp liên ngành

như thống kê, so sánh, tổng hợp...

5. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết

cấu thành 4 chương.

Sau đây là tổng quan kết quả nghiên cứu của đề tài.

12

CHƯƠNG I

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG

ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ

KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC ỞÍ TÂY NGUYÊN

Tây Nguyên - theo các nhà nghiên cứu, là một danh từ xuất hiện vào giữa

năm 1947 để chỉ vùng cao nguyên rộng lớn phía Tây Nam Trung bộ, ngày nay là 5

tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.

Tây Nguyên là một vùng lãnh thổ tự nhiên có tài nguyên thiên nhiên phong phú,

là vùng có vị trí chiến lược quan trọng trong nhiều mặt về chính trị, quốc phòng, an

ninh.

Tây Nguyên hiện nay là địa bàn cư trú của cư dân thuộc 46 dân tộc trong cả

nước, trong đó có 12 dân tộc thiểu số bản địa. Theo số liệu thống kê năm 2005, dân

số Tây Nguyên có hơn 4,66 triệu người (chiếm hơn 5,3% dân số cả nước, (trong đó

đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ là 1.181.337 người, chiếm 25,35% dân số Tây

Nguyên).

Đứng về góc độ văn hóa học, Tây Nguyên là một khu vực lịch sử - văn hóa

hay khu vực lịch sử - dân tộc học của nước ta, nhưng chỉ là một bộ phận của cao

nguyên miền Trung Đông Dương từ Đông Bắc Campuchia, Nam Hạ Lào đến Cò

Rạt của Thái Lan, và hợp thành một khu vực địa lý - văn hóa - dân tộc rất quan

trọng ở Đông Nam Á lục địa.

I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN

Với diện tích 54.474 km2

, chiếm khoảng một phần sáu diện tích cả nước, Tây

Nguyên là một vùng đất rộng lớn chứa đựng nhiều tiềm năng phát triển, đặc biệt là

phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn.

Phần lớn diện tích đất canh tác ở Tây Nguyên là đất đỏ ba-zan màu mỡ

(chiếm tới 61,4% đất đỏ ba-zan toàn quốc), rất thích hợp với nhiều loại cây công

nghiệp, cây đặc sản như cao su, cà phê, điều, tiêu, chè, mía, dâu tằm và nhiều loại

cây ăn trái. Ngoài đất đỏ ba-zan, Tây Nguyên còn có hơn 90.000 hecta đất trồng lúa

13

nước có thể cho năng suất trên 5 tấn/ha và những đồng cỏ rộng lớn (như ở AyunPa,

M’Drắc,...) có thể chăn nuôi đại gia súc như dê, bò,...

Ngoài đất,Tây Nguyên còn giàu tiềm năng về rừng. Mặc dù, rừng đã bị khai

thác, chặt phá một cách bừa bãi trong nhiều năm, nhưng đến nay, Tây Nguyên vẫn

là nơi có diện tích rừng lớn nhất Việt Nam, với hơn 3,294 triệu héc ta, chiếm 34,2%

diện tích rừng và 45% trữ lượng gỗ cả nước với độ che phủ là 58,7%. Rừng Tây

Nguyên phần lớn là rừng nguyên sinh nhiệt đới với nhiều loại gỗ quý như: lim, sến,

táu, lát hoa, cẩm lai, trắc, gụ, xà nu, pơmu,... và nhiều loại lâm đặc sản, dược liệu,

chim, thú quý hiếm. Hiện nay, Tây Nguyên là nơi có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên

và vườn quốc gia nhất cả nước (như Yooc Don, Nam Nung, Cát Tiên, Yang Sin,

Chư Mo Ray, Lâm Viên, Ya Cao,...)

Ngoài những tài nguyên trên mặt đất, lòng đất Tây Nguyên chứa nhiều loại

tài nguyên khoáng sản quý hiếm như vàng, bô xít, đá quý, măng gan, kim loại

phóng xạ,... Theo tính toán ban đầu, trữ lượng bô xít ở nam Tây Nguyên khoảng 4,5

tỷ tấn, hiện nay đã thăm dò và có thể đưa vào khai thác khoảng 2,6 tỷ tấn ở nam

Đắk Lắk.

Tiềm năng về năng lượng của Tây Nguyên cũng rất lớn. Các sông ở Tây

Nguyên (như Sêrêpốc, Sê San, thượng nguồn sông Đồng Nai, sông Pô Cô,...) được

đánh giá là có tiềm năng lớn về thủy điện. Đến nay, trên địa bàn Tây Nguyên đã xây

dựng và đưa vào khai thác một số nhà máy thủy điện như Đa Nhim (Lâm Đồng),

Đray H’Linh (Đắk Lắk), thủy điện Ia Ly (Gia Lai - Kon Tum). Hiện nay, các nhà

máy thủy điện khác (như Sê San II, Sê San III, Buôn Trốp) đang được xây dựng ở

Tây Nguyên. Ngoài những sông lớn, những sông suối nhỏ ở Tây Nguyên cũng có

thể khai thác thủy điện vừa và nhỏ phục vụ nhu cầu tại chỗ. Ngoài thủy điện, Tây

Nguyên có nguồn năng lượng mặt trời phong phú. Với chế độ khí hậu hai mùa mưa

nắng rõ rệt (mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4),

trong đó, mùa nắng có độ bức xạ mặt trời rất cao nên năng lượng mặt trời ở Tây

Nguyên vào mùa đó được đánh giá là có tiềm năng khai thác hơn ở những vùng đất

khác.

Bên cạnh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, Tây Nguyên là vùng đất tươi

đẹp, chứa đựng nhiều tiềm năng về du lịch, đặc biệt là du lịch tự nhiên - sinh thái và

14

du lịch văn hóa. Những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ trong các cánh rừng nguyên

sinh ở Chư Mo Ray, Đak Uy, Ngọc Linh, Lang Biang, Kon Hơ Nừng, Yoóc Đôn,

Lak,... với các thác nước trong lành với những cánh rừng xanh tươi nhiều hoa lá

(như thác Đak T’re, thác Konxlak, thác Măng Cành, thác Yaly,...) luôn hấp dẫn con

người đến chiêm ngưỡng, nghỉ ngơi, thư giãn. Cùng với những cảnh quan thiên

nhiên tươi đẹp và hùng vĩ, những nền văn hóa phong phú, đa dạng và độc đáo của

các dân tộc bản địa Tây Nguyên với những kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể

và một hệ thống các di tích văn hóa - lịch sử hứa hẹn những khả năng rộng lớn để

phát triển một nền kinh tế du lịch văn hóa kết hợp với du lịch sinh thái sinh động và

hấp dẫn.

Tuy vậy, bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện tự nhiên ở Tây Nguyên

cũng chứa đựng không ít những khắc nghiệt, khó khăn, tạo ra những cản trở không

nhỏ đối với quá trình phát triển của vùng. Cụ thể:

- Nhiều vùng ở Tây Nguyên địa hình hiểm trở, núi rừng trùng điệp, hoang

vu, giao thông kém phát triển nên đi lại và giao thương rất khó khăn, gần như bị

tách biệt với bên ngoài, đặc biệt là vào mùa mưa bão. Do việc mở mang buôn bán,

trao đổi, giao lưu với những vùng khác chưa phát triển nên đời sống của nhân dân ở

một số vùng, nhất là vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Tình trạng tự cung, tự

cấp, đóng kín vẫn được duy trì.

Phần lớn các đơn vị hành chính ở Tây Nguyên trải rộng trên một diện tích

rộng gấp vài lần, thậm chí gấp hàng chục lần diện tích của đơn vị hành chính ở các

tỉnh miền xuôi, nhưng dân số lại ít hơn rất nhiều. Chẳng hạn, xã Chư Mô Ray ở tỉnh

Kon Tum có diện tích rộng gần bằng tỉnh Thái Bình, nhưng dân số chưa bằng nửa

một xã nhỏ ở miền xuôi. Nhiều nơi, giao thông đi lại trong nội bộ và với bên ngoài

của nhiều xã còn rất khó khăn. Ở Tây Nguyên có nhiều huyện rộng ngang một tỉnh

ở miền đồng bằng nhưng dân số chỉ bằng một vài xã. Địa bàn rộng, dân số thưa

thớt, giao thông đi lại khó khăn không chỉ gây trở ngại đối với sự phát triển kinh tế -

văn hóa - xã hội mà còn là thách thức đối với công tác lãnh đạo, quản lý.

- Khí hậu Tây Nguyên khá khắc nghiệt với 2 mùa đối nghịch nhau rõ rệt:

mùa khô nắng cháy xém da, cỏ cây trụi lá; mùa mưa thì mưa ngút ngàn, các con

sông, con suối trở nên hung dữ.

15

Những năm gần đây, do tác động của nhiều nguyên nhân, khí hậu ở Tây

Nguyên trở nên bất thường và thay đổi theo chiều hướng xấu. Năm 2001, mùa mưa

kết thúc sớm ở hầu hết các địa phương trong vùng. Tổng lượng mưa thấp hơn mức

trung bình của nhiều năm trước từ 20 đến 30%, lại phân bổ hết sức không đều theo

thời gian và không gian: những đợt mưa lớn trong năm tập trung vào các tháng 6, 7,

8 và các tháng cuối mùa mưa lượng mưa lại quá thấp so với trước. Mùa lũ xảy ra

sớm hơn: bắt đầu từ tháng 6 và kéo dài đến tháng 9, nhưng biên độ lũ không lớn,

lượng dòng chảy mặt, dòng chảy ngầm đều thấp hơn so với trung bình nhiều năm

trước đó, tháng 10 và tháng 11 hầu như không có lũ. Những biến động bất thường

về thời tiết đó là điều kiện bất lợi cho sản xuất vụ Đông Xuân. Tình hình khô hạn

trên địa bàn Tây Nguyên trở nên đặc biệt nghiêm trọng kể từ năm 1998 đến nay, đã

gây nhiều thiệt hại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Ước tính trong 6

tháng đầu năm 2002, thiệt hại do hạn hán gây ra đối với Đắk Lắk là khoảng 500 tỷ

đồng, Lâm Đồng khoảng 350 tỷ đồng.

1

Sự khắc nghiệt của khí hậu và những diễn biến xấu của thời tiết trong thời

gian gần đây cùng với sự ngăn cách của địa hình đã tạo nên những khó khăn lớn đối

với sự phát triển nhiều mặt của một số khu vực cũng như toàn vùng Tây Nguyên.

- Sau giải phóng, nhiều loại tài nguyên của Tây Nguyên, đặc biệt là tài

nguyên rừng, bị sử dụng lãng phí và mất mát nghiêm trọng do sự khai thác quá

mức, không có kế hoach, thậm chí là sự phá hoại của con người. Nhiều cánh rừng

nguyên sinh ở Tây Nguyên bị khai thác, đốt phá bừa bãi để lấy gỗ, lấy củi, lấy đất

canh tác, làm nương rẫy. Theo tính toán sơ bộ của các cơ quan chức năng, từ 1975

đến 1993, rừng của Tây Nguyên bị mất hơn một triệu hec ta. Ở Đắk Lắk, từ năm

1978 đến 1991 rừng bị mất 114.300 ha, bình quân mỗi năm Đắk Lắk mất 8793 héc

ta rừng. Từ 1992 đến 1995 tốc độ mất rừng có giảm nhưng bình quân mỗi năm cũng

mất từ 3.000 đến 5.000 ha2

. Vì vậy, cơ cấu rừng của Tây Nguyên thay đổi theo

hướng giảm rừng nguyên sinh giàu, tăng rừng nghèo và rừng cây bụi. Mặc dù đã có

nhiều nỗ lực ngăn chặn, nhưng hiện nay tình trạng phá rừng, khai thác rừng trái

phép vẫn âm thầm diễn ra nhiều nơi ở Tây Nguyên. Theo báo cáo của các địa

1

Bộ Kế hoạch và đầu tư - Vụ kinh tế địa phương. Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế

- xã hội năm 2002 và hướng phát triển năm 2003 vùng Tây Nguyên. Hà Nội, ngày 24 tháng 6 năm 2002 2

Báo Lao động ngày 26 - 10 - 1995.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!