Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

xây dựng hệ thống các biện pháp áp dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
PREMIUM
Số trang
291
Kích thước
5.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1726

xây dựng hệ thống các biện pháp áp dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ TƯ PHÁP

VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ

ĐỀ ÁN KHOA HỌC CẤP BỘ

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÁC BIỆN PHÁP

ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN NHẰM NÂNG

CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC

PHỤC VỤ CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ PHÁP

Chủ nhiệm đề án: PGS.TS. Phan Hữu Thư

Thư ký đề án: ThS. Trương Thế Côn

ThS. Trần Minh Tiến

Hoàng Thế Đức

Nguyễn Tuấn Long

8218

Hà Nội - 2010

BÁO CÁO TỔNG THUẬT ĐỀ ÁN

“XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÁC BIỆN PHÁP ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ

THÔNG TIN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN

NHÂN LỰC PHỤC VỤ CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ PHÁP”

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................3

I. SỰ CẦN THIẾT TRIỂN KHAI ĐỀ ÁN.......................................................5

1.1. Vai trò của CNTT .................................................................................5

1.2. Thực trạng áp dụng CNTT trong đào tạo cán bộ tư pháp ............10

1.3. Đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp và yêu cầu ứng dụng CNTT nâng

cao chất lượng đào tạo độ ngũ cán bộ tư pháp phục vụ chiến lược cải

cách tư pháp ....................................................................................................14

1.3.1. Đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp..............................................14

1.3.2. Ứng dụng CNTT trong đào tạo các chức danh tư pháp........17

II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC ỨNG DỤNG CNTT

TRONG ĐÀO TẠO CÁC CHỨC DANH TƯ PHÁP...................................19

2.1. Quan điểm chỉ đạo..............................................................................19

2.2. Mục tiêu ...............................................................................................19

2.2.1. Mục tiêu tổng quát...................................................................19

2.2.2. Mục tiêu cụ thể ........................................................................20

2.3. Nguyên tắc ...........................................................................................21

III. HỆ THỐNG CÁC BIỆN PHÁP ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG

TIN .......................................................................................................................23

3.1. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng quản lý điều hành.............25

3.1.1. Áp dụng phần mềm văn phòng điện tử..................................25

3.1.2. Áp dụng Phần mềm quản lý đào tạo ......................................35

3.1.3. Áp dụng phần mềm quản lý cán bộ........................................37

3.2. Nhóm giải pháp hỗ trợ giảng dạy.....................................................40

3.2.1. Áp dụng hệ thống đào tạo trực tuyến e-learning (e-learning

System) .........................................................................................................40

3.2.2. Ứng dụng CNTT trong giảng dạy ..........................................45

3.3. Nhóm giải pháp công cụ hỗ trợ học viên ........................................45

3.3.1. Xây dựng CD-Rom tài liệu giảng dạy và học tập.................45

3.3.2. Xây dựng kho cơ sở dữ liệu về đào tạo các chức danh tư

pháp ...............................................................................................................51

3.3.3. Xây dựng thư viện điện tử và lien kết với các thư viện của

các cơ sở đào tạo pháp luật khác ................................................................52

2

3.3.4. Nâng cấp website phục vụ cung cấp thông tin và dịch vụ

hành chính công ...........................................................................................54

3.4. Nhóm giải pháp hỗ trợ khai thác sử dụng CNTT ..........................55

3.4.1. Xây dựng hệ thống mạng ổn định, hiệu quả..........................55

3.4.2. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trong việc ứng dụng

CNTT ............................................................................................................57

3.4.3. Xây dựng các quy định, chính sách .......................................58

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ...........................................................................59

4.1. Quản lý Đề án .....................................................................................59

4.2. Triển khai thực hiện ..........................................................................59

4.3. Lộ trình và kinh phí thực hiện Đề án ..............................................60

3

MỞ ĐẦU

Công nghệ thông tin (CNTT ) và ứng dụng CNTT được coi là

là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và

phát triển bền vững đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã sớm xác định

vai trò then chốt của cách mạng khoa học và kỹ thuật. Trong thời

gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, nhiều Văn bản quan trọng

về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển CNTT đã

được ban hành: Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 Bộ Chính trị

về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT; Luật CNTT ngày 29

tháng 6 năm 2006; Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của

Chính phủ quy định về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan

nhà nước…và nhiều chính sách cụ thể khác về phát triển ứng dụng

CNTT.

Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và đặc biệt là sự cố gắng

của đội ngũ cán bộ khoa học và CNTT, hoạt động ứng dụng CNTT

đã có bước chuyển biến, đạt được một số tiến bộ và kết quả nhất

định, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an

ninh, quốc phòng của đất nước.

Tuy nhiên, hoạt động ứng dụng CNTT của nước ta nói chung

và đặc biệt là trong hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp nói

riêng hiện nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế quốc

tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới. Hoạt động ứng dụng

CNTT và đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho ứng dụng CNTT trong

đào tạo các chức danh tư pháp chưa đồng bộ, còn phân tán, do đó

chưa hỗ trợ nhiều cho hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp.

Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành

Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về Chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020đã chỉ ra các nhiệm vụ đổi mới nội dung, phương pháp

đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư

pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo

hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã

hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất đạo

4

đức trong sạch, vững mạnh, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ

pháp chế xã hội chủ nghĩa và Xây dựng Học viện Tư pháp thành

Trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư pháp. Triển khai thực hiện Nghị

quyết số 49-NQ/TW Bộ Tư pháp đã xây dựng nhiều giải pháp tưng

cường năng lực cho Học viện Tư pháp. Một trong những giải pháp đó

là tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đào tạo

các chức danh tư pháp.

Mục tiêu của Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT đến

năm 2020 là tạo lập được môi trường mạng rộng khắp phục vụ đa số

các hoạt động của các cơ quan Chính phủ; Cán bộ công chức có thói

quen làm việc mọi lúc mọi nơi dựa trên nhiều phương tiện khác

nhau; Các dịch vụ hành chính công đưcợ cung cấp trực tuyến hướng

tới nhu cầu của người dân và phục vụ người dân mọi lúc, mọi nơi.

Như vậy, để đạt được mục tiên trên (trên bình diện công tác đào tạo

các chức danh tư pháp) cần phải nghiên cứu có hệ thống và ứng dụng

mạnh mẽ CNTT, tạo bước chuyển biến căn bản trong việc nâng cao

chất lượng đào tạo các chức danh tư pháp đáp ứng yêu cầu về nguồn

nhân lực phục vụ Chiến lược cải cách tư pháp.

5

I. SỰ CẦN THIẾT TRIỂN KHAI ĐỀ ÁN

1.1. Vai trò của CNTT

Với sự ra đời của máy tính cùng nhiều thành tựu đột phá khác

trong công nghệ sinh học, khoa học vật liệu...vào những thập kỷ cuối

thế kỷ 20 đã diễn ra cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,

mà đặc trưng nổi bật của nó là cách mạng tri thức và cách mạng

thông tin. Tác động của nó đến mọi mặt đời sống xã hội loài người

còn mạnh mẽ, sâu sắc hơn nhiều so với các bước ngoặt lịch sử trước

đây; máy móc không chỉ nhân lên sức mạnh cơ bắp mà còn thay thế

lao động trí óc của con người, nhân lên sức mạnh trí tuệ con người,

trở thành người bạn đồng hành đắc lực của con người. Nền kinh tế

công nghiệp đang chuyển sang nền kinh tế tri thức; nhiều biến động

to lớn, sâu sắc trong mọi mặt của đời sống xã hội loài người đang

diễn ra. Hiện nay CNTT đang hội tụ với công nghệ sinh học, công

nghệ nano và trở thành infornautic - đó là nền tảng của hệ thống

công nghệ hiện đại của thế kỷ 21, hứa hẹn những bước đột phá to lớn

trong quá trình phát triển xã hội loài người.

Thông tin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xã hội loài

người. Trong xã hội nông nghiệp và công nghiệp, thông tin chưa

nhiều, chưa được coi là cấp thiết nhất. Ngày nay, thông tin ngày càng

trở nên có ý nghĩa quyết định, là một nhu cầu cơ bản của con người,

là tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế và của xã hội. Mức độ

tăng trưởng của lượng thông tin thể hiện trình độ phát triển cao của

một xã hội. Ở những nước phát triển nhất hoạt động xử lý thông tin

là hoạt động chủ yếu nhất, tạo ra khoảng 45% GDP. Chính vì vậy

CNTT được coi là mũi nhọn đột phá đưa loài người vào nền kinh tế

tri thức. Theo UNESCO, CNTT là hệ thống các tri thức và phương

pháp khoa học, các kỹ thuật, công cụ và phương tiện hiện đại, các

giải pháp công nghệ,... được sử dụng để thu thập, lưu trữ, xử lý, sản

xuất, xuất bản, phát hành và truyền thông tin nhằm giúp con người

nhận thức, tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài

nguyên thông tin vào mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Như vậy

6

CNTT gắn liền với truyền thông và do đó người ta thường dùng cụm

từ CNTT và truyền thông (ICT) để nói đầy đủ các nội dung của

chúng.

Trong lịch sử nhân loại chưa có công nghệ nào có tốc độ phát

triển nhanh và xâm nhập vào mọi mặt đời sống xã hội loài người

nhanh chóng như CNTT. Hiện nay CNTT đang ở đỉnh cao của giai

đoạn tự động hoá và đang bước vào giai đoạn thông minh hoá. Nhờ

tự động hoá, thông tin cho ra tri thức. Khối lượng lớn thông tin được

phân tích, xử lý nhanh chóng. Chính nhờ những đặc điểm ấy mà

CNTT đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, được sử dụng rất rộng rãi

trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người, đến từng

người dân, từ người quản lý, nhà khoa học đến người nông dân, bà

nội trợ, em bé học sinh tiểu học. Không có lĩnh vực nào, không có

nơi nào không có mặt của CNTT. CNTT xoá dần đi khoảng cách địa

lý, rút ngắn thời gian của các quá trình làm việc.

Trong những năm gần đây, CNTT và truyền thông Việt Nam

đã đạt được những tiến bộ đáng kể, nhất là trong lĩnh vực phát triển

hạ tầng viễn thông và Internet. Hạ tầng viễn thông và Internet đã bắt

đầu thể hiện vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, phục vụ tương đối

tốt cho sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, nhìn chung

đáp ứng được nhu cầu giao lưu trong nước và quốc tế. Công cuộc tin

học hoá cải cách hành chính ở Việt Nam đã được thực hiện trong gần

10 năm qua đã thu được những kết quả đáng kể. CNTT và viễn thông

đã được ứng dụng rộng rãi và ngày càng sâu trong mọi lĩnh vực đời

sống kinh tế - xã hội. Hầu hết các hoạt động kinh tế và xã hội đều

dựa trên cơ sở CNTT và thông qua mạng thông tin điện tử, đều được

tin học hoá, hay số hoá. CNTT không chỉ là một lĩnh vực khoa học

công nghệ, một ngành kinh tế - kỹ thuật mà trở thành phương tiện

chủ yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, động lực

quan trọng cho sự phát triển của tất cả các ngành, các lĩnh vực.

Thương mại điện tử, chính phủ điện tử, làm việc từ xa, các văn

phòng ảo, các tổ chức ảo, chữa bệnh trên mạng (chữa bệnh từ xa),

giáo dục từ xa… đang làm thay đổi hết sức sâu sắc cách thức sản

7

xuất kinh doanh, cách thức tổ chức quản lý theo hướng tăng tốc độ,

năng suất, chất lượng và hiệu quả. Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính

trị (khoá VIII) xác định rằng việc ứng dụng và phát triển CNTT sẽ

góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn

dân tộc, tạo động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới, phát triển

nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh

tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ hữu hiệu quá trình chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,

đảm bảo an ninh, quốc phòng, tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực

hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Nhận thức của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và toàn dân về tầm

quan trọng của ứng dụng và phát triển CNTT&TT đã được khẳng

định và đang ngày càng được nâng cao. Với việc kiện toàn Ban Chỉ

đạo quốc gia về CNTT, thành lập Bộ Bưu chính, Viễn thông, công

tác quản lý nhà nước về CNTT&TT đã được củng cố và hoàn thiện

một bước đáng kể. Ngay sau khi thành lập, Bộ Bưu chính Viễn thông

đã nhanh chóng triển khai thực hiện một loạt các hoạt động bước đầu

có hiệu quả trong các lĩnh vực quản lý vĩ mô, cải thiện môi trường

thể chế và chính sách, hỗ trợ thúc đẩy phát triển, tăng cường mở rộng

hợp tác quốc tế, đẩy mạnh công tác giảm sát, kiểm soát, đánh giá tác

động và hiệu quả các hoạt động phát triển và ứng dụng CNTT&TT.

Nhiều Văn bản cụ thể hoá Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá

VIII) đã được ban hành (như: Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày

10/4/2007 về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà

nước, Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg về việc tăng cường sử dụng hệ

thống thư điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước, Quyết định

số 48/2009/QĐ-TTg ngày 31/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt Kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà

nước giai đoạn 2009-2010...) tạo điều kiện và môi trường thúc đẩy

phát triển CNTT&TT ngày càng mạnh mẽ. Ứng dụng CNTT&TT

đang thâm nhập vào các hoạt động sản xuất, cung cấp dịch vụ, điều

hành, quản lý, và trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng trong

dây chuyền một số ngành kinh tế trọng yếu của đất nước. Mạng

8

thông tin diện rộng của các cơ quan Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các

dự án Tin học hoá và ứng dụng CNTT&TT gắn chặt chẽ với các quá

trình cải cách hành chính, đổi mới phương thức hoạt động đang được

triển khai mạnh mẽ. Các cơ quan Thông tin điện tử ngày càng phát

triển và có tác dụng ngày càng sâu rộng trong xã hội đang hoạt động

ngày càng có hiệu quả, góp phần đáng kể vào công tác quản lý, điều

hành.

Trong những năm qua, Bộ Tư pháp cũng đã rất quan tâm trong

việc đưa ứng dụng CNTT vào phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều

hành của Lãnh đạo Bộ thông qua các việc sau: Cổng thông tin điện tử

Bộ Tư pháp với nhiều Trang thông tin thành phần về các mặt công

tác lớn của Bộ được vận hành tại Trung tâm tích hợp và hoạt động

trên Internet tại địa chỉ http://www.moj.gov.vn (từ tháng 3/2005),

thường xuyên được cập nhật, phát triển phục vụ tích cực cho hoạt

động chuyên môn, nghiệp vụ; đồng thời, là nơi cung cấp, cập nhật

thông tin giới thiệu về các mặt hoạt động của Bộ và các thông tin

chuyên sâu về pháp luật. Triển khai thực hiện Quyết định

43/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Cổng thông tin điện tử

Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục được nâng cấp về công nghệ, bổ sung tính

năng, tiện ích; Hệ thống thư điện tử. Hiện nay, 100% cán bộ, công

chức, viên chức và các đơn vị thuộc Bộ đã được cung cấp địa chỉ thư

điện tử và khoảng 50% thường xuyên sử dụng để gửi, nhận thông tin

phục vụ công việc. Trong tháng 7/2008, 740 cơ quan Thi hành án sẽ

được cung cấp hộp thư điện tử; Lập dự án đưa vào ứng dụng thí điểm

Hệ thống giao ban điện tử đa phương tiện giữa Bộ với các đơn vị

trực thuộc (theo QĐ43) với mục đích thực hiện cải cách hành chính,

tăng cường hiệu quả các cuộc họp giữa lãnh đạo Bộ với lãnh đạo đơn

vị trực thuộc Bộ; Tăng cường sự chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Bộ

đến các đơn vị trực thuộc đảm bảo thông tin nhanh chóng, chính xác,

kịp thời phục vụ tổ chức và nhân dân ngày càng tốt hơn; Tiết kiệm

thời gian, chi phí đi lại, ăn ở cho các đại biểu, giảm áp lực giao thông

do đi lại thông qua việc thay thế cách thức tổ chức họp giao ban tập

trung một chỗ theo truyền thống; Triển khai đào tạo, tập huấn và đưa

9

vào sử dụng Phần mềm Quản lý Văn bản và điều hành tới các đơn vị

thuộc cơ quan Bộ với mục đích là từng bước tạo thói quen làm việc

trong môi trường mạng cho toàn thể cán bộ, công chức, viên chức

trong cơ quan Bộ. Việc triển khai này cũng tạo tiền đề cho việc hình

thành kho dữ liệu chung của Bộ Tư pháp về Văn bản, Hồ sơ công

việc, đồng thời cũng cung cấp các công cụ hỗ trợ cho việc theo dõi,

quản lý, tra cứu và xử lý các Văn bản, Hồ sơ công việc của Bộ Tư

pháp một cách chính xác, hiệu quả và đảm bảo tính bảo mật. Trang

thông tin phục vụ điều hành, tác nghiệp được tích hợp với Cổng

thông tin điện tử của Bộ để cung cấp các ý kiến chỉ đạo, lịch làm việc

của Lãnh đạo Bộ; cung cấp các Quy chế, Chương trình, Kế hoạch

công tác... và các thông tin nội bộ khác. Cơ sở dữ liệu về Văn bản

quy phạm pháp luật cho phép lưu trữ, tra cứu các Văn bản quy phạm

pháp luật do cơ quan ở Trung ương ban hành từ năm 1945 đến nay và

các Văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban

nhân dân một số tỉnh thành phố ban hành từ năm 1976 đến nay (hoặc

từ khi chia tách hoặc sáp nhập tỉnh. Về cơ bản đã đáp ứng nhu cầu về

việc tra cứu các Văn bản QPPL, lưu trữ có hệ thống CSDL về pháp

luật; Tập trung tương đối đầy đủ các Văn bản QPPL; Công cụ tra cứu

và các tiện ích hoạt động hiệu quả, cho phép tra cứu nhanh chóng,

chính xác, cho phép người sử dụng tìm kiếm với nhiều tiêu chí; hàng

ngày có khoảng hơn 3.000 lượt người truy cập. Triển khai thực hiện

Quyết định 43/2008/QĐ-TTg, cùng với việc nâng cấp Cổng thông tin

điện tử, Cơ sở dữ liệu cũng sẽ được thay đổi về mặt công nghệ và bổ

sung thêm tính năng mới để đáp ứng nhu cầu cao hơn nữa. Cơ sở dữ

liệu hướng dẫn nghiệp vụ giúp cán bộ, công chức, viên chức chuyên

sâu hơn nữa công tác chuyên môn của mình, tiếp cận nhanh các

chính sách, cơ chế, quy định của các Văn bản quy phạm pháp luật,

trao đổi, thảo luận các thông tin nghiệp vụ,... từ đó phục vụ công tác

chuyên môn được tốt hơn.

10

1.2. Thực trạng áp dụng CNTT trong đào tạo cán bộ tư

pháp

Học viện Tư pháp được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo

quyết định số 23/2004 QĐ-TTg trên cơ sở Trường Đào tạo các chức

danh Tư pháp. Ngay từ khi còn là Trường Đào tạo các chức danh Tư

pháp, công tác phát triển tin học đã được Lãnh đạo Nhà trường coi

trọng và ứng dụng có hiệu quả vào công tác đào tạo của Nhà trường.

So với các cơ sở đào tạo pháp luật khác, có thể nói, việc đào tạo nghề

luật tại Học viện Tư pháp được sử dụng và ứng dụng những biện

pháp CNTT đầu tiên và hiện đại. Đã từ lâu các giải pháp ứng dụng

CNTT đã được triển khai và thực hiện trong các chương trình đào

tạo. Sử dụng phần mềm trình chiếu, thiết kế giáo án điện tử, chia sẻ

thông tin tư liệu trong nội bộ cán bộ giảng viên, sử dụng phần mềm

quản lý thư viện, phần mềm quản lý tài chính, phần mềm quản lý học

viên về điểm danh, quản lý điểm thi đánh giá kết quả, sử dụng các

tình huống video clips trong các bài giảng, họp trực tuyến qua video

conference, sử dụng cổng thông tin điện tử trên website.... thường

xuyên được thực hiện từ rất nhiều khoá đào tạo trước đây. Vì thế,

hiệu quả các cuộc họp, hệ thống quản lý điểm danh và đánh giá kết

quả học tập của học viên; chất lượng các buổi giảng được nâng lên rõ

rệt.

Có được như vậy là nhờ Học viện Tư pháp đã rất chú trọng đến

nền tảng của việc ứng dụng CNTT, như: xây dựng trang tin điện tử

trên mạng internet (website) với khá nhiều tiện ích. Trên website

này, chúng ta có thể đưa lên công bố các học liệu thông tin mở như

thông báo lịch học, tuyển sinh; chương trình đào tạo, cung cấp các tài

liệu học liệu mở như hồ sơ điện tử, giáo trình điện tử, bài giảng điện

tử.... Website cũng được thiết kế các diễn đàn (forum) để mọi người

cùng trao đổi, thảo luận về các vấn đề liên quan; có webmail để các

thành viên sử dụng email trao đổi thông tin; có bản tin nội bộ được

dành riêng cho nội bộ cán bộ giảng viên của Học viện Tư pháp; có

lịch làm việc cho từng thành viên... Có thể nói, về cơ bản website

này đã đáp ứng được một phần yêu cầu cơ bản, là hạ tầng cần thiết

11

trong việc sử dụng và ứng dụng mạnh mẽ học liệu mở phục vụ cho

hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp.

Cùng với trang thông tin điện tử trên mạng internet, Học viện

Tư pháp cũng đã trang bị phần mềm quản lý thư viện, cũng đã xây

dựng,thiết kế được phần mềm quản lý học viên, thống nhất hoá mã số

sinh viên trong quản lý và thư viện. Bên cạnh đó các trang thiết bị

phục vụ cho nhu cầu ứng dụng tại Học viện Tư pháp cũng được trang

bị khá đầy đủ. Hệ thống máy tính, máy chiếu (projector), máy quay,

video conference được trang bị khá đầy đủ cho đến từng cán bộ giảng

viên, chúng ta cũng đang sử dụng được truyền 8Mb/s đủ để thực hiện

các cuộc hội đàm, hội thảo trực tuyến.

Đội ngũ giảng viên về cơ bản cũng có trình độ tin học khá cơ

bản, có thể sử dụng các chương trình ứng dụng nêu trên và dành cho

tin học văn học. Hàng năm, Học viện Tư pháp lại có các chương

trình bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học cho các cán bộ, giảng viên.

Nhìn lại quá trình lịch sử và cho đến hiện nay, chúng ta hiện

đang áp dụng những biện pháp, giải pháp ứng dụng CNTT sau đây:

- Ứng dụng CNTT vào hoạt động giảng dạy thông qua việc sử

dụng phần mềm trình chiếu Power Point, các đoạn video clips

tình huống;

- Ứng dụng CNTT vào hoạt động quản lý đào tạo như cấp mã

vạch thẻ học viên, điểm danh học viên, quản lý điểm thi

- Ứng dụng CNTT vào hoạt động quản lý thư viện

- Ứng dụng CNTT vào hoạt động kết nối thông tin và đặt viên

gạch đầu tiên vào quá trình tạo cơ sở hình thành học liệu mở

như đưa đề cương bài giảng, hồ sơ tình huống, phân lịch giảng

dạy, các hội thảo, họp trực tuyến thông qua video conference.

Từ thực tế ứng dụng các giải pháp ứng dụng CNTT nêu trên,

chúng ta có thể rút ra một số đánh giá sau đây:

- Học viện Tư pháp đã rất chú trọng đến vai trò và hiệu quả của

việc ứng dụng CNTT vào hoạt động đào tạo các chức danh tư

12

pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực

cho ngành;

- Học viện Tư pháp đã tiến hành triển khai ứng dụng một số giải

pháp, biện pháp ứng dụng CNTT vào hoạt động đào tạo các

chức danh tư pháp;

Tuy nhiên, so với yêu cầu mà nhu cầu đòi hỏi, các giải pháp

ứng dụng CNTT tại Học viện Tư pháp còn có những khó khăn nhất

định, thể hiện trên những điểm sau đây:

Một là: Các giải pháp ứng dụng CNTT trong hoạt động đào

tạo các chức danh tư pháp còn nghèo nàn và lạc hậu, chưa thực hiện

đầy đủ và đồng bộ các giải pháp ứng dụng CNTT vào hoạt động đào

tạo.

- Chưa thực sự xây dựng được hệ thống học liệu mở. Hệ thống

học liệu mở là hệ thống mà ở đó toàn bộ các tài liệu, thông tin

liên quan đến quá trình đào tạo được cung cấp cho mọi đối

tượng. Chương trình, lịch học, kết quả đánh giá, giáo trình, hồ

sơ tình huống, tài liệu tham khảo, Văn bản pháp luật liên quan,

các thông báo trong quá trình đào tạo... cần được số hoá để ở

bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, các đối tượng liên quan như giảng

viên, học viên, những người quan tâm đến Học viện Tư pháp

đều có truy cập để nghiên cứu.

- Chưa có hệ thống thư viện điện tử,vì thế giải pháp duy nhất mà

các giảng viên, học viên muốn nghiên cứu tìm đọc tài liệu vẫn

là truyền thống, đến thư viện và tra cứu trên cơ sở Văn bản

giấy.

- Chưa triển khai thực hiện được việc ứng dụng video

conference vào trong hoạt động họp tổ bổ môn giữa Hà Nội và

cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh, cũng chưa tiến hành các buổi

giảng trực tuyến mặc dù đã từng thí điểm.

- Chưa có hệ thống intranet để có thể thuận tiện trao đổi thông

tin, cung cấp thông tin trong nội bộ cơ sở đào tạo.

13

Đây là những vấn đề lớn mà bất cứ cơ sở đào tạo nào nếu

muốn phát triển vì chất lượng đều cần chú ý, quan tâm đến các vấn

đề trên. Hệ thống học liệu mở, thư viện điện tử, đào tạo trực tuyến và

chia sẻ thông tin là tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo của một cơ

sở đào tạo trong kỷ nguyên số.

Hai là: Chất lượng của các giải pháp ứng dụng CNTT hiện tại

tại Học viện Tư pháp chưa cao.

Mặc dù chúng ta đã có một số giải pháp, biện pháp ứng dụng

CNTT song chất lượng và hiệu quả ứng dụng của các giải pháp này

không cao. Phần mềm thư viện của chúng ta đã quá cũ và lạc hậu. Vì

thế, chức năng chủ yếu của phần mềm này chỉ để nhằm quản lý tình

trạng mượn sách, hồ sơ, tài liệu của học viên, giảng viên. Ngay cả

việc quản lý này thì chức năng của phần mềm này cũng rất hạn chế,

chức năng tìm kiếm phân loại theo các tiêu chí khác nhau khá hạn

chế. Nhiều nội dung của quản lý thư viện lại không được đề cập

trong phần mềm này.

Hệ thống trang web của chúng ta được thiết kế rất hẹp. Vì thế

việc chia sẻ thông tin, đưa các tài liệu cần thiết theo phân tầng cấp

bậc rất bị hạn chế, gây khó khăn, cản trở, không thuận tiện trong tìm

kiếm, đưa tài liệu, thông tin lên website.

Phần mềm quản lý học viên không được xây dựng thống nhất

và có sự tách rời giữa các hoạt động quản lý như quản lý giảng viên,

quản lý điểm danh, quản lý kết quả đánh giá học viên. Vì thế, người

lãnh đạo không được chia sẻ thông tin kịp thời, không thể cập nhật

các số liệu hàng ngày mà hoàn toàn phụ thuộc vào báo cáo của cấp

dưới. Mặc dù có thông tin nhưng thông tin lại bị khoanh vùng trong

bộ phận người quản lý, vì thế người quản lý có thể tự do và tuỳ tiện

trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ, từ đó có thể gây ra những

vấn đề không khách quan, minh bạch trong hoạt động đào tạo.

Chất lượng các buổi trình chiếu để giảng bài, các buổi họp

truyền hình trực tuyến chưa cao do hạ tầng kỹ thuật còn yếu, nhiều

trang thiết bị

14

Ba là: chưa có sự kết nối của việc ứng dụng các giải pháp

CNTT với nhau. Các giải pháp hiện nay đang áp dụng hoàn toàn tách

rời nhau, thiếu đồng bộ, không có sự kết nối, liên kết với nhau, vì thế

tạo nên tình trạng bờ vùng bờ thửa trong từng hoạt động đào tạo;

đồng thời nếu muốn tạo nên hệ thống cơ sở dữ liệu chung của các

lĩnh vực lại đòi hỏi nguồn nhân lực rất lớn và chi phí thời gian rất

nhiều.

1.3. Đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp và yêu cầu ứng dụng

CNTT nâng cao chất lượng đào tạo độ ngũ cán bộ tư pháp phục

vụ chiến lược cải cách tư pháp

1.3.1. Đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp

Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là

một mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nước ta. Cải cách tư pháp đã trở

thành một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó xây dựng đội ngũ

cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh và đổi mới công tác đào tạo

cán bộ tư pháp là những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược

quyết định sự thành công của sự nghiệp cải cách tư pháp.

Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững

mạnh, đủ về số lượng, giỏi về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ

năng nghề nghiệp, có phẩm chất đạo đức trong sáng đã được đề cập

trong nhiều Văn bản của Đảng và Nhà nước thời gian qua. Nghị

quyết hội nghị lần thứ 07 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá

VIII khẳng định "Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp...

xây dựng một đội ngũ thẩm phán, thư ký Toà án, chấp hành viên,

công chứng viên, giám định viên, luật sư có phẩm chất chính trị và

đạo đức, chí công vô tư, có nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ

máy trong sạch, vững mạnh". Nghị quyết số 08-NQ/TW chỉ đạo cụ

thể việc ˝Rà soát lại đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán

bộ tư pháp trong sạch vững mạnh... Nâng cao tiêu chuẩn về chính trị,

đạo đức và nghề nghiệp chuyên môn của cán bộ tư pháp..." Sau hơn

ba năm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, công cuộc cải cách tư

pháp đã và đang được tiến hành với một quyết tâm cao, có sự chỉ đạo

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!