Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Xây dựng đơn vị học tập mô hình phát triển bền vững trong giáo dục đại học
PREMIUM
Số trang
243
Kích thước
4.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
917

Xây dựng đơn vị học tập mô hình phát triển bền vững trong giáo dục đại học

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

2

3

MỤC LỤC

STT Nội dung Trang

1. PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỘI THẢO 7

Tiến sĩ Lê Nguyễn Quốc Khang

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

2. TRIỂN KHAI KẾT LUẬN 49-KL/TW BẰNG MỘT CUỘC VẬN ĐỘNG TOÀN DÂN

“KHUYẾN HỌC, KHUYẾN TÀI, XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP” 9

GS.TS Phạm Tất Dong

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam

3. HỘI KHUYẾN HỌC VIỆT NAM XÂY DỰNG CÁC MÔ HÌNH HỌC TẬP, GÓP PHẦN HÌNH

THÀNH NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO 22

TS. Nguyễn Hồng Sơn

Phó chủ tịch Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam

4. THÔNG TIN DIỄN GIẢ CHÍNH 28

5. NỘI DUNG TRÌNH BÀY CỦA DIỄN GIẢ CHÍNH 30

SỨ MẠNG VÀ TRÁCH NHIỆM CỘNG ĐỒNG CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC:

TIẾP CẬN MÔ HÌNH ĐỨC VÀO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT- ĐỨC 31

TS. Hà Thúc Viên, ThS. Nguyễn Hồng Dung

Trường Đại học Việt Đức

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ CÁC MÔ HÌNH HỌC TẬP PHỐI HỢP 38

TS. Nguyễn Thị Phương Hảo

Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh

4

CÔNG DÂN HỌC TẬP TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 62

TS. Trương Tiến Tùng

Trường Đại học Mở Hà Nội

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: NHỮNG THÀNH TỰU

VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHO MÔ HÌNH ĐƠN VỊ HỌC TẬP 67

Ths. Hứa Văn Đức

Trường đại học Mở TP. Hồ Chí Minh

6. NỘI DUNG THAM LUẬN 81

PHÁT TRIỂN CHỨC NĂNG PHỤC VỤ CỘNG ĐỒNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (Từ thực tiễn hoạt động tình nguyện của sinh viên) 82

Tiến sĩ Hồ Ngọc Anh

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

VAI TRÒ CỦA CÁC ĐƠN VỊ HỌC TẬP TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRONG VIỆC

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRÌNH ĐỘ CAO CỦA

VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 93

Tiến sĩ Nguyễn Mậu Hùng

Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng

TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ HỌC TẬP CẤP ĐẠI HỌC TRONG HỌC TẬP SUỐT ĐỜI 102

Thạc sĩ Võ Thị Kim Anh

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HỌC TRỰC TUYẾN CỦA SINH VIÊN

TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH 115

Thạc sĩ Hoàng Thị Hoà, Nguyễn Bạch Trúc Như, Lê Quỳnh Như,

Thạch Mỹ Linh, Nguyễn Duy Kha, Nguyễn Thị Quỳnh My

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

5

ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG NỀN TẢNG MOOC QUỐC GIA PHỤC VỤ XÃ HỘI HỌC TẬP,

HỌC TẬP SUỐT ĐỜI 170

Tiến sĩ Trần Thị Lan Thu, Tiến sĩ Đặng Hải Đăng

Trường Đại học Mở Hà Nội

TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH MENTORING ĐẾN ĐỊNH HƯỚNG HỌC TẬP

DÀI HẠN CỦA SINH VIÊN 177

Thạc sĩ Trần Tuấn Anh

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

GIÁO DỤC ĐẠI HỌC SẺ CHIA – MÔ HÌNH HỌC TẬP PHỤC VỤ CỘNG ĐỒNG 181

Thạc sĩ Võ Thị Phương

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

HỢP TÁC GIỮA TRƯỜNG ĐẠI HỌC VỚI DOANH NGHIỆP – SỰ CẦN THIẾT

TRONG XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐƠN VỊ HỌC TẬP 188

Tiến sĩ Giảng viên chính Nguyễn Văn Tạo

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

ỨNG DỤNG MÔ HÌNH “HỌC THÔNG QUA PHỤC VỤ CỘNG ĐỒNG”

TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 198

Thạc sĩ Phan Thị Anh Thư

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

HỆ THỐNG MOOC KÊNH CHIA SẺ TRI THỨC VÀ GÓP PHẦN XÂY DỰNG

XÃ HỘI HỌC TẬP TỪ ĐẠI HỌC 209

Thạc sĩ Nguyễn Đức Trung

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

GIÁO DỤC CHIA SẺVÀ PHỤC VỤCỘNG ĐỒNG –MỘT SỐVÍ DỤĐIỂN HÌNH

TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 226

Thạc sĩ Lê Thị Xuân Thùy

Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh

6

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐƠN VỊ HỌC TẬP QUA MÔ HÌNH HỌC LIỆU MỞ

OPEN COURSE WARE (OCW) 237

Nguyễn Minh Kiều

Giảng viên Khoa Đào tạo sau đại học

7

PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỘI THẢO

Tiến sĩ Lê Nguyễn Quốc Khang

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

Kính thưa Quý thầy/cô, Quý diễn giả

Kính thưa các vị khách quý

Kính thưa toàn thể cộng đồng tham dự Hội thảo,

Trước hết, cho phép tôi được thay mặt Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh và

Ban Tổ chức Hội thảo nhiệt liệt chào mừng quý vị đến với Hội thảo “Xây dựng đơn vị học tập

– Mô hình phát triển bền vững trong giáo dục đại học” do trường tổ chức.

Kính thưa quý vị,

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào

tạo đã ban hành một số văn bản chỉ đạo quan trọng về xây dựng công dân học tập, đơn vị học

tập, cộng đồng học tập… đó là những nhân tố cốt yếu góp phần tạo nên một xã hội học tập

trong cộng đồng người Việt Nam. Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh rất vinh dự là

một trong năm trường được Bộ Giáo dục và Đào tạo chọn triển khai thí điểm xây dựng Đơn vị

học tập. Xây dựng Đơn vị học tập tại cơ sở giáo dục đại học được đánh giá là một trong những

nhiệm vụ quan trọng nhằm từng bước thực hiện Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương

về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; cụ thể hóa Quyết định Thủ tướng chính

phủ, Kết luận của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học,

khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, đặc biệt là Quyết định 1373 ngày 30/7/2021 của Chính

phủ về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030”, trong đó có nêu

nhiệm vụ cho các cơ sở giáo dục dại học phải là nơi tiên phong trong việc chia sẻ tri thức, cung

ứng cơ hội học tập suốt đời cho mọi người. Chính vì lý do đó, việc xây dựng Đơn vị học tập

8

trong môi trường đại học là một điều rất cần thiết, giúp thúc đẩy hơn nữa vai trò và sự tham

gia của các trường đại học trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn dân.

Thưa toàn thể quý đại biểu và cộng đồng tham dự,

Nhằm tìm ra thêm các giải pháp, sáng kiến cũng như học tập các đơn vị khác về xây

dựng Đơn vị học tập trong trường đại học, Ban chỉ đạo Đề án xây dựng Đơn vị học tập của

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh đã mạnh dạn tổ chức Hội thảo này kêu gọi sự chia

sẻ tri thức, kinh nghiệm của các giảng viên, nghiên cứu viên, nhà khoa học và chuyên gia trong

giáo dục đại học cùng các nhà lãnh đạo, quản lý cơ sở giáo dục đại học. Và do diễn biến khó

lường của đại dịch Covid-19 trên cả nước, Ban Tổ chức hội thảo quyết định tổ chức ngày Hội

thào này với hình thức trực tuyến và phát trực tiếp cho cộng đồng tham dự.

Để có được Hội thảo này, các diễn giả của chúng ta đã âm thầm lặng lẽ bền bỉ nghiên

cứu, viết - gửi bài nghiên cứu, bài tham luận, đồng thời cùng với Ban Tổ chức gấp rút thực hiện

các công tác chuẩn bị để Hội thảo được diễn ra khai mạc đúng kế hoạch, phục vụ cho toàn thể

cộng đồng quan tâm. Đó là một nổ lực rất lớn của tập thể Ban Tổ chức và quý diễn giả của

ngày hôm nay, tôi xin trân trọng cảm ơn mọi người.

Kính thưa quý vị,

Xây dựng xã hội học tập, đẩy mạnh sự tham gia của các trường đại học trong phát triển

tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động và đa dạng các mô hình học tập, liên tục, suốt đời là

việc làm cần thiết. Và để xây dựng xã hội học tập thì cần có các đơn vị học tập ở các lĩnh vực,

các ngành trong cơ sở giáo dục đại học. Chúng tôi mong muốn được lắng nghe các ý kiến, trao

đổi của quý vị khách mời, các diễn giả và cộng đồng để cùng nhau góp phần xây dựng một mô

hình đơn vị học tập thực chất, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của giáo dục đại học.

Với tinh thần trên, tôi tuyên bố khai mạc hội thảo “Xây dựng đơn vị học tập – Mô hình phát

triển bền vững trong giáo dục đại học” của Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh.

Một lần nữa kính chúc quý vị khách mời, quý thầy/cô, quý diễn giả và cộng đồng tham

dự Hội thảo nhiều sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt.

Chúc cho Hội thảo thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn.

9

TRIỂN KHAI KẾT LUẬN 49-KL/TW BẰNG MỘT CUỘC VẬN ĐỘNG

TOÀN DÂN “KHUYẾN HỌC, KHUYẾN TÀI, XÂY DỰNG

XÃ HỘI HỌC TẬP”

GS.TS Phạm Tất Dong

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Trung ương Hội Khuyến học

Việt Nam

I. Nhìn lại lịch sử khuyến học, khuyến tài của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX

Từ ngày 1/9/1858 đến ngày 6/6/1884, cuộc chiến tranh Pháp – Việt (gọi là chiến tranh

Pháp – Đại Nam) đã nổ ra. Thực dân Pháp đánh chiếm dần các tỉnh phía Nam rồi tiến quân ra

phía Bắc. Ngày 3/10/1888, Hà Nội là vùng đất cuối cùng bị thực dân Pháp bình định. Người

Pháp bắt đầu tính đến tổ chức giáo dục bảo hộ tại Việt Nam. Năm 1905, người Pháp lập trường

tiểu học ở Nam Kỳ và loại bỏ môn chữ Hán. Vào thời điểm đó, ở Bắc Kỳ chưa có trường do

Pháp xây dựng. G. Domoutier, một nhà nghiên cứu về Việt Nam đã nói rõ quan điểm giáo dục

của người Pháp ở Việt Nam.1

“Pháp luật chỉ đàn áp được một thời gian, chỉ có giáo dục mới chinh phục được con

người mãi mãi”.

“Nhà trường là công cụ mạnh nhất và chắc chắn nhất trong tay kẻ đi chinh phục, và sau

khi người lính hoàn thành công việc của mình thì đến lượt giáo viên thực hiện nhiệm vụ của

họ”.

Trong bài viết “Đây – Công lý của Thực dân Pháp ở Đông Dương”, Hồ Chí Minh nhắc lại

lời nói của mấy tên thực dân như sau

2

:

“Đại tá Bécna viết: Về phương diện tinh thần, người Pháp không tổ chức một nền giáo

dục mới thay thế cho nền giáo dục An Nam mà họ đã bỏ đi. Họ chỉ xây dựng một ít trường học

để đào tạo ra những con vẹt, những người vong bản thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức phổ

thông. Trong một bản báo cáo về tình hình Đông Dương, tướng Panơcanh cũng viết: “Trong

1 G. Domoutier – Những bước đầu của tổ chức giáo dục ở Bắc Kỳ.

2 Hồ Chí Minh. Đây – Công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương – Hồ Chí Minh, Toàn Tập, Tập VIII, Nhà XB Sự

Thật, 1981, tr.195.

10

50 năm chiếm đóng ở Nam Kỳ và 25 năm chiếm đóng ở Bắc Kỳ, những trường học Pháp không

đào tạo được một người An Nam thực sự có học thức”.

Chiêu bài “Khai phá văn minh” của thực dân Pháp là mở trường học không vì thiện chí

và là cần đào tạo lao động và tay sai, và xa hơn là nhằm đồng hóa lâu dài người bản xứ. Chính

phủ Bảo hộ muốn thế hệ trẻ ở thuộc địa hiểu nền văn minh Pháp, coi ngôn ngữ Pháp như tiếng

mẹ đẻ và từ đó coi khinh nền văn hóa truyền thống của dân tộc.

Năm 1919, Albert Sarraut ra lệnh bãi bỏ các trường học chữ Hán, cấm các trường tư, chỉ

cho phép hoạt động đối với trường của Thiên Chúa giáo do những cố đạo người Pháp tổ chức,

thi hành chính sách hạn chế việc học ở mức thấp nhất.

Năm 1924, Toàn quyền Merlin thi hành chính sách cải cách giáo dục theo tinh thần “phát

triển giáo dục theo chiều nằm, không theo chiều đứng”. Kết quả là, ở Việt Nam vào sau Đại

chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), trên 95% dân số mù chữ. Chính phủ Bảo hộ Pháp

chủ trương “ngu dân” để dễ bề cai trị.

Vì dốt, chúng ta mất nước.

Vì dốt, dân ta phải chịu làm nô lệ hơn 80 năm.

Thế hệ cha anh của chúng ta rất hiểu điều này, do đó, khi tiến hành cách mạng để giành

lại độc lập quốc gia, hạnh phúc dân tộc, học tập là một giải pháp không tách rời mọi hoạt động

giải phóng đất nước, giải phóng con người.

Các cuộc vận động lớn để dành lại độc lập, tự do của dân tộc ta từ đầu thế kỷ XX đến

cách mạng tháng Tám năm 1945 như Đông Kinh nghĩa thục, Truyền bá quốc ngữ đều là những

phong trào với quy mô toàn dân, chống nạn mù chữ, dốt nát. Nội dung các phong trào đó bao

hàm những công việc khuyến học, khuyến tài, khai sáng trí tuệ để từ đó giác ngộ cách mạng.

Chỉ có học tập, học tập không ngừng thì cuộc cách mạng giải phóng mới mang tính tự giác.

II. Đông Kinh nghĩa thục

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, để chống lại sự thống trị tàn bạo của bọn thống trị Pháp,

nhiều phong trào quần chúng đã nổi dậy để thoát khỏi tình cảnh nghèo đói và ngu dốt, nhưng

đều bị thất bại. Đặc biệt là phải kể đến phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp dưới hình

thức của một cuộc khởi nghĩa. Sự tan vỡ của phong trào Cần Vương cho thấy, đất nước ta thời

kỳ đó đang trong cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.

Giữa lúc đó ở Nhật Bản và Trung Quốc nổi lên phong trào Duy Tân như một trào lưu tư

tưởng và hành động mới. Phong trào được những phần tử ưu tú nhất của xã hội phương Đông

khởi xướng. Phong trào Duy Tân có ảnh hưởng tới nước ta khiến nhiều nhà Nho yêu nước của

Việt Nam chú ý. Những tác phẩm có nội dung duy tân của Nhật Bản và Trung Quốc vào Việt

Nam đã giúp các nhà Nho thấy được hướng đi xóa bỏ chế độ phong kiến và tán thành việc đề

cao tư tưởng dân chủ, khai sáng của phương Tây.

11

Những ảnh hưởng của xu thế duy tân từ Nhật Bản và Trung Quốc đã có tác động hình

thành hai phái trong công việc vận động cứu nước ở Việt Nam. Phái chủ trương giành độc lập

bằng phương pháp bạo động thì tổ chức hoạt động bí mật trong nước, đồng thời cho người

sang Nhật Bản và Trung Quốc để học hỏi. Phái chủ trương vận động đổi mới ngay trong nước

đã triệt để khai thác các điều kiện công khai trước nhà cầm quyền Pháp thì vận động nhân dân

nâng cao dân trí, xóa bỏ sự hủ bại trong xã hội, chống lại tình trạng “dân ngu, nước yếu”.

Tiêu biểu cho phái thứ nhất là Phan Bội Châu và cho phái thứ hai là Phan Chu Trung. Tuy

là hai xu hướng cách mạng khác nhau, nhưng những người của hai phái lại có mối quan hệ

khăng khít, hỗ trợ nhau hoạt động.

Những chí sĩ theo phái của Phan Chu Trinh như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Trần

Quý Cáp… đã sáng lập ra Đông Kinh nghĩa thục và đưa ra Bản “Văn minh tân học sách” như

một Đề cương văn hóa mang tính cách mạng khá triệt để.

Đông Kinh nghĩa thục là một mô hình trường tư, xây dựng theo mẫu Keio Gijuku (Khánh

Ứng Nghĩa thục) của Nhật Bản. Loại hình trường này có 3 đặc trưng:

1. Thực chất, Đông Kinh nghĩa thục là một cuộc cách mạng tư tưởng – văn hóa tiến hành

bằng phương pháp giáo dục. Mục tiêu hướng tới là: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu

dân sinh”.

Khai dân trí để dân tộc thay đổi lối tư duy cũ dưới ảnh hưởng Nho giáo, nhận thức

được những vấn đề của thời đại, từ đó xóa bỏ chế độ nô lệ của thực dân Pháp, xây

dựng đời sống mới.

Chấn dân khí để người dân thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, giác ngộ quyền lợi,

đấu tranh chống lại chế độ áp bức, bóc lột.

Hậu dân sinh là giúp dân học hỏi trong lao động, trong đời sống nhằm phát triển sản

xuất, mở mang ngành nghề, đẩy mạnh kinh tế, làm cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

2. Đông Kinh nghĩa thục là trường học có nhiều điểm cấp tiến cả về chuyên môn lẫn tổ

chức, đem lại sự chuyển biến cách mạng về nội dung giáo dục và phương pháp giảng

dạy.

3. Đông Kinh nghĩa thục vạch trần luận điệu “bảo hộ” và “khai hóa” của thực dân Pháp

với chính sách “ngu dân” của chúng. Đông Kinh nghĩa thục cổ vũ cho sự chấn hưng

nông, công, thương nghiệp, đề cao lòng yêu nước và phát huy văn hóa dân tộc.

Về “Văn minh tân học sách”, ta có thể hiểu đây là vấn đề “Văn hóa đọc sách” mà ngày

nay ta đang cổ vũ. Trong “Văn minh tân học sách”, các nhà Nho duy tân nêu lên 6 giải pháp

mở mang dân trí, xây dựng văn hóa, vươn tới văn minh. Đó là:

- Dùng văn tự nước nhà, học chữ quốc ngữ.

12

- Hiệu đính sách vở, phổ biến các tác phẩm có giá trị của Việt Nam, phản đối chỉ đọc

sách Tàu (Trung Quốc), bỏ sách ta.

- Sửa đổi phép thi, phê phán cách thi cử nghiệt ngã và vô lối, không trọng sự sáng tạo

và uyên thâm, bắt con người phải gò bó vào luật thi khiến không chọn được người

tài.

- Cổ võ nhân tài, mở dân trí thì trước hết phải mở trí phái thân sĩ, tạo nên đội ngũ người

tài giúp ích thiên hạ.

- Chấn hưng công nghệ, coi phát triển công nghệ là việc hệ trọng của quốc gia, “ta

không hơn người thì người bỏ rơi ta” (ý nói, nếu không làm chủ công nghệ ắt sẽ tụt

hậu).

- Mở tòa báo, coi báo chí là công cụ quan trọng để mở mang dân trí.3

Triết lý giáo dục của Đông Kinh nghĩa thục là “Nước lấy dân làm gốc”. Phan Chu Trinh

viết: “Nền quân chủ sẽ ra đi, quốc gia còn lại vì dân là gốc của nước.

Thực dân Pháp nhận ra mối nguy hiểm của Đông Kinh nghĩa thục nên tháng 11/1907,

chúng giải tán loại hình trường này và đàn áp những nhà Nho đã tổ chức phong trào học tập

toàn dân như một cao trào cách mạng.

Năm nay (2022), chúng ta sẽ kỷ niệm 115 năm thành lập Đông Kinh nghĩa thục.

III. Truyền bá quốc ngữ

Sau khi đàn áp và giải tán Đông Kinh Nghĩa thục, thực dân Pháp ra sức thực hiện chính

sách “ngu dân”, hạn chế mức tối đa trong việc mở trường tiểu học, và có mở trường tiểu học

thì duy trì kiểu trường tiểu học chỉ có đến lớp Ba là cùng. Đó là chủ trương chỉ mở trường để

học sinh chỉ biết đọc, biết viết.

Vào những năm 1917 – 1979, những người muốn mở trường tư để dạy chữ quốc ngữ

đều phải tổ chức trường của mình theo mô hình nói trên, hơn nữa, một lớp mà quá 5 học sinh

thì phải được phép chính quyền thực dân.

Người Pháp rất sợ những thanh niên Việt Nam đi du học nước ngoài, coi họ là kẻ có tư

tưởng nổi loạn. Toàn quyền Đông Dương, Albert Sarraut, đã nói rõ quan điểm của thực dân

Pháp: “Để cho lớp thượng lưu trí thức được đào tạo ở nước ngoài, thoát khỏi vùng kiềm tỏa

của chúng ta, chịu ảnh hưởng văn hóa và chính trị của nước khác, thì thật là một điều nguy

hiểm vô cùng. Những người trí thức đó về nước đã đưa hết tài năng của họ để tuyên truyền

chống đối lại chúng ta là những người bảo hộ đã ngăn cấm không cho họ học tập”.4

3 Vào năm các nhà Nho đưa ra “Văn minh tân học sách”

4 Trích tỏng bài: “Đây – Công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương” của Hồ Chí Minh (Toàn Tập, Tập VIII, Nhà XB

Sự Thật, Hà Nội, 1984, tr. 151).

13

Ngày 3/2/1930, nhân ngày thành lập Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nêu khẩu hiệu

“Thực hành giáo dục toàn dân”. Phong trào học chữ Quốc ngữ trở nên rầm rộ khi bùng nổ

phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 – 1931). Việc chống nạn mù chữ được gắn liền với nhiệm

vụ tuyên truyền cách mạng.

Tiếp theo phong trào này, Tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí hội đã mở nhiều lớp

học chữ quốc ngữ cho nông dân, công nhân và thanh niên. Nhiều nhóm đảng viên cộng sản và

cá nhân cũng đứng ra mở lớp xóa mù chữ quốc ngữ. Rất nhiều thanh niên trí thức đã đến từng

xóm lao động để vận động dân nghèo học để xóa mù chữ. Việc mở các lớp học mù chữ quốc

ngữ trở thành mối nguy hiểm đối với thực dân Pháp, do đó chúng đã huy động bộ máy cai trị

thực dân và bộ máy tay sai phong kiến bản xứ kiểm tra gay gắt việc tổ chức lớp xóa mù chữ

quốc ngữ, nơi nào bị lộ, chúng bắt người mở lớp đi tù.

Năm 1938, lợi dụng Mặt trận Bình dân Pháp lên nắm Chính quyền, Đảng Cộng sản đã tổ

chức một số hoạt động công khai, trong đó có Kế hoạch lập ra một tổ chức có chức năng chống

mù chữ quốc ngữ, mang ánh sáng văn hóa đến với người nghèo. Đây cũng là giải pháp để có

đông đảo người dân sử dụng được những tài liệu cách mạng.

Đồng chí Trường Chinh đã thay mặt Đảng giao cho ông Trần Huy Liệu (lúc đó là Chủ bút

báo “Tin tức”), ông Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp và Phan Thanh đứng ra vận động nhân sĩ

tri thức lập “Liên đoàn chống nạn thất học”, nhưng sau đó quyết định lấy tên tổ chức này là

“Hội truyền bá Quốc ngữ”.

Ban lãnh đạo Hội ban đầu gồm có những nhân vật chủ chốt sau:

- Nguyễn Văn Tố : Hội trưởng

- Bùi Kỷ : Phó Hội trưởng

- Phan Thanh : Tổng thư ký

- Đặng Thai Mai : Thủ quỹ

- Võ Nguyên Giáp : Trưởng ban dạy học

Tối ngày 25/5/1938, tại Hội quán thể thao An Nam (trên đường phố Charles Coullié, nay

là phố Khúc Hạo, Hà Nội), có cuộc diễn thuyết lớn. Sau khi ông Nguyễn Văn Tố trình bày ý nghĩa

của việc học chữ Quốc ngữ và việc truyền bá nó trong quảng đại nhân dân lao động, ông Phan

Thanh đã phát biểu ý kiến về tình trạng khốn nạn của sự học thời đó, cái tỷ số ngu đần đáng

sợ, cái khốc hại của nạn mù chữ, ông kêu gọi: “Bây giờ cần kíp lắm rồi, chúng ta cần tổ chức

một liên đoàn to rộng để chống lại cái đại họa kia: sự ngu dốt của dân chúng. Vì tới đại đa số

không thể đi đến trường mà học được, trường học phải đi tới họ. Trường học phải gia tăng,

phải thâm nhập vào các thôn, xóm và các khu thợ thuyền. Trường học phải đem vào các túp

lều tranh, các xưởng máy một chút ánh sáng mà hiện giờ là độc quyền của thiểu số: Quần

chúng lao khổ phải có quyền hưởng ánh sáng ấy…”.

14

Ngày 29/7/1938, Thống sứ Bắc Kỳ buộc phải công nhận sự hợp pháp của Hội Truyền bá

Quốc ngữ. Nhưng Hội quyết định lấy ngày 25/5/1938 là ngày thành lập.

Đường lối hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ thể hiện rất rõ những quan điểm sau:

1. “Chữ quốc ngữ cho mọi người” (Langue nationale pour tous).

2. Quần chúng cần lao có quyền hưởng ánh sáng văn hóa.

3. Lập các lớp dạy học cho mọi người mà không lấy tiền.

4. Làm sách in cho mọi người, người học được phát sách miễn phí.

Mặc dù nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn cản nhưng Hội Truyền bá Quốc ngữ ở

Bắc Kỳ vẫn tổ chức được 820 lớp học, 41.118 học viên, 2908 giáo viên tình nguyện. Hội đã

hoạt động đến ngày Tổng khởi nghĩa 19/8/1945.

Hội Truyền bá Quốc ngữ ở Trung Kỳ thành lập ngày 5/1/1938. Nhà cầm quyền thực dân

và bọn tay sai người Việt gây ra quá nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các chi hội tại Thanh Hóa,

Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Định, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, Đà Nẵng, Thuận An, Đà Lạt

vẫn tìm mọi cách duy trì hoạt động. Tính đến tháng 9/1944, Trung Kỳ đã có 9.458 người thoát

mù chữ quốc ngữ.

Ở Nam Kỳ, việc thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ hơi muộn. Khi chưa thành lập Hội,

nhiều học sinh, sinh viên tiến bộ đã tổ chức các lớp học cho đồng bào bị thất học. Mãi đến

ngày 5/11/1944, Kỳ bộ Việt Minh ở Nam Kỳ mới giúp cho các thân sĩ trí thức tổ chức Đại hội

thành lập Hội, ra mắt quốc dân đồng bào tại Sài Gòn – Chợ Lớn. Hội truyền bà Quốc ngữ Nam

Kỳ hoạt động đến ngày 30/4/1975 (ngày Giải phóng Sài Gòn).

Từ 25/5/1938 đến 30/4/1975 đã đào tạo cho trên 70.000 người. Tuy con số này không

phải là nhiều, nhưng rất nhiều học viên đã trở thành cán bộ trung kiên trong kháng chiến

chống thực dân Pháp xâm lược. Nhiều người tham gia Hội truyền bá Quốc ngữ đã trở thành

cán bộ nòng cốt của phong trào Bình dân học vụ và cho bộ máy chính quyền cách mạng.

IV. Bình dân học vụ

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn

độc lập.

“Tất cả con người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể

xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh

phúc”.

Trong hơn 80 năm cai trị nước ta, thực dân Pháp đã xâm phạm vào các quyền nói trên,

và riêng về lĩnh vực, chúng đã cướp cái quyền học hành của dân ta khiến trên 95% dân số mù

chữ.

15

Ngày 3/9/1945, sau 1 ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính

phủ Cách mạng lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn

đề chống nạn thất học, coi mù chữ là một loại giặc cực kỳ nguy hiểm, giống như giặc đói và

giặc ngoại xâm. Người nhấn mạnh rằng, “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, cho nền cần

phải mở một chiến dịch chống nạn mù chữ5.

Ngày 8/9/1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp với cương vị Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, đã ký 3 sắc

lệnh:

- Sắc lệnh 17/SL: Đặt ra một Bình dân học vụ trên toàn cõi Việt Nam.

- Sắc lệnh 19/SL: Trong toàn xã hội Việt Nam, làng nào cũng có lớp học bình dân, mỗi

lớp ít nhất cũng phải có 30 học viên.

- Sắc lệnh 20/SL: Hạn trong 01 năm (từ ngày ra Sắc lệnh, mọi người trên 8 tuổi phải

biết đọc, biết viết).

Năm 1946, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên kháng chiến chống sự xâm lược của thực

dân Pháp. Trong điều kiện thiếu thốn mọi bề, tất cả cho tiền tuyến, toàn dân vẫn không bỏ

một buổi nào học chữ. Các lớp Bình dân được tổ chức tại từng thôn xóm, hợp tác xã, cơ quan,

cửa hàng, ngoài chợ… Người dân học tại sân đình, gốc đa đầu làng, góc chợ…, chỗ nào cũng

có thể làm địa điểm học. Ban ngày lao động sản xuất và vì địch đánh phá, người dân học ban

đêm. Nơi nào không bị máy bay oanh tạc, người dân học ngay đầu bờ ruộng. Không có bảng,

lớp học dùng tấm phản hoặc mặt sau của hoành phi, câu đối để thầy giáo viết bài học. Không

có giấy thì người học dùng mo cau, dùng mẹt… Không có phấn thì dùng than hoặc gạch non.

Khẩu hiệu “Đi học bình dân là kháng chiến”, “Đi học bình dân là yêu nước”, “Mỗi lớp bình dân

là một ổ kháng chiến… được viết lên tường, lên các nong nia, lên lưng trâu, lên cánh cổng. Tại

các an toàn khu, đêm đêm, trên các con đường trong thôn xóm, người đi học bình dân mang

theo chiếu, đèn dầu nhỏ, nhiều như sao sa, vui như ngày hội.

Lớp học bình dân thi theo các binh đoàn tiến ra mặt trận. Sau những trận công đồn, phục

kích diệt địch, đánh mìn chống xe tăng, thiết giáp của địch, các chiến sĩ ngồi quây quần học

lớp bình dân dã chiến.

Lớp học bình dân đi cùng các đoàn dân công ra hỏa tuyến. Mặc dù gánh gạo, thồ đạn

dược, leo đèo vượt suối vô cùng vất vả, nhưng khi ngồi nghỉ giải lao, giáo viên tranh thủ giảng

bài, ai cũng hào hứng học tập.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dù bận trăm công nghìn việc, nhưng hàng ngày không quên nhắc

nhở bà con lao động học hành.

5 Hồ Chí Minh. Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Toàn Tập, Tập IV, Nhà XB

Sự Thật, Hà Nội, 1984, tr. 6 – 7.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!