Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
PREMIUM
Số trang
569
Kích thước
4.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1307

Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

-------o-------

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ

NĂM 2008

Mã số:B08 - 13

XÂY DỰNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC

NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

CHỦ NHIỆM ĐỀTÀI: TS LƯU VĂN QUẢNG

THƯ KÝ KHOA HỌC: ThS PHẠM THẾ LỰC

CƠ QUAN CHỦ TRÌ: VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC

7402

08/6/2009

HÀ NỘI 1/2009

2

DANH SÁCH CÔNG TÁC VIÊN ĐỀ TÀI

1. TS Lưu Văn Quảng (Chủ nhiệm đề tài)

2. ThS Phạm Thế Lực (Thư ký đề tài)

3. TS Nguyễn Hữu Đổng

4. ThS Đinh Văn Minh

5. ThS Đinh Thị Hà

6. ThS Đinh Thị Thu Hằng

7. ThS Trương Văn Huyền

8. PGS,TS Lê Minh Quân

9. PGS,TSKH Phan Xuân Sơn

10.TS Đặng Đình Tân

11.PGS,TS Trịnh Đức Thảo

12.TS Trịnh Thị Xuyến

Viện Chính trị học

Viện Chính trị học

Viện Chính trị học

Viện Khoa học Thanh tra

Viện Chính trị học

Học viện BC&TT

Học viện Khu vực 1

Viện Chính trị học

Viện Chính trị học

Viện Chính trị học

Viện Nhà nước và Pháp luật

Viện Chính trị học

3

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1: CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC -

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC KIỂM

SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

1.1.1. Quyền lực và quyền lực nhà nước

1.1.1.1. Quyền lực là gì?

1.1.1.2. Quyền lực nhà nước và sự cần thiết của quyền lực nhà nước

1.1.2. Tính tất yếu của việc kiểm soát quyền lực nhà nước

1.1.3. Một số nội dung liên quan đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhà

nước

1.1.4. Hiến pháp - cơ sở chính trị -pháp lý quan trọng bảo đảm cho việc

kiểm soát quyền lực nhà nước

1.2.CÁC PHƯƠNG THỨC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

1.2.1. Phương thức kiểm soát quyền lực từ bên trong bộ máy nhà nước

1.2.1.1. Kiểm soát quyền lực của cơ quan lập pháp

1.2.1.2. Kiểm soát quyền lực của cơ quan hành pháp

1.2.1.3. Kiểm soát quyền lực của cơ quan tư pháp

1.2.2. Các phương thức kiểm soát quyền lực từ bên ngoài nhà nước

1.2.2.1. Bầu cử với vai trò là một phương thức kiểm soát quyền lực

1.2.2.2.Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các định chế về công

khai minh, bạch của chính quyền

1.2.2.3.Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động của các đảng

chính trị

1.2.2.4.Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các phương tiện truyền

thông đại chúng

1.2.2.5. Vai trò của xã hội dân sự trong việc kiểm soát quyền lực

1

14

14

14

14

16

23

28

33

37

37

38

46

49

52

53

56

59

63

66

4

1.2.2.6. Kiểm soát quyền lực thông qua quyền khiếu kiện của công dân

CHƯƠNG 2. CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ CỦA ĐẢNG TA VỀ KIỂM

SÓAT QUYỀN LỰC

2.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực

2.1.2. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề kiểm soát quyền lực

2.2. CÁC PHƯƠNG THỨC KIỂM SÓAT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.1.Phương thức kiểm soát quyền lực bên trong nhà nước

2.2.1.1. Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội

2.2.1.2. Chức năng thanh tra của Thanh tra Chính phủ

2.2.1.3. Hoạt động kiểm soát quyền lực của cơ quan tư pháp

2.2.2. Các phương kiểm soát quyền lực nhà nước mang tính xã hội

2.2.2.1. Hoạt động kiểm tra của Đảng

2.2.2.2. Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các tổ

chức thành viên

2.2.2.3. Hoạt động kiểm tra, giám sát của thanh tra nhân dân

2.2.2.4. Kiểm soát quyền lực thông qua bầu cử của công dân

2.2.2.5. Kiểm soát quyền lực thông qua các quy định về tính công khai

minh bạch hoạt động của bộ máy nhà nước

2.2.2.6. Họat động giám sát quyền lực nhà nước của các phương tiện

truyền thông đại chúng

2.2.2.7. Kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động khiếu nại, tố cáo của

công dân

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CƠ CHẾ

KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC

NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.1. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả như một nội

dung trọng tâm của xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở

69

73

73

73

77

81

82

82

91

101

105

105

115

123

126

130

136

140

144

144

144

5

Việt Nam hiện nay

3.1.2. Đổi mới nhận thức về vấn đề kiểm soát quyền lực

3.1.3. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực theo hướng đảm bảo và

mở rộng các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân

3.2. CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC

NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2.1.Xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy của Đảng

3.2.2. Đổi mới nội dung và phương thức bầu cử

3.2.3. Đổi mới nội dung và phương thức kiểm soát quyền lực của các

thiết chế nhà nước theo hướng pháp quyền

3.2.3.1. Đối với Quốc hội

3.2.3.2. Cải cách bộ máy hành chính theo hướng nâng cao tính chuyên

nghiệp và tính trách nhiệm của bộ máy hành pháp

3.2.3.3. Đổi mới hoạt động của cơ quan tư pháp

3.2.4. Xây dựng cơ chế xác định trách nhiệm trong hoạt động của bộ

máy Đảng và Nhà nước

3.2.5. Nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà

nước

3.2.6. Đổi mới tổ chức và hoạt động của MTTQ và các tổ chức thành

viên nhằm nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội

3.2.7. Phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng

trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước

3.2.8.Nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân

KẾT LUẬN

146

148

149

149

151

159

159

164

167

169

171

175

180

182

185

6

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước là những vấn đề

trung tâm của đời sống chính trị. Trải qua nhiều thế hệ, con người đã tìm kiếm

các phương thức tổ chức quyền lực nhà nước khác nhau để thiết lập mối quan

hệ qua lại, phụ thuộc lẫn nhau giữa pháp luật và quyền lực, cá nhân và cộng

đồng, công dân và nhà nước, nhằm đảm bảo tính hiệu quả của việc thực thi

quyền lực.

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự

mở rộng và tự tăng cường vai trò của mình. Nhìn chung, các chủ thể khi nắm

giữ quyền lực đều có xu hướng sử dụng nó phục vụ cho những lợi ích cá nhân,

lợi ích cục bộ nhóm của mình, làm cho quyền lực bị tha hóa. Và hậu quả của sự

tha hoá đó dẫn đến quyền lực bị suy thoái, mất tác dụng điều tiết các quan hệ

xã hội, hệ thống quyền lực bị tê liệt. Ở mức độ thấp, nó làm cho xã hội rơi vào

trạng thái ngưng trệ, bất ổn; ở mức độ cao, nó có thể đẩy xã hội vào tình trạng

hỗn loạn.

Do nhận thức được quyền lực luôn có xu hướng bị lạm dụng và những

hậu quả mà nó mang lại, nên kể từ khi xã hội loài người được tổ chức thành xã

hội chính trị, con người đã không ngừng quan tâm tìm kiếm những phương

thức khác nhau để kiểm soát quyền lực, để tạo ra một cơ chế đủ sức ngăn chặn

việc tiếm quyền và sử dụng quyền lực trái với mong muốn của chủ thể cầm

quyền. Từ rất sớm, các nhà tư tưởng ở cả phương Đông và phương Tây đã tìm

kiếm và xây dựng những lý thuyết khác nhau để kiểm soát quyền lực. Nhiều

mô hình kiểm soát quyền lực cũng từ đó được hình thành và phát triển. Trong

số rất nhiều lý thuyết và mô hình được đưa ra, thì cho đến nay, hai lý thuyết

được sử dụng nhiều nhất là lý thuyết phân quyền và lý thuyết tập quyền.

Hạt nhân của lý thuyết phân quyền là sự kiềm chế và đối trọng lẫn nhau

giữa các nhánh quyền lực và loại trừ khả năng tập trung toàn bộ quyền lực

7

trong tay một nhánh quyền lực nào đó. Trong khi đó, theo lý thuyết tập quyền,

quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất, được kiểm soát thông qua chức

năng giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đó là Quốc hội. Lý

thuyết phân quyền chủ yếu được áp dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa, còn lý

thuyết tập quyền được sử dụng chủ yếu ở các nước xã hội chủ nghĩa. Cả hai mô

hình kiểm soát quyền lực đều coi trọng cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên

ngoài bằng cách huy động sự tham gia của các hội, hiệp hội, các phương tiện

thông tin đại chúng, các thiết chế dân chủ của người dân với tư cách là những

phương tiện để thực hiện sự giám sát và phản biện xã hội đối với quyền lực nhà

nước. Những cơ chế kiểm soát như vậy đã có tác dụng kiềm chế hiện tượng

lạm dụng quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của người dân ...ở những mức độ

đậm nhạt khác nhau.

Ở Việt Nam, sự kiểm soát quyền lực trong bản thân bộ máy nhà nước chủ

yếu thông qua chức năng giám sát của Quốc hội. Về bản chất, đây là sự thể

hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân,

thông qua những người đại diện của mình, có thể kiểm soát toàn bộ hoạt động

của bộ máy nhà nước một cách toàn diện và triệt để. Nhân dân với tư cách là

người chủ của quyền lực, có quyền thực hiện sự kiểm soát theo phương thức

trên nhằm đảm bảo cho quyền lực được thiết lập và thực hiện vì lợi ích của

chính mình.

Có thể nói, trong những năm qua, cách thức tổ chức và thực thi quyền lực

nhà nước nói chung và cơ chế giám sát quyền lực nhà nước nói riêng ở nước ta

đã có những đóng góp tích cực trong việc phát huy hiệu lực quản lý của nhà

nước và quyền dân chủ của nhân dân, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng liên tục

với tốc độ cao của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, thực tiễn vận hành của mô hình tổ chức quyền lực và cơ chế

kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta trong thời gian qua cũng đã bộc lộ

những vấn đề cần được nghiên cứu và giải quyết. Có thể thấy, chúng ta chưa

thực sự tạo ra được “chiếc phanh an toàn” cho sự vận hành của “bánh xe quyền

lực”. Điều này thể hiện ở chỗ, cơ chế kiểm soát quyền lực còn tỏ ra yếu kém,

8

dẫn đến tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền trong bộ máy nhà nước

diễn ra tương đối phổ biến; có nơi, có lúc vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ

của nhân dân. Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử còn hình thức, còn

nhiều “vùng cấm” bị bỏ qua trong quá trình giám sát. Hệ thống các cơ quan

kiểm tra, thanh tra tuy khá đầy đủ, nhưng chưa phát huy được vai trò của mình,

hầu như không có khả năng phát hiện và xử lý tệ quan liêu, tham nhũng và các

hiện tượng tiêu cực trong bộ máy. Các cơ quan tư pháp vẫn chưa hòan toàn thể

hiện được tính độc lập trong quá trình xét xử, chưa thực sự là “cán cân công lý”

trong việc bảo vệ pháp luật và bảo vệ quyền lợi của người dân. Vai trò giám

sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên vẫn mang nặng

tính hình thức, ít phát huy tác dụng. Các phương tiện thông tin đại chúng còn

gặp nhiều khó khăn trong hoạt động của mình. Các thiết chế làm chủ của nhân

dân còn chung chung và khó thực hiện..v.v..

Bên cạnh đó, nguyên tắc tập trung dân chủ và cơ chế tập thể lãnh đạo đã

và đang tạo ra tình trạng khó xác định trách nhiệm cụ thể của các cá nhân và tổ

chức trong quá trình thực thi quyền lực. Điều này dẫn đến hiện tượng “núp

bóng tập thể”, nhân danh tập thể để lạm quyền, vụ lợi mà không phải chịu trách

nhiệm. Vì lẽ đó, cơ chế kiểm soát quyền lực tuy có, nhưng chưa phát huy được

hiệu quả.

Những hạn chế nêu trên đã làm cản trở quá trình xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và những nỗ lực nhằm mở rộng và phát

huy dân chủ. Đó chính là mảnh đất màu mỡ để sự tha hoá quyền lực tồn tại và

phát triển, nhiều khi làm cho quyền lực nhà nước bị những lợi ích cục bộ làm

cho biến dạng, đi ngược lại với lợi ích chung mà đáng ra quyền lực phải phục

vụ. Đó cũng là lý do giải thích tại sao trong thời gian qua số lượng đơn, thư

khiếu nại, tố cáo của người dân không hề giảm, số lượng cán bộ bị phát hiện vi

phạm pháp luật ngày càng lớn, các điểm nóng xã hội vẫn xảy ra, các vụ án

tham nhũng bị phát hiện và xử lý ngày càng nhiều. Hàng loạt các vụ án đặc biệt

nghiêm trọng được phát hiện và xử lý trong thời gian qua như: vụ Lã Thị Kim

Oanh (Bộ NN&PTNT), vụ án tham nhũng ở Tổng công ty dầu khí Việt Nam,

9

vụ cấp phát Quota dệt may (Bộ Thương mại), vụ PMU 18 (Bộ GTVT), vụ tham

nhũng đất đai ở Đồ Sơn (Hải Phòng)…đã và đang là hồi chuông cảnh báo

nghiêm khắc về sự yếu kém của hệ thống kiểm soát quyền lực ở nước ta.

Trong bối cảnh kể trên, việc nghiên cứu để tìm ra một cơ chế, xây dựng

được một mô hình kiểm soát quyền lực hiệu quả, đủ sức ngăn chặn tình trạng

lạm quyền, chuyên quyền, hạn chế được tình trạng quan liêu, tham nhũng, đảm

bảo quyền dân chủ của người dân là vấn đề mang tính thời sự hiện nay ở nước

ta. Đó không chỉ là đòi hỏi cấp bách của quá trình xây dựng nhà nước pháp

quyền đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của

đất nước, mà nó còn là tiêu điểm của quá trình mở rộng và phát huy quyền dân

chủ của người dân.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Ở nước ngoài:

Kiểm soát quyền lực là một phạm trù quan trọng của khoa học chính trị nói

chung và của Chính trị học nói riêng. Vấn đề này từ lâu đã thu hút sự quan tâm

nghiên cứu của các học giả nước ngoài, đặc biệt là các học giả phương Tây. Đến

nay, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm kiếm thêm những cách thức kiểm soát

gắn liền với phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Nhiều khái

niệm, phạm trù và những vấn đề liên quan dường như đã trở nên sáng rõ cả về lý

thuyết và thực tiễn. Hai cơ chế kiểm soát quyền lực được các nhà nghiên cứu bàn

đến nhiều nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực từ các thể chế bên trong nhà nước và

cơ chế kiểm soát quyền lực từ các thể chế bên ngoài nhà nước.

Sự ra đời của cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên trong gắn liền với sự

hình thành và phát triển của lý thuyết phân quyền. Ngay từ thời cổ đại,

Aristotle, trong tác phẩm Nền chính trị (The politics), đã đề xuất phương án

phải phân chia quyền lực thành các bộ phận: Nghị luận, chấp hành và xét xử để

kiểm soát lẫn nhau. Đến thời kỳ cận đại, J.Locke, trong tác phẩm Khảo luận thứ

hai về chính quyền (Two treasures of government), đã cho rằng, trong thể chế

10

chính trị tự do, quyền lực tối cao được chia làm ba lĩnh vực: lập pháp, hành

pháp và liên hợp (quan hệ quốc tế). Các quyền này phải được phân cho các cá

nhân, tổ chức khác nhau nắm giữ chứ không thể tập trung trong tay một người.

Nhưng phải đến Montesquieu, với tác phẩm Tinh thần pháp luật (De L’Esprit

des lois), thì lý thuyết phân quyền mới đạt đến sự hoàn thiện. Tiếp tục phát

triển quan điểm của các tác giả trước đó, ông cho rằng, cách tốt nhất để chống

lạm quyền không phải là tập trung quyền lực nhà nước, mà là phân chia quyền

lực nhà nước ra thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Nội dung của lý thuyết phân quyền không chỉ dừng lại ở việc phân định

các chức năng cho các nhánh quyền lực mà còn tiến đến kiểm soát các cơ quan

quyền lực - đó chính là cơ chế kiềm chế và đối trọng. Cơ chế này tạo cơ sở để

các nhánh quyền lực thực hiện sự kiểm soát lẫn nhau. Nó tạo lập mối quan hệ

tương tác và phụ thuộc giữa các nhánh quyền lực, sao cho các nhánh đó có thể

độc lập giải quyết các nhiệm vụ được quy định bằng những phương tiện pháp

lý, đồng thời có thể ngăn chặn sự độc chiếm, thao túng, lạm dụng quyền lực

của các nhánh còn lại.

Trái với lý thuyết phân quyền, một số nhà tư tưởng phương Tây lại cho

rằng, quyền lực nhà nước là tập trung, thống nhất vì nó được hình thành trên cơ

sở sự uỷ quyền của dân, nên phải dùng dân chủ để hạn chế và kiểm soát quyền

lực. Các nhà tư tưởng theo lý thuyết này thống nhất với nhau ở chỗ: xét cho

cùng, muốn dân chủ và tự do thì mọi quyền lực đều phải do nhân dân kiểm soát

thông qua hai hình thức chính: (1) Bầu cử theo nhiệm kỳ, lấy phiếu tín nhiệm

chính phủ và những người cầm quyền - tức là quyết định trực tiếp theo đa số; và

(2) Công luận - tức là giám sát và phản biện quyền lực mang tính thường xuyên

của nhân dân. Trong hai hình thức kể trên, thì bầu cử tự do được coi là phương

thức thực hành dân chủ quan trọng nhất. Hình thức giám sát bằng công luận đòi

hòi phải có tự do ngôn luận (đặc biệt là tự do báo chí) và tự do liên hiệp (lập

hội), cũng như các bảo đảm về sự tự hoàn thiện, sự nâng cao dân trí, nâng cao

trách nhiệm xã hội của cá nhân - vốn là các điều kiện thiết yếu của tiến trình

11

hoàn thiện dân chủ. Các tác phẩm bàn về vấn đề này có thể kể đến: Bàn về Khế

ước xã hội (The social contract) của J.J.Rousseau, Luận về tự do (On liberty) của

J.S.Mill và trong các tác phẩm của các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác -

Lênin khi các ông bàn về vấn đề dân chủ của giai cấp vô sản.

Ngày nay, khi khảo sát các vấn đề về tổ chức và thực thi quyền lực nhà

nước, một số nhà nghiên cứu tiếp tục đề cập đến các cơ chế kiềm chế chính

thức ngay bên trong bộ máy nhà nước để đảm bảo sự họat động hiệu quả của

chính phủ. Hai cơ chế kiềm chế chính thức được nhiều nghiên cứu đề cập là:

một nền tư pháp độc lập mạnh và sự phân lập các quyền, để các nhánh quyền

lực có thể kiềm chế và đối trọng lẫn nhau. Những tác giả nghiên cứu về các vấn

đề này phải kể đến Patrick Gunning (2002), Hiểu biết về nền dân chủ - Một

giới thiệu về lý thuyết lựa chọn công cộng (Understanding democracy - An

introduction to Public choice); A.McIntyre (2002), Quyền lực của các thể chế

(Power of Institutions); Nhóm nghiên cứu của nhân hàng thế giới (1998), Nhà

nước trong một thế giới đang chuyển đổi; Micheal G.Roskin, Robert L.Cord

(1991), Khoa học chính trị - một cách giới thiệu (Political Science - An

introduction). v.v..

Nhiều tác giả không chỉ giới hạn trong việc lý giải quan hệ giữa lập

pháp, hành pháp và tư pháp trên quan điểm pháp lý thuần tuý, mà còn nghiên

cứu sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ các thể chế và các lực lượng xã hội

khác nhau bên ngoài nhà nước như: các đảng phái chính trị, các phương tiện

thông tin đại chúng, các nhóm lợi ích, và các tổ chức xã hội công dân... như:

Jeffrey H.Birnbaum (1992), Những nhà vận động hành lang - những kẻ ngồi lê

hoạt động như thế nào tại Oasinhtơn (The Lobbyists - How influence peddlers

work their way in Washington); Andrew Heywood (2002): Chính trị (Politics).

Bên cạnh đó, một số tác giả còn đề cập đến những khía cạnh cụ thể nhằm

tạo môi trường cho sự kiểm soát quyền lực như: vấn đề quyền con người, tự do

báo chí, tính trách nhiệm và đạo đức trong khu vực công cộng, sự công khai

hoá và dân chủ hoá các quyết định của chính phủ, xây dựng chế độ kiểm toán

12

độc lập và minh bạch hoá tài chính... Các tác giả tiêu biểu của những nghiên

cứu trên là Stapenhurst Rick, Kpundeh Sahr (1999), Kiềm chế tham nhũng -

Hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia (Curbing corruption:

Toward a model for building national integrity); Kriegel và Blandine (1995),

Nhà nước và nhà nước pháp quyền (The State and the rule of law); Micheal

J.Sodaro (2000), Chính trị so sánh - một giới thiệu mang tính toàn cầu

(Comparative politics - A global introduction) .v.v...

Ở Việt Nam:

Nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực ở nước ta vẫn còn là một đề tài

khá mới mẻ và giữa các nhà nghiên cứu còn có những cách tiếp cận khác nhau.

Các tác giả chủ yếu tập trung vào hai hướng: nghiên cứu so sánh các mô hình

của nước ngoài và nghiên cứu mô hình kiểm soát quyền lực ở nước ta.

Nhóm tác giả nghiên cứu các mô hình kiểm soát quyền lực ở nước ngoài

tập trung vào sự phân tích các luận điểm, tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà

nước của các nhà tư tưởng của lý thuyết phân quyền; phân tích mang tính mô tả

hệ thống sự vận dụng và cơ chế vận hành của lý thuyết này trong thiết kế mô

hình kiểm soát quyền lực nhà nước ở các nước tư sản, cụ thể là các chính thể

đại nghị (cả cộng hoà lẫn quân chủ), chính thể cộng hoà (cả cộng hòa tổng

thống và cộng hoà lưỡng tính) thông qua các nhà nước mang tính điển hình

như: Anh, Đức, Mỹ, Pháp, Nhật.

Các công trình tiêu biểu về vấn đề này chủ yếu được đề cập dưới khía

cạnh luật học và chính trị học, chẳng hạn như:

(1) Nguyễn Thị Hồi, Tìm hiểu tư tưởng về nhà nước và phân chia quyền

lực nhà nước của J.Locke và Tìm hiểu tư tưởng phân quyền của Môngtetxkiơ,

Tạp chí Luật học số 3 và số 5, 2001.

(2) Nguyễn Thị Hồi, Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ

chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, H, 2005.

(3) Nguyễn Đăng Dung, Bộ máy nhà nước và nguyên tắc phân quyền ở

Anh, Tạp chí Luật học số 2, 2002 và Học thuyết phân chia quyền lực - Sự áp

13

dụng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở một số nước,Tạp chí

Nhà nước và Pháp luật số 2, 1998.

(4) Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb ĐHQG, 2005

(5) Đinh Ngọc Vượng (chủ biên), “Thuyết “Tam quyền phân lập” và bộ

máy nhà nước tư sản hiện đại”, Hà Nội, 2000.

(6) Hồ Việt Hạnh, Tam quyền phân lập ở Nhật bản, Luận án Tiến sỹ

Chính trị học, 2005.

(7) Khoa Luật, ĐHQG HN, Luật Hiến pháp của các nước tư bản, Nxb

ĐHQG, 2001.

Với một cách tiếp cận so sánh rộng hơn, một số đề tài nghiên cứu khoa

học cấp quốc gia, cấp Bộ cũng đã nghiên cứu về cơ chế kiểm soát quyền lực

nhà nước với tư cách là một bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị ở một

mức độ nhất định. Khi nghiên cứu hệ thống chính trị ở các nước tư sản, các

công trình này chủ yếu khai thác khía cạnh phân quyền và kiểm soát quyền lực

với mục đích là tìm kiếm những hạt nhân hợp lý, những kinh nghiệm để phục

vụ cho quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam, đặc biệt là trong thiết

kế, tổ chức bộ máy nhà nước. Trong phần nghiên cứu hệ thống chính trị ở các

nước XHCN, đặc biệt là ở Liên Xô và ở các nước XHCN Đông Âu trước đây,

các công trình chủ yếu làm rõ việc vận dụng lệch lạc, không đúng nguyên tắc

tập trung thống nhất trong tổ chức quyền lực nhà nước, chỉ ra sự lỏng lẻo, yếu

kém và không hiệu quả của các thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước - vốn

được xác định là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho Liên Xô sụp

đổ, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình vận

dụng và đổi mới bộ máy nhà nước. Các công trình tiêu biểu cho cách tiếp cận

này có thể kể đến: Chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện tại và tương lai Nxb

CTQG, H.2002 của TS Nguyễn Đăng Thành; Tổ chức và hoạt động thanh tra,

kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới, Nxb CTQG, H.2001; Đề tài

KX 05.02: Chính trị và hệ thống chính trị của các nước tư bản phát triển do GS

Hồ Văn Thông chủ nhiệm; Đề tài KX 04.04: Xây dựng mô hình tổ chức,

phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong nhà nước pháp quyền

14

XHCN của dân, do dân và vì dân ở nước ta do PGS.TS Trần Ngọc Đường làm

chủ nhiệm; Đề tài KX 04.01: Cơ sở thực tiễn về nhà nước pháp quyền XHCN

của dân, do dân và vì dân do GS.VS Nguyễn Duy Quý chủ nhiệm; Đề tài KX

10.10: Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở một số nước trên

thế giới” do PGS, TS Tô Huy Rứa làm chủ nhiệm.v.v...

Bên cạnh việc trình bày, phân tích cách thức vận dụng lý thuyết phân

quyền và cơ chế kiểm soát quyền lực ở một số nhà nước tư sản, nhiều tác giả

cũng đã đề cập đến việc tiếp thu những hạt nhân hợp lý của sự phân quyền cho

việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam và coi đó là

một trong những yếu tố không thể thiếu trong quá trình xây dựng nhà nước

pháp quyền. Các công trình tiêu biểu bàn về vấn đề này là:

(1) Lê Minh Tâm, Bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự

phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp, Tạp chí Luật học số 5 , 2002.

(2) Trần Quang Minh, Thống nhất và phân định quyền lập pháp, hành

pháp và tư pháp – phương thức thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1, 1992.

(3) Nguyễn Cửu Việt, Nhận thức về nguyên tắc tập quyền và vài khía

cạnh trong vấn đề về quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2, 1997.

(4) Lê Cảm, Tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước trong giai đoạn xây

dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp

chí Nhà nước và Pháp luật, số 11, 2001.

(5) Nguyễn Minh Đoan, Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước, Tạp

chí Luật học.

(6) Đinh Văn Mậu, Tăng cường giám sát tính hợp hiến trong hoạt động

quản lý nhà nước - một trong những hướng cơ bản nhằm xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta,T¹p chÝ Quản lý nhà nước, số 4/2002.

(7) TS Thang Văn Phúc và PGS, TS Nguyên Đăng Thành (Chủ biên), Một

số lý thuyết và kinh nghiệm tổ chức nhà nước trên thế giới, Nxb CTQG, 2005.

15

Các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước là

thống nhất, thuộc về nhân dân và được tập trung ở cơ quan quyền lực nhà nước

cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất do toàn thể nhân dân bầu ra là Quốc hội.

Quốc hội thành lập và trao cho các cơ quan nhà nước thực thi quyền hành pháp

và tư pháp, do đó chức năng giám sát của Quốc hội mang tính tối cao.

Một số tác giả đã có những nghiên cứu trực diện các khía cạnh khác nhau

của vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Hầu hết các

công trình này đều cho thấy, các thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt

Nam không mang tính chuyên nghiệp, khả năng ngăn chặn tình trạng lạm

quyền còn yếu, các thiết chế đảm bảo quyền làm chủ của người dân còn hình

thức và khó thực hiện. Đó là lý do giải thích vì sao tình trạng lạm quyền, quan

liêu, tham nhũng khó kiểm soát và ngày càng lộng hành trong đời sống xã hội.

Các công trình bàn về vấn đề này có thể kể đến:

(1) GS, TSKH Đào Trí Úc và PGS, TS Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên),

Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện

nay, Nxb Công an nhân dân, 2003.

(2) PGS, TS Phạm Ngọc Kỳ,Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội,

Nxb CTQG, 2000.

(3) TS Đặng Đình Tân (Chủ biên), Nhân dân giám sát các cơ quan dân

cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới Nxb CTQG, 2006.

(4) Dương Bá Thành, Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Chính trị học, 2004.

(5) Đề tài KX 10-07: Xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm sự kiểm tra, giám sát

của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và các thiết chế tổ

chức trong hệ thống chính trị do GS,TSKH Đào Trí Úc làm chủ nhiệm.

Có thể thấy, việc nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực dù trực tiếp hay

gián tiếp, từ các góc độ khác nhau đã có những thành tựu đáng ghi nhận:

- Các công trình nghiên cứu ngày càng làm rõ hơn tính tất yếu, nội dung,

bản chất, hình thức và cơ chế kiểm soát quyền lực. Hầu hết các công trình đều

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!