Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Xã hội mở : Cải cách chủ nghĩa tư bản toàn cầu = Open society : Reforming global capitalism
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TỦ SÁCH SOS2
XÃ HỘI MỞ
Cải cách
Chủ nghĩa tư bản
Toàn cầu
GEORGE
SOROS
TỦ SÁCH SOS2
GEORGE
SOROS
XÃ HỘI MỞ
Cải cách
Chủ nghĩa tư bản
Toàn cầu
Người dịch: Nguyễn Quang A
GEORGE
SOROS
OPEN SOCIETY
Reforming
Global Capitalism
PublicAffairs
New York
2000
Mục lục
Lời giới thiệu v
Lời cảm ơn vii
Dẫn nhập ix
Phần I: Khung khổ khái niệm
1. Tư duy và Thực tại 3
2. Phê phán Kinh tế học 38
3. Phản thân trong các thị trường tài chính 58
4. Phản thân trong lịch sử 91
5. Xã hội mở như một Lí tưởng 116
6. Vấn đề các giá trị xã hội 138
Phần II: Thời điểm Hiện tại trong Lịch sử
7. Hệ thống Tư bản Chủ nghĩa Toàn cầu 167
8. Khủng hoảng Tài chính 1997-1999 208
9. Ai Mất nước Nga? 235
10. Một Cấu trúc Tài chính Toàn cầu Mới 265
11. Cấu trúc Chính trị Toàn cầu 301
12. Liên minh Xã hội Mở 330
Kết luận 360
Chỉ mục 361
Lời Giới thiệu
Bạn đọc cầm trên tay cuốn sách thứ tám*
của tủ sách SOS2
.
Cuốn Xã hội Mở [Cải cách Chủ nghĩa tư bản Toàn cầu] của
George Soros. Đây là cuốn thứ hai của Soros trong tủ sách.
Ý kiến về Soros rất khác nhau. Có người lên án ông như kẻ
thao túng thị trường chứng khoán, kẻ gây ra khủng hoảng tài
chính, kẻ tham gia lật đổ. Nhiều người ca ngợi ông như một
thiên tài tài chính, người làm từ thiện lớn nhất hành tinh. Ông
cho mình là người duy nhất trên thế giới đi ngăn chặn khủng
hoảng một cách có mục đích và có tổ chức. Cuốn sách này sẽ
giúp bạn đọc hiểu kĩ hơn về ông và về các ý tưởng của ông.
Người ta nói nhiều về hội nhập kinh tế về nền kinh tế toàn
cầu. Cơ chế thị trường đã thành công xuất sắc trong giải
phóng tài năng kinh doanh và tạo ra của cải. Chủ nghĩa tư bản
dựa vào cơ chế thị trường. Nếu chỉ dựa vào cơ chế thị trường
và nhấn mạnh thái quá đến các giá trị thị trường, chủ nghĩa tư
bản không thể đảm bảo tự do, dân chủ, và pháp trị; có thể, và
nó đã dẫn đến những thảm hoạ như hai cuộc Chiến tranh Thế
giới, các cuộc khủng hoảng tài chính. Vì sao chúng xảy ra?
Làm sao có thể tránh được những thảm hoạ như vậy, hay chí
ít làm nhẹ bớt tác động tai hoạ của chúng? Đó là những vấn
đề Soros quan tâm. Và xã hội mở là một xã hội có thể làm
được điều đó.
Khái niệm “Xã hội mở” được Henri Bergson dùng đầu tiên
năm 1932, và Karl Popper phát triển và làm cho khái niệm
được biết đến rộng rãi trong công trình triết học của ông xuất
bản năm 1943. Soros chịu ảnh hưởng mạnh của Karl Popper.
*
Các quyển trước gồm:
1. J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001,
Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002.
2. J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002
3. J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002
4. G. Soros: Giả kim thuật tài chính, sắp xuất bản
5. H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản, sắp xuất bản
6. J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?sắp xuất bản
7. F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô, sắp xuất bản
Lời Giới thiệu
__________________________________________________
vi
Cả trên lĩnh vực thực tiễn và triết lí ông không ngừng cổ vũ
cho xã hội mở.
Theo Bergson xã hội được tổ chức theo các nguyên lí bộ
lạc là xã hội đóng; xã hội được tổ chức theo các nguyên lí phổ
quát là xã hội mở. Theo Popper xã hội mở bị đe doạ bởi tất cả
các hệ tư tưởng cho là mình có chân lí cuối cùng. Soros đồng
ý. Các hệ tư tưởng bộ lạc không còn được coi là cơ sở để tổ
chức xã hội hiện đại, và sau Chiến tranh Thế giới II và nhất là
sau 1989 các hệ tư tưởng cho là mình có chân lí cuối cùng đã
mất uy tín, chủ nghĩa tư bản hiện đại là biểu hiện bị méo mó
về xã hội mở. Xã hội mở, theo Soros, dựa vào sự thừa nhận
rằng chân lí cuối cùng là ngoài tầm với của con người, dựa
vào tính có thể sai của con người, dựa vào sự thừa nhận là
những kiến trúc do con người tạo ra nhất thiết có sai sót một
cách cố hữu; nó là một xã hội dựa trên các nguyên lí phổ quát
song không bao giờ hoàn hảo, luôn mở ra cho sự cải thiện.
Ông phát hiện ra sự không đồng bộ giữa nền kinh tế toàn cầu
và dàn xếp chính trị toàn cầu, sự tồn tại của các quốc gia có
chủ quyền. Ông kiến nghị lập liên minh xã hội mở để thúc đẩy
phát triển xã hội mở ở từng nước và đặt nền móng cho một xã
hội mở toàn cầu.
Cuốn sách có thể bổ ích cho các học giả, các nhà hoạch
định chính sách, và tất cả những ai quan tâm đến những vấn
đề chính trị và kinh tế thế giới.
Bản tiếng Việt khác nguyên bản ở chỗ mọi chú thích của
tác giả được đánh lại bằng số (nguyên bản được đánh dấu
bằng các kí hiệu khác nhau). Tất cả các chú thích đánh dấu
sao (*
) là của người dịch. Bản dịch chắc còn nhiều thiếu sót
mong bạn đọc thông cảm, lượng thứ, và chỉ bảo; xin liên hệ
theo địa chỉ Tạp chí Tin học và Đời sống, 54 Hoàng Ngọc
Phách Hà Nội [25/B7 Nam Thành Công], hoạc qua điện thư
[email protected] hay [email protected]
Hà Nội 4-2004
Nguyễn Quang A
Lời cảm ơn
Đây là lần đầu tiên khung khổ quan niệm mà tôi bắt đầu phát
triển từ những ngày sinh viên nhận được sự chú ý phê phán
nghiêm túc. Đó là một kinh nghiệm khích lệ và giải thoát theo
một cách nào đó. Tôi biết ơn tất cả những người đã quan tâm
đến phiên bản trước hay phiên bản hiện thời của cuốn sách
này.
Antole Kaletsky đã thực sự là biên tập của cuốn The Crisis
of Global Capitalism: Open Society Endangered [Khủng
hoảng của Chủ nghĩa Tư bản Toàn cầu: Xã hội Mở bị lâm
nguy], giúp tôi tổ chức nội dung và làm cho nó dễ tiếp cận
hơn; Roman Frydman đã giúp đỡ đặc biệt về khung khổ quan
niệm; Leon Botstein đã nêu ra nhiều điểm lí thú và chúng tôi
đã có vài cuộc thảo luận sôi nổi; Anthony Giddens đã cho ý
kiến về nhiều hơn một phiên bản của bản thảo; William
Newton-Smith đã làm cho tôi hiểu đúng về một số điểm triết
học; và John Gray đã khiến tôi đọc lại cuốn Great
Transformation [Biến chuyển Vĩ đại] của Karl Polanyi.
Những người khác đã có các ý kiến hữu ích bao gồm Robert
Kuttner, John Simon, Jeffrey Friedman, Mark Malloch
Brown, Arminio Fraga, Tom Glaessner, Aryeh Neier, Daniel
Kahneman, Byron Wien, và Richard Medley.
Trong chuẩn bị phiên bản này, tôi đã được sự giúp đỡ có giá
trị của Adam Posen ở Institute for International Economics
[Viện Kinh tế học Quốc tế], mặc dù ông không hề phải chịu
trách nhiệm về các quan điểm của tôi. Yehuda Elkana đã tổ
chức một nhóm nghiên cứu ở Central European University
[Đại học Trung Âu] tại Budapest, và tôi đã nhận được góp ý
bằng văn bản từ Lóránd Ambrus-Lakatos, Fabrizio Coricelli,
John Gray, János Kis, Mária Kovács, Petr Lom, và István
Rév. Katie Jamieson đã tóm tắt biên bản bằng văn phong sáng
sủa quen thuộc của cô. Les Gelb đã tổ chức một cuộc thảo
luận ở Council on Foreign Relations [Uỷ ban Quan hệ Nước
ngoài] tại New York mà từ đó tôi học được rất nhiều. Những
người tham dự bao gồm Elizabeth Colagiuri, Morris
Lời cảm ơn
__________________________________________________
viii
Goldstein, Nancy Goodman, Roger Kubarych, Lawrence
Korb, Michael Mandelbaum, William Luers, Walter Mead,
Peter Osnos, David Phillips, Adam Posen, Gideon Rose,
Geoff Shandler, Dimitri Simes, Benn Steil, và Fareed Zakaria.
Mort Abramowitz, Martti Ahtisaari, Antony Lester, Charles
W. Maynes, Aryeh Neier, Stewart Paperin, Alex Rondos,
Cornelio Sommaruga, và Joseph Stiglitz đã tham gia một
thảo luận cuối tuần tại nhà tôi. Lord Lester đã nêu ra một số
vấn đề quan trọng liên quan đến định nghĩa của tôi về xã hội
mở mà tôi đã không giải quyết được để ông thoả mãn. Tôi
muốn cảm ơn tất cả những người đã chịu khó đọc bản thảo ở
các giai đoạn khác nhau của sự tiến triển của nó. Họ quá đông
để có thể liệt kê, nhưng tôi phải cảm tạ Benjamin Barber,
Leon Botstein, Bill Clapp, Jacques de Larosière, Jeffrey
Friedman, Roman Frydman, Ekaterina Genieva, Antole
Kaletsky, Alex Lupis, Aryeh Neier, Joseph Nye, Andrei
Shleifer, John Simon, và F. van Zyl Slabbert, đã gửi góp ý
bằng văn bản cho tôi. Justin Leites đã có một vài gợi ý có giá
trị ở phút cuối cùng.
Tôi đã rất hài lòng với Peter Osnos và nhóm của ông ở nhà
xuất bản Public Affairs và tôi biết ơn Kris Dahl đã đề nghị
ông.
Yvonne Sheer đã đánh máy đi đánh máy lại bản thảo không
biết bao nhiêu lần, đối chiếu các tài liệu tham khảo, và hoạt
động như tổng quản lí dự án. Tôi đã không thể làm xong mà
không có cô.
Dẫn nhập
Đây là một cuốn sách về triết học thực tiễn: Nó cung cấp một
khung khổ quan niệm có ý định dùng như một chỉ dẫn cho
hành động. Tôi đã được khung khổ đó hướng dẫn trong cả các
hoạt động kiếm tiền lẫn từ thiện, và tôi tin rằng nó cũng áp
dụng cho xã hội nói chung: Nó cung cấp các nguyên tắc chỉ
đạo cho một xã hội mở toàn cầu. Đây là một sự đảm đương
đầy tham vọng. Để thực hiện nó, tôi sẽ phải đề cập nhiều lĩnh
vực và di chuyển trên nhiều mức: triết học, thực tiễn, công
cộng và cá nhân.
Ở mức thực tiễn, tôi đã thiết lập một mạng lưới các quĩ từ
thiện nhằm cổ vũ cho các xã hội mở. Mạng lưới này bao trùm
tất cả các nước của đế chế Soviet trước kia và nó đã lan sang
những phần khác của thế giới: Nam Phi, mười nước Nam
châu Phi, mười sáu nước Tây Phi, Haiti, Guatemala, Miến
Điện, và gần đây hơn Indonesia. Cũng có một Viện Xã hội
mở [Open Society Institute] ở Hoa Kì. Mỗi quĩ quốc gia có
hội đồng quản trị và nhân viên riêng của mình những người
quyết định những ưu tiên riêng của họ và chịu trách nhiệm về
các hoạt động của quĩ trong nước mình. Chúng hỗ trợ xã hội
dân sự; chúng cũng cố gắng làm việc với chính quyền trung
ương và địa phương bởi vì một chính phủ dân chủ và hiệu quả
là một thành phần cốt yếu của một xã hội mở, nhưng chúng
thường bất hoà với chính phủ hoặc với một số hoạt động của
nó. Trong một số nước, nổi bật ở Slovakia và Croatia, các quĩ
đã thành công trong huy động xã hội dân sự chống lại chế độ
áp bức. Ở Belarus và Miến Điện, các quĩ bị cấm và hoạt động
từ bên ngoài. Ở Serbia, nó hoạt động trong những hoàn cảnh
gieo neo. Ngoài ra, chúng tôi có một mạng lưới các chương
trình trong những lĩnh vực mà mạng lưới tham gia tích cực
nhất: giáo dục bậc cao và giáo dục phổ thông; thanh niên;
Dẫn nhập
__________________________________________________
x
pháp trị, tư pháp và hành pháp, bao gồm cả nhà tù; nghệ thuật
và các định chế văn hoá; thư viện, xuất bản, và Internet; các
phương tiện thông tin; các tầng lớp dân cư dễ bị tổn thương
như những người thiểu năng tâm thần; các sắc tộc thiểu số,
với nhấn mạnh đặc biệt đến những người di gan; sức khoẻ
cộng đồng, lạm dụng rượu và ma tuý; và vân vân.
Tôi có được sự công nhận rộng rãi, thực ra bị cường điệu,
như một loại guru tài chính nào đó, nhưng những thành tích
của tôi do giữ các quan điểm về các vấn đề chính trị và an
ninh được công nhận ít rõ hơn. Thực ra, tôi chỉ là một trong
nhiều người hành nghề tài chính; song tôi hầu như là người
duy nhất thực hành ngăn chặn khủng hoảng một cách có mục
đích và có tổ chức.
Trong cuốn sách này tôi chủ trương rằng các nền dân chủ
trên thế giới nên thiết lập một liên minh với mục đích kép, thứ
nhất, để cổ vũ cho phát triển các xã hội mở ở riêng từng nước
và, thứ hai, để củng cố luật pháp và các định chế quốc tế cần
thiết cho một xã hội mở toàn cầu.
Chúng ta sống trong một thế giới được đặc trưng bởi trao
đổi tự do về hàng hoá và dịch vụ và thậm chí còn hơn bởi sự
di chuyển tự do của vốn. Kết quả là, lãi suất, tỉ giá hối đoái,
và giá cổ phiếu ở nhiều nước khác nhau gắn kết chặt chẽ với
nhau, và các thị trường tài chính có ảnh hưởng ghê gớm đến
tình hình kinh tế ở mọi nơi. Vốn tài chính có được một vị trí
đặc ân. Vốn dễ lưu động hơn các yếu tố sản xuất khác, và vốn
tài chính thậm chí còn lưu động hơn các dạng khác của vốn.
Toàn cầu hoá các thị trường tài chính đã làm giảm khả năng
của các nước riêng biệt để đánh thuế và điều tiết vốn vì nó có
thể chuyển sang chỗ khác. Căn cứ vào vai trò quyết định mà
vốn tài chính quốc tế đóng trong vận may của các nước riêng
biệt, nên không phải không thích hợp để nói về một hệ thống
tư bản chủ nghĩa toàn cầu.
Chúng ta có thể nói về thắng lợi của chủ nghĩa tư bản trên
thế giới, song chúng ta chưa thể nói về thắng lợi của dân chủ.
Có một sự không xứng đôi nghiêm trọng giữa tình hình chính
trị và kinh tế thịnh hành trên thế giới ngày nay. Chúng ta có
Dẫn nhập
__________________________________________________
xi
một nền kinh tế toàn cầu, song những dàn xếp chính trị vẫn
dựa vững chắc vào chủ quyền quốc gia. Làm sao có thể dung
hoà nhu cầu của một xã hội toàn cầu với các quốc gia có chủ
quyền? Đó là vấn đề cốt yếu đối mặt với chúng ta ngày nay.
Chủ nghĩa tư bản và dân chủ không nhất thiết gắn bó chặt
chẽ với nhau. Có tương quan nào đó: Tăng các tiêu chuẩn
sống và sự hình thành một tầng lớp trung lưu có xu hướng tạo
áp lực cho quyền tự do và dân chủ; chúng cũng có xu hướng
ủng hộ ổn định chính trị lớn hơn. Song mối liên hệ còn xa mới
là tự động. Các chế độ áp bức không nới lỏng sự kìm kẹp của
chúng về quyền lực một cách tự nguyện, và chúng thường
được trợ giúp và tiếp tay bởi các giới kinh doanh, cả nước
ngoài và nội địa. Chúng ta có thể thấy điều này ở nhiều nước,
đặc biệt ở những nơi dính đến tài nguyên thiên nhiên như dầu
hay kim cương. Có lẽ mối đe doạ lớn nhất đối với quyền tự do
và dân chủ trên thế giới ngày nay là từ sự hình thành các liên
minh tội lỗi giữa chính phủ và giới kinh doanh.
Đây không phải là hiện tượng mới. Nó thường được gọi là
chủ nghĩa phát xít, và nó đặc trưng cho Italy của Mussolini và
ở mức độ khác nhau cho nước Đức của Hitler, Tây Ban Nha
của Franco, Bồ Đào Nha của Salazar. Ngày nay nó có các
hình thức khác nhau, nhưng nó có thể được phát hiện ra ở
Peru của Fujimori, Zimbabwe của Mugabe, Miến điện của
SPDC, Malaysia của Mahathir, chỉ nhắc tới vài trường hợp.
Làm bối rối hơn, sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản cũng đã
dẫn tới một liên minh tội lỗi giữa giới kinh doanh lớn và
chính phủ ở nhiều nước, gồm có Nga. Có thể thấy diện mạo
bề ngoài của quá trình dân chủ, song quyền lực nhà nước
được hướng trệch làm lợi cho các giới tư nhân. Các nước dân
chủ không chú ý nhiều đến tình hình chính trị thịnh hành ở
các nước khác: Các ưu tiên khác thường có địa vị cao hơn.
Thế nhưng nhân dân sống trong các chế độ áp bức cần sự giúp
đỡ từ bên ngoài; nhiều khi đó là cứu tinh duy nhất của họ.
Chủ nghĩa tư bản rất thành công trong tạo ra của cải, song
chúng ta không thể dựa vào nó để đảm bảo tự do, dân chủ, và
pháp trị. Kinh doanh có động cơ là lợi nhuận; nó không được
Dẫn nhập
__________________________________________________
xii
thiết kế để bảo vệ các nguyên lí phổ quát. Hầu hết những
người kinh doanh là các công dân ngay thẳng; nhưng điều đó
không làm thay đổi sự thực là kinh doanh được tiến hành vì
lợi lộc tư nhân chứ không vì lợi ích công cộng. Trách nhiệm
hàng đầu của ban quản lí là với các chủ doanh nghiệp, không
phải với một thực thể u mơ nào đó được gọi là lợi ích công
cộng - mặc dù các doanh nghiệp thường cố gắng, hoặc ít nhất
làm ra vẻ, hoạt động theo cách có tinh thần vì cái chung vì
điều đó là tốt cho doanh nghiệp. Nếu chúng ta chăm nom cho
các nguyên lí phổ quát như quyền tự do, dân chủ, pháp trị,
chúng ta không thể phó mặc chúng cho sự chăm sóc của các
lực lượng thị trường; chúng ta phải thiết lập các định chế khác
nào đó để bảo vệ chúng.
Tất cả điều này là quá hiển nhiên để phát biểu, thế mà phải
được nói ra vì có tín điều được tin một cách rộng rãi là, các thị
trường sẽ lo liệu cho mọi nhu cầu của chúng ta. Nó thường
được gọi là “laissez-faire” ở thế kỉ thứ mười chín, song tôi đã
tìm ra được một từ hay hơn: thuyết thị trường chính thống.
Những người theo thuyết thị trường chính thống cho rằng lợi
ích công được phục vụ tốt nhất khi người dân được phép theo
đuổi tư lợi của riêng họ. Đây là một ý tưởng hấp dẫn, nhưng
chỉ là một nửa sự thật. Các thị trường là thích hợp tuyệt vời
cho theo đuổi lợi ích tư nhân, nhưng chúng không được thiết
kế để chăm lo cho lợi ích chung. Duy trì bản thân cơ chế thị
trường là một lợi ích chung như vậy. Những người tham gia
thị trường cạnh tranh không phải để duy trì cạnh tranh mà là
để thắng; nếu có thể, chúng sẽ loại bỏ cạnh tranh.
Bảo vệ lợi ích chung thường là nhiệm vụ của nhà nước quốc
gia. Nhưng quyền lực của quốc gia đã co lại do các thị trường
vốn toàn cầu được mở rộng. Khi vốn tự do di chuyển, nó có
thể bị đánh thuế và điều tiết chỉ với rủi ro xua đuổi nó đi. Vì
vốn là thiết yếu cho tạo ra của cải, các chính phủ phải thoả
mãn các nhu cầu của nó, thường làm hại đến những cân nhắc
khác. Xua đuổi vốn có thể gây hại hơn là đánh thuế và điều
tiết có thể gây ra. Điểm này mới đây đã được làm rõ bởi sự
Dẫn nhập
__________________________________________________
xiii
thất bại ngoạn mục của Oscar Lafontaine, bộ trưởng tài chính
Đức, khi ông thử tăng gánh nặng thuế lên kinh doanh.
Theo cách nào đấy, đó là một sự phát triển đáng thú vị.
Doanh nghiệp tư nhân tốt hơn nhà nước về tạo ra của cải, và
cạnh tranh tự do ở qui mô toàn cầu đã dẫn đến một sự gia tốc
về năng suất. Hơn nữa, nhà nước thường lạm dụng quyền lực
của mình; toàn cầu hoá cho một mức độ tự do cá nhân mà
không nhà nước nào có thể cung cấp.
Nhưng có mặt trái. Năng lực của nhà nước để thực hiện các
chức năng mà công dân kì vọng ở nó bị suy yếu. Đây sẽ
không phải là một nguyên nhân đáng lo lắng nếu có thể trông
mong ở các thị trường tự do để chăm lo mọi nhu cầu, nhưng
rõ ràng không phải vậy. Một số nhu cầu tập thể của chúng ta
hầu như quá hiển hiên để phải nhắc đến: hoà bình và an ninh,
luật và trật tự, quyền con người, bảo vệ môi trường, và yếu tố
nào đó về công bằng xã hội. Các giá trị thị trường chỉ bày tỏ
cái mà một người tham gia sẵn lòng trả cho người khác trong
trao đổi tự do và không bày tỏ các lợi ích chung của họ. Kết
quả là, các giá trị xã hội chỉ được phục vụ bởi những dàn xếp
xã hội và chính trị, cho dù chúng ít hiệu quả hơn các thị
trường.
Ngay cả để phục vụ các lợi ích cá nhân, cơ chế thị trường có
những hạn chế và khuyết tật nhất định mà những người theo
thuyết thị trường chính thống bỏ qua. Một là, các thị trường
tài chính là bất ổn định một cách cố hữu. Lí thuyết cạnh tranh
hoàn hảo coi các đường cung và cầu là cho trước một cách
độc lập. Nơi hai đường gặp nhau, ta có cân bằng. Nhưng các
giả thiết theo đó khái niệm cân bằng được xây dựng hiếm khi
được thoả mãn trong thế giới thực tế. Trong lĩnh vực tài chính
chúng là không thể đạt được. Các thị trường tài chính tìm
cách chiết khấu tương lai mà tương lai lại tuỳ thuộc vào hiện
tại nó được chiết khấu ra sao. Căn cứ vào sự hiểu biết không
hoàn hảo của những người tham gia, kết quả là không xác
định một cách cố hữu. Như thế, ngược với ý tưởng về một cơ
chế tự cân bằng, tính ổn định của các thị trường tài chính cần
được bảo vệ bằng chính sách công.