Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Vật liệu từ
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
ĐOÀN MINH THỦY
BÀI GIẢNG
VẬT LIỆU TỪ
Quy Nhơn 2021
MỞ ĐẦU
Vật liệu từ và spintronic có mặt khắp nơi trong các ứng dụng công nghệ hiện đại, ví
dụ như trong động cơ điện, máy phát điện, cảm biến và thiết bị truyền động, lưu trữ và xử
lý thông tin. Công nghệ y tế cũng đã được hưởng lợi rất nhiều từ các vật liệu từ tính - đặc
biệt là các hạt nano từ tính - cho các phương pháp điều trị và chẩn đoán.
Tất cả các ứng dụng nêu trên đều dựa vào các đặc tính của vật liệu được sử dụng. Các
đặc tính này lần phụ thuộc vào các tính chất nội tại của chất tạo vật liệu và các điều kiện
bên ngoài. Tính chất nội tại liên quan đến các nguyên tố được sử dụng và thuộc tính của
chúng, ví dụ như mômen từ nguyên tử, tương tác trao đổi giữa các nguyên tử; điều kiện bên
ngoài liên quan đến các đặc tính cấu trúc và vi cấu trúc của vật liệu được sử dụng, ví dụ
như cấu trúc tinh thể, kích thước hạt và các pha ranh giới hạt của chúng.
Mục tiêu của Học phần là trang bị cho học viên kiến thức cơ bản và chuyên sâu về
các vấn đề: Phân loại vật liệu từ và nguồn gốc nguyên tử của từ tính; Các hiện tượng nghịch
từ, thuận từ, sắt từ, phản sắt từ, ferit và các hiện tượng trong vật liệu từ như tính dị hướng
từ; Cấu trúc đômen và cơ chế từ hóa vật liệu từ; Cấu trúc, yêu cầu và ứng dụng của các loại
vật liệu từ mềm, vật liệu ghi từ và vật liệu từ cứng và Vật liệu từ có cấu trúc nano và màng
mỏng.
Nội dung học phần gồm hai phần: Phần một là từ học và phần hai là vật liệu từ, được
trình bày trong 10 chương. Chương 1 và Chương 2 trình bày các kiến thức cơ sở về từ học
bao gồm các khái niệm cơ bản, các đại lượng đặc trưng cho vật liệu từ, phân loại vật liệu
từ và nguồn gốc nguyên tử của từ tính; Chương 3, 4, 5 là các lý thuyết về nghịch từ, thuận
từ, sắt từ, phản sắt từ và ferit; Chương 6 là các hiện tượng trong vật liệu từ. Chương 7, 8, 9
trình bày các cấu trúc, yêu cầu và ứng dụng của các loại vật liệu từ mềm, vật liệu ghi từ và
vật liệu từ cứng; Chương 10 đề cập đến vật liệu từ hiện đại là vật liệu từ có cấu trúc nano
và màng mỏng.
Một điều cần lưu ý là trong tài liệu này cả hai hệ đơn vị là hệ SI (Hệ đon vị quốc tế)
hoặc mks, và hệ cgs (điện từ hoặc emu) đều được sử dụng, nhưng chủ yếu là hệ đơn vị SI,
còn Hệ cgs được sử dụng khi có sự thuận lợi. Vấn đề sử dụng hệ đơn vị trong từ học và vật
liệu từ khá phức tạp. Hệ SI, hiện được giảng dạy trong tất cả các khóa học vật lý, là tiêu
chuẩn cho các nghiên cứu khoa học trên toàn thế giới. Tuy nhiên, nó đã không được một
số nhà từ học ưu chuộng, nhiệt tình chấp nhận. Mặc dù cả hai hệ thống đều mô tả thực tế
vật lý giống nhau, nhưng chúng bắt đầu từ những cách hình dung có phần khác nhau về
thực tại. Hệ SI có lợi thế rõ ràng khi xem xét sự ứng xử điện và từ cùng nhau, như khi xử
lý các dòng điện được tạo ra bên trong vật liệu bằng hiệu ứng từ (dòng điện xoáy). Việc kết
hợp các đơn vị cgs điện từ và tĩnh điện trở nên rất lộn xộn, trong khi sử dụng SI thì rất đơn
giản. Hiện nay (đầu thế kỷ XXI), hệ SI được sử dụng rộng rãi ở Châu Âu, đặc biệt là đối
với các vật liệu từ mềm (tức là các vật liệu không phải nam châm vĩnh cửu). Ở Hoa Kỳ và
Nhật Bản, hệ thống cgs – emu vẫn được phần lớn các nhà nghiên cứu sử dụng, mặc dù việc
sử dụng SI đang tăng dần. Cả hai hệ đều được tìm thấy trong các công trình tham khảo, tài
liệu nghiên cứu, tài liệu và thông số kỹ thuật của thiết bị. Đó là lý do cả hai hệ đơn vị đều
được sử dụng trong tài liệu này.
- 1 -
Chương 1
NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Đọc xong chương này học viên nắm được các vấn đề sau:
- Sơ lược về lịch sử phát triển vật liệu từ.
- Các khái niệm cơ bản trong từ học như: tương tác giữa các cực từ, từ trường, lực
từ, mômen tử.
- Các đại lượng lượng đặc trưng cho vật liệu từ như: độ từ hóa, độ từ cảm, độ từ
cảm và độ từ thẩm.
- Phân loại và các đặc trưng vật liệu từ.
1.1. Sơ lược lịch sử vật liệu từ
Theo truyền thuyết phổ biến nhất về sự phát hiện ra nam châm, cách đây khoảng
4.000 năm một người chăn cừu già người Cretan tên
là Magnes, khi chăn gia súc trong khu vực Magnesia
(thuộc miền Bắc Hy Lạp), đã rất ngạc nhiên trước hiện
tượng các đinh dưới đế giày và đầu gậy bịt kim loại
của của ông có bám dính những viên đá đen lớn. Sau
này người ta xác định được rằng đó là đá vôi chứa
magnetite, gọi là loadstone. Loại đá này có từ tính tự
nhiên với thành phần hóa học là Fe3O4 và đươc từ hóa
bởi sét. Tên gọi magnet (nam châm) có nguồn gốc là
tiếng Hy lạp có lẻ bắt nguồn từ tên vùng Magnesia.
Từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên (TCN),
các câu chuyện về từ tính bắt đầu xuất hiện trong các bài viết
của Lucretius (triết gia La Mã, khoảng 99 - 55 TCN) và Pliny
(triết gia La Mã, khoảng 23 - 79 SCN). Pliny đã viết về một
ngọn đồi gần sông Indus được tạo nên hoàn toàn bằng đá có khả năng hút sắt. Ông đã
đề cập đến sức mạnh ma thuật của magnetite trong các bài viết. Nhiều năm sau khi được
khám phá, magnetite được bao quanh trong mê tín và được coi là có sức mạnh ma thuật,
chẳng hạn như khả năng chữa lành bệnh, làm hoảng sợ linh hồn ma quỷ, có khả năng
hút và phá tan các con thuyền làm bằng sắt... Người ta tin rằng có những hòn đảo mà
toàn bộ được tạo bởi loadstone, do có từ tính nên chúng có thể hút các tàu bè bằng sắt
qua lại, làm chúng biến mất một cách bí ẩn. Truyền thuyết cũng đã cho rằng, Archimedes
(287 - 212 TCN) đã sử dụng từ tính của loadstone để rút các cốt sắt khỏi tàu đối phương
và làm chìm nó.
Ở phương Đông, Trung Hoa là nơi sớm nhất sử dụng
các đá nam châm, từ thời đại của Chu Công (thời đại nhà
Chu, 1122 - 256 trước Công nguyên) người ta đã biết sử dụng
nó làm kim chỉ nam để chỉ phương Nam-Bắc. Cuốn sách
chính thức ghi lại việc sử dụng các đá nam châm là cuốn
“Quỷ Cốc tử” (鬼谷子 , thầy dạy của Tôn Tẫn) vào thế kỷ
thứ 4 TCN. Đến cuối thế kỷ thứ XI, đầu TK thứ XII việc sử
dụng kim nam châm làm la bàn định hướng trong hàng hải
đã trở nên phổ biến.
magnetite
La bàn cổ
- 2 -
Peter Peregrinus (người Pháp) đã tiến hành nhiều thí nghiệm về vật liệu từ. Năm
1269 ông đã xuất bản các công trình nghiên cứu tính chất của nam châm và được ghi
nhận là những nỗ lực đầu tiên của khoa học tách thực tế khỏi mê tín dị đoan. Nó được
xem là báo cáo "khoa học" đầu tiên về nam châm và là một tác phẩm có ảnh hưởng rộng
lớn.
Tuy nhiên, tiến bộ đáng kể nhất là các công trình
của William Gilbert (1544 - 1603, nhà vật lý học, bác sĩ
và triết học tự nhiên người Anh). Ông là một trong những
nhà khoa học lớn của Anh cũng như của châu Âu thời kỳ
Phục hưng. Năm 1600 Ông công bố tác phẩm “Luận về
nam châm”. Trong tác phẩm này, Gilbert đã tổng hợp
những hiểu biết của con người về điện và từ từ thời
nguyên thủy đến thời kỳ Phục hưng. Đồng thời, ông cũng
trình bày những thí nghiệm để chứng tỏ những lý thuyết
của mình như việc Trái Đất là một nam châm khổng lồ.
Ông cũng là người đầu tiên tạo ra nam châm từ các vụn
sắt và phát hiện ra rằng có thể làm một vật mất từ tính
bằng nhiệt.
Năm 1743, Daniel Bernoulli (1700-1782, Nhà toán học người Hà Lan) là người
đầu tiên đưa ra ý tưởng tạo nam châm có hình móng ngựa mà vào thời trung cổ đã trở
thành biểu tượng của ngành khoa học kỹ thuật. Nam châm hình móng ngựa đầu tiên
được chế tạo bằng thép cácbon (Fe3C), sau đó là bằng thép coban và thép volfram. Nam
châm này tương đối yếu với tích năng lượng (BH)max ~ 1 MG.Oe (tích năng lượng là
một đại lượng đánh giá sức mạnh của nam châm vĩnh cửu), do vậy để có một nam châm
với sức mạnh vừa phải người ta phải dùng một lượng khá lớn kim loại.
Năm 1820, Hans Christian Oersted (1777-1851), người Đan Mạch) đã phát hiện ra
hiện tượng kim la bàn bị lệch hướng khi đặt gần một dây dẫn mang dòng điện. Thí
nghiệm này được coi là bước ngoặt trong lịch sử ngành từ học, được đặt tên là Thí
nghiệm Oersted. Sau Oersted, hàng loạt các nhà khoa học đã tiến hành các thí nghiệm
và các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa điện trường và từ trường như các thí
nghiệm của André-Marie Ampère, Carl Friedrich Gauss, Michael Faraday, dẫn đến việc
hình thành những kiến thức cơ bản về từ học cũng như từ trường.
James Clerk Maxwell (1831-1879, người Scotland) đã thiết lập mối quan hệ giữa
điện và từ, ông đã công bố một loạt các phương trình đơn giản là cơ sở cho lý thuyết
điện từ ngày nay. Điều đáng chú ý hơn là Maxwell đã phát triển ý tưởng của mình vào
năm 1862, hơn ba mươi năm trước khi J. Thomson (năm 1897) phát hiện ra điện tử, là
hạt vốn là nền tảng cho sự hiểu biết hiện tại về cả điện và từ tính.
Vào đầu những năm 1900, các nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu các vật liệu từ tính
khác với sắt và thép. Vào những năm 1930, các nhà nghiên cứu đã sản xuất nam châm
vĩnh cửu AlNiCo (là hợp kim gồm nhôm, niken và coban) mạnh mẽ đầu tiên. (BH)max
trong khoảng 4,45-5,5 MG.Oe.
Năm 1966, các nam châm đất hiếm đầu tiên đã được chế tạo từ Samari và Coban
(SmCo5) có (BH)max đạt 18 MG.Oe. Năm 1972, vật liệu này được phát triển với
(BH)max cao hơn 30 MG.Oe (Sm2Co17).
Năm 1983, công ty General Motors, Sumitomo Special Metals và Viện Hàn lâm
- 3 -
Khoa học Trung Quốc phát triển một sản phẩm có (BH)max rất cao 35 MG.Oe từ hợp
chất Neodym-sắt-Boron (Nd2Fe14B), gọi là nam châm NEO hoặc nam châm đất hiếm.
Vai trò của vật liệu từ ngày càng quan trọng, chúng gần như có mặt trong mọi thiết
bị công nghệ tiên tiến mà chúng ta đang sử dụng như máy tính, xe ô tô, máy phân tách,
máy phát điện, loa, điện thoại di động .v.v.
Thế kỷ 20 là thế kỷ mà từ học được phát triển mạnh mẽ, từ việc tạo ra các vật liệu
từ đa chức năng đến xây dựng các lý thuyết vi mô về hiện tượng từ dựa trên các lý thuyết
của cơ học lượng tử và vật lý chất rắn như lý thuyết vi từ học, lý thuyết về đômen từ,
vách đômen, vật liệu sắt từ, tương tác trao đổi, phản sắt từ,... Đi kèm theo đó là sự phát
triển của nhiều kỹ thuật chụp ảnh cấu trúc từ và đo đạc các tính chất từ của vật liệu. Cuối
thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, một ngành mới với nhiều ứng dụng là spintronics (điện tử học
spin) ra đời. Đây là một ngành nghiên cứu mới dựa trên những thành tựu của từ học và
điện tử học, nhằm tạo ra các linh kiện mới dựa trên việc điều khiển spin của điện tử.
Hình 1.1 biểu diễn sự phát triển của vật liệu từ cứng (dùng làm nam châm vĩnh
cữu) qua các thập niên. Với sự tiến bộ trong khám phá vật liệu mới, có thể thấy rằng,
cùng một năng lượng từ nhưng kích thước nam châm giảm rất mạnh.
1.2. Một số khái niệm về từ tĩnh
1.2.1. Tương tác giữa hai cực từ
Giữa điện học và từ học có nhiều khái niệm
tương đồng. Tuy nhiên, khác với điện học, trong
từ học không có khái niệm từ tích (đơn cực từ,
magnetic monopole). Cụ thể, khi ta cắt một thanh
nam châm có hai cực nam-bắc thành hai phần thì
các phần mới cũng có hai cực nam-bắc. Nếu tiếp
Hình 1.1. Sự phát triển của vật liệu từ.
Hình 1.2. Khi bẻ gẫy thanh nam
châm thành nhiều mảnh thì mỗi
mảnh lại trở thành một thanh
nam châm riêng biệt với các
cực nam (S) và cực bắc (N).
- 4 -
tục chia nhỏ hơn nữa thì các phần nhỏ cũng có hai cực
nam-bắc. Ta có thể xem các đầu một thanh nam châm rất
dài so với tiết diện là một đơn cực từ (gọi tắt là cực từ).
Cường độ của cực từ ký hiệu là p.
Quy ước: cực nam p < 0, cực bắc p > 0.
Lực tương tác giữa hai cực từ tỷ lệ với sức mạnh của
mỗi cực (cường độ) gọi là p1 và p2, tỷ lệ nghịch với bình
phương khoảng cách giữa chúng
1 2
2
p p
F
r
Hay
1 2
2
p p
F k
r
Trong đó, k là hệ số tỷ lệ. Giá trị và đơn vị của k và cực
từ và khoảng cách phụ thuộc vào việc chọn hệ đơn vi,
Trong hệ SI,
0 k
4
nên biểu thức này có dạng
0 1 2
2
p .p
F .
4 r
(1.1)
trong đó, µ0 = 4.10-7 H/m là độ từ thẩm trong chân không, r là khoảng cách giữa
hai cực từ, đơn vị là m. Đơn vị của F là N, đơn vị của p là A.m.
Đôi khi người ta còn viết (1.1) dưới dạng
1 2
2
0
1 p .p
F .
4 r
(1.2)
Biểu thức trên có dạng giống biểu thức lực tương tác Coulomb của hai điện tích q1 và
q2
1 2
2
0
1 q .q
F .
4 r
Lưu ý rằng, để có (1.2) thì trong (1.1) ta đã thay p1 op1 và p2 op2, đơn vị của
p1 và p2 trong trường hợp này là wb. Trong các phần sau ta sử dụng công thức (1.1),
có nghĩa là sử dụng p1 và p2 với đơn vị là A.m.
Trong hệ CGS k = 1 nên biểu thức này có dạng
1 2
2
p p
F
r
(1.3)
Trong hệ đơn vị này, cực từ không có đơn vị, đơn vị của r là cm, đơn vị của F là dyn.
1.2.2. Từ trường
Xét tương tác giữa hai cực từ p1 > 0 và p2 > 0, từ Pt. (1.1) ta biến đổi như sau
Tương tác giữa các cực từ
- 5 -
0 1 2 1
2 2 0 2 0 2
p .p p F . p Hp
4 r 4 r
(1.4)
Với
1
2
p
H
4 r
(1.4) cho thấy cực từ p2 chịu tác dụng của một lực. Lực này do trường
của cực từ p1 sinh ra, ký hiệu là H. Trường lực do cực từ p1 sinh ra
gọi là từ trường.
Đơn vị cường độ từ trường trong hệ SI là A/m.
Ở trên ta đã xét đối với p1 > 0 và p2 > 0, trong trường hợp p1, p2
cùng dấu ngược lại, hoặc ngược dấu thì sự biến đổi cũng tương tự
như trên.
Từ trường là trường véctơ. Hướng của từ trường thay đổi theo dấu của cực từ
(tương tự như điện trường gây ra bởi điện tích). Từ
trường sinh ra bởi cực bắc (p > 0) có hướng hướng ra
cực từ, ngược lại, từ trường sinh ra bởi cực nam (p <
0) có hướng hướng vào trong.
Tóm lại, nếu một cực từ cường độ p được đặt
trong từ trường
H
thì chịu tác dụng của một lực
F pH (1.5)
Nhận xét rằng: nếu cực nam (p < 0) được đặt trong từ trường
H
thì chịu tác dụng
của lực
F
ngược chiều với từ trường. Đối với cực bắc (p > 0) thì ngược lại.
Đơn vị cường độ từ trường trong hệ SI là A/m.
Trong vật lý từ trường được định nghĩa là môi trường vật chất bao quanh các hạt
mang điện chuyển động. Trong kỹ thuật người ta định nghĩa từ trường một cách đơn
giản hơn: từ trường là khoảng không gian mà trong đó một cực từ chịu tác dụng một
lực.
Từ trường có thể được gây ra bởi dòng điện chạy trong dây dẫn, chẳng hạn như
Hình 1.3.
- 6 -
dòng điện chạy trong dây dẫn thẳng hoặc cuộn dây solenoid (Hình 1.3a), hoặc bởi một
cực từ (Hình 1.3b). Khi dòng điện chạy trong cuộn dây solenoid dài và nhỏ thì ta có thể
xem từ trường trong lòng cuộn dây là từ trường đều (Hình 1.3a). Cường độ từ trường
xác định bởi:
H = nI (hệ SI) (1.6a)
trong đó, n là số vòng dây trên một đơn vị chiều dài, I là cường độ dòng điện. Hướng
của từ trường được xác định theo quy tắc nắm tay phải.
Ta có thể viết lại (1.6) theo dạng
I.N H
L
(1.6b)
trong đó, N là số vòng của cuộn dây và L là chiều dài cuộn dây.
Đơn vị của H trong hệ SI là: A/m
Lưu ý: Trong (1.6) đáng lẻ đơn vị của H là A nhân với (số vòng/m). Tuy nhiên ta có thể
xem n vòng này là một vòng với cường độ dòng điện là nI, do đó đơn vị trong trường
hợp này là A/m.
Cường độ từ trường của một số nguồn từ được cho trên Bảng 1.1. Chú ý rằng cảm
ứng từ (mật độ từ thông) trong chân không liên hệ với cường độ từ trường theo biểu
thức
B H 0
, trong hệ SI đơn vị của B là Wb/m2 hay T (tesla) cho nên người ta vẫn
thường dùng đơn vị T cho cường độ từ trường.
1.2.3. Lực tác dụng của từ trường
Như đã xét ở trên, khi một cực từ cường độ p được đặt trong một từ trường
cường độ H thì nó chịu tác dụng một lực F xác định bởi:
F pH (1.7)
Trong hệ SI, đơn vị của p là A.m, H (A/m), F (N). Nếu p > 0 (cực bắc) thì lực tác
dụng cùng hướng với từ trường và ngược lại.
Bảng 1.1. Cường độ từ trường của các nguồn khác nhau.
Vị trí, thiết bị Cường độ từ trường
(T)
Từ trường tạo bởi cơ thể người 3.10-10
Từ trường trái đất 3.10-5
- 5.10-5
Từ trường gần dây dẫn trong gia đình 10-4
Từ trường trên bề mặt mặt trời 10-2
Từ trường trên bề mặt nam châm Nd-Fe-B 0,4
Từ trường trong thiết bị cộng hưởng từ (MRI) 2
Từ trường tạo bởi cuộn dây siêu dẫn trong PTN 7 - 20
Từ trường xung (100 ns) 60
- 7 -
1.2.4. Mômen từ
Khi cho dòng điện chạy trong một vòng dây dẫn kín thì nó sinh ra một từ trường.
Từ trường này được đặc trưng bởi đại lượng gọi là mômen từ, ký hiệu là
m
, xác định
bởi
m IS (1.8)
trong đó, I là cường độ dòng điện chạy trọng vòng dây kín,
S
là véctơ diện tích có độ
lớn bằng diện tích vòng dây, hướng được xác định theo quy tắc nắm tay phải.
Lưu ý rằng từ trường sinh ra khi có dòng điện chạy trong vòng dây kín cũng giống
như từ trường sinh ra bởi một nam châm nên có thể xem nam châm này xác định một
mômen từ (Hình 1.6). Nếu cường độ mỗi cực từ là p > 0 (cực bắc) và – p (cực nam) cách
nhau một khoảng là l thì một nam châm xác định một mômen từ
m p
trong đó, p là cường độ cực từ, là véctơ hướng từ cực nam đến cực bắc.
Trong hệ SI đơn vị của mômen từ là A.m2
.
Trong hệ CGS đơn vị của mômen từ là
emu (electromagnetic unit).
Ở trên ta đã biết, khi một cực từ đặt trong
từ trường thì nó chịu tác dụng của một lực. Như
vậy, khi đặt một mômen từ (hay nam châm)
trong một từ trường thì cực nam chịu tác dụng
của lực F2, cực bắc chịu tác dụng của lực F1, hai
lực này bằng nhau về độ lớn nhưng ngược
chiều, tức là mômen từ chịu tác dụng của một
ngẫu lực (Hình 1.5). Ngẫu lực này có xu hướng
xoay mômen từ theo hướng của từ trường H.
1.2.5. Lưỡng cực từ, năng lượng của lưỡng
cực từ trong từ trường
1.2.5.1. Lưỡng cực từ (hay mômen lưỡng cực từ)
Lưỡng cực từ là cách gọi mômen từ khi chiều dài của thanh nam châm hoặc diện
Hình 1.4. Mômen từ m
sinh ra bởi dòng điện I chạy trong dây dẫn kín: a) dòng
điện chạy ngược chiều kim đồng hồ, m
hướng lên; b) ngược lại,
m
hướng xuống.
Hình 1.5.
- 8 -
tích vòng dây là rất nhỏ. Hình 1.6 biểu diễn các đường sức từ của lưỡng cực từ là một
nam châm và lưỡng cực từ đươc sinh ra do vòng dây có dòng điện chạy qua.
1.2.5.2. Năng lượng của lưỡng cực từ trong từ trường
Khi một mômen lưỡng cực từ được đặt trong một từ trường đều thì từ trường này
sẽ xoay mômen lưỡng cực từ một góc nào đó. Tức là từ trường (chính xác hơn là lực từ)
đã thực hiện một công. Công này được lưu trữ dưới dạng thế năng. Nó cũng chính là
năng lượng tương tác giữa lưỡng cực từ và từ trường.
Năng lượng tương tác giữa lưỡng cực từ
m
và tử trường
H
được tính theo công
thức
U m.H o
(hệ SI) (1.9)
Ta chứng minh công thức trên.
Mômen ngẫu lực trên lưỡng cực từ là
F x l Hp x l H x pl H x m o o o
Độ lớn của là: m Hsin o
,
trong đó, là góc giữa m và H.
Khi tử trường xoay lưỡng cực từ một góc d thì nó đã thực hiện một công dW
o
dU d m Hsin d
Công của từ trường thực hiện khi xoay lưỡng cực từ từ góc 1 đến góc 2 là
2 2
2
1
1 1
o o o 2 1
2 1
U dU m Hsin d m Hcos m H cos cos
U( ) U( )
Chọn 1 = /2 làm gốc, tức là từ trường vuông góc với mômen từ , khi đó W(1)
= 0 và 2 = . Từ biểu thức trên ta có
U m Hcos o
U mH 0
(1.10)
Hình 1.6. a) Đường sức từ của lưỡng cực từ là một nam châm và b) Đường
sức từ của lưỡng cực từ đươc sinh ra do vòng dây có dòng điện. chạy qua.
- 9 -
Công này chính là thế năng lưu trữ trong từ trường, nó cũng chính là năng lượng
tương tác của mômen từ m khi được đặt trong từ trường H.
Trong hệ CGS (1.10) có dạng
U mH
1.3. Các đại lượng đặc trưng cho vật liệu từ
1.3.1. Độ từ hóa (còn gọi là từ độ hay độ nhiễm từ) (magnetization)
Độ từ hóa của một chất được định nghĩa là tổng các mômen từ trong một đơn vị
thể tích chất đó, ký hiệu là
M
(một số tài liệu ký hiệu là
I
hoặc
J
), xác định bởi:
i
i
m
M
V
(1.11)
trong đó,
mi
là mômen từ thứ i, V thể tích của vật.
Trong hệ SI đơn vị của độ từ hóa là A/m (cùng đơn vị với H).
Trong hệ CGS đơn vị của độ từ hóa là emu/cm3
.
1.3.2. Cảm ứng từ (mật độ từ thông) (magnetic induction or magnetic flux density)
Cảm ứng từ tại một điểm trong từ trường là đại lượng đặc trưng cho độ mạnh yếu
của từ trường tại điểm đó. Đây là một đại lượng véctơ, ký hiệu là
B.
Trong môi trường là chân không thì véctơ cảm ứng từ
B
xác định bởi
B H 0 0
Trong môi trường vật liệu, véctơ cảm ứng từ
B
là tổng của cảm ứng từ trong chân
không và độ từ hóa của vật liệu:
B B M H M H M 0 0 0 0 0 (1.12)
trong đó,
M
là độ từ hóa của vật liệu.
Trong hệ SI đơn vị của cảm ứng từ là tesla (T) hay wb/m2
, đơn vị của H và M là
A/m.
Trong hệ CGS, đơn vị của cảm ứng từ là gauss (G). Tuy nhiên cần lưu ý rằng khi
chuyển sang hệ CGS thì M phải nhân với 4:
B H 4 M (1.13)
Giá trị chuyển đổi là: 1 T = 104 G
1.3.3. Độ từ cảm (hệ số từ hóa) (magnetic susceptibility)
Độ từ cảm, ký hiệu là , là hệ số tỷ lệ giữa độ từ hóa và cường độ từ trường ngoài
H:
M H (1.14a)
Đại lượng này cho ta biết mức độ phản ứng của vật liệu đối với từ trường ngoài.
Trong hệ SI, không có thứ nguyên.
- 10 -
Trong hệ CGS, đơn vị của là emu/(cm3
.Oe)
Trong trường hợp tổng quát, độ từ cảm của một chất không phải là hằng số, nó
có thể thay đổi theo từ trường ngoài. Trong trường hợp này được xác định bởi
dM
dH
, (1.14a)
gọi là độ từ cảm vi phân.
1.3.4. Độ từ thẩm (magnetic permeability)
Độ từ thẩm, ký hiệu là , là hệ số tỷ lệ giữa cảm ứng từ và cường độ từ trường
ngoài H:
B H (1.15)
Từ các biểu thức trên ta có thể xây dựng mối liên hệ giữa độ từ thẩm và độ từ cảm
như sau
B H M H H 1 H 0 0 0
So sánh với (1.15) ta có
0 1 (1.16)
Trong hệ SI đơn vị của độ từ thẩm là H/m.
Trong hệ CGS đơn vị của độ từ thẩm là G/Oe. Chú ý rằng biểu thức này cũng thay
đổi khi chuyển đơn vị
1 4 (1.17)
Độ từ thầm tương đối được ký hiệu và định nghĩa như sau:
r
0
1
Dễ dàng thấy được độ từ thẩm tương đối là đại lượng không thứ nguyên (giống độ từ
cảm).
1.4. Phân loại vật liệu từ
Dựa vào độ từ cảm người ta phân loại vật liệu từ theo từ tính tăng dần thành các
loại cơ bản sau:
- Vật liệu nghịch từ (yếu, -10-5 -10-6
)
- Vật liệu thuận từ (yếu, 10-6 10-3
)
- Vật liệu phản sắt từ (yếu, 10-4
)
- Vật liệu ferit (mạnh, 104
)
- Vật liệu sắt từ (rất mạnh, 50 106
)
Ngoài tính nghịch từ có bản chất khác, bốn loại còn lại khác nhau là do sự sắp xếp
các mômen từ của hạt (ion, nguyên tử, phân tử) và sự tương tác giữa các mômen đó.
1.4.1. Vật liệu nghịch từ
- 11 -
Vật liệu nghịch từ là vật liệu có độ từ cảm
âm, độ lớn chỉ vào cỡ 10-6
-10-5
(rất yếu). Nguồn
gốc tính nghịch từ là do chuyển động quỹ đạo của
điện tử quanh hạt nhân bị biến đổi dưới tác dụng
của từ trường ngoài. Cụ thể, khi có từ trường
ngoài, điện tử thực hiện chuyển động tiến động với
trục đối xứng là Oz. Lý thuyết đã chứng tỏ rằng, có
thể xem chuyển động của điện tử của nguyên tử
dưới tác dụng của từ trường ngoài H giống như khi
chưa có từ trường ngoài, nhưng phải kể thêm một
chuyển động phụ với tần số L, gọi là tần số
Lamor (Hình 1.7) . Chuyển động này tạo nên dòng
cảm ứng. Theo định luật Lenz, dòng cảm ứng sinh
ra từ thông ngược với biến đổi của từ trường ngoài. Vật liệu nghịch từ được đặc trưng
bởi sự phụ thuộc của độ từ hóa M vào cường độ từ trường ngoài H như được biểu diễn
trên Hình 1.8. Nhận thấy rằng độ từ hóa nghịch từ âm và biến đổi tuyến tính theo cường
độ từ trường
Độ từ cảm nghịch từ của một số chất:
Cu ( = -0,94.10-5
); Pb (-1,70.10-5
); Nước (-0,88.10-5
)
1.4.2. Vật liệu thuận từ
Vật liệu thuận từ là vật liệu có độ từ cảm tỷ nhưng độ lớn rất nhỏ (cỡ
5 3 10 10
). Vật liệu thuận từ cấu tạo từ những nguyên tử hoặc ion mà mômen từ cô lập
định hướng hỗn loạn do tác dụng của nhiệt độ (H 1.9a). Do vật, ta nói vật liệu thuận từ
là vật liệu không có trật tự từ. Khi chưa có từ trường ngoài đặt vào, xét về tổng thể vật
liệu không có độ từ hóa do các mômen từ tự khử nhau. Khi có từ trường ngoài đặt vào,
các mômen từ có xu hướng định hướng theo từ trường ngoài nên tổng các mômen từ
khác không, tức là xuất hiện độ từ hóa M, M tăng dần theo H theo quy luật tuyến tính
(H 1.9b), Khi từ trường H đạt giá trị đủ lớn thì M đạt giá trị bão hòa. Khi đó tất cả các
vectơ mômen từ đều đã hướng theo hướng từ trường ngoài. Ngoài ra, chất thuận từ còn
được đặc trưng bởi tỷ lệ nghịch với nhiệt độ T, Đây là Định luật Curie (do
Pierre Curie phát hiện). Quy luật này cũng có thể biểu diễn dưới dạng sự biến đổi tuyến
tính của nghịch đảo độ từ cảm theo nhiệt độ, 1/ T (Hình 1.9c).
Hình 1.8. Đường M(H) của chất nghịch từ.
Hình 1.7.